Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***-----------

ĐẶNG XUÂN SƠN
MSSV: 1055010225

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2010 - 2014

GVHD: ThS. LÊ VIỆT SƠN
Giảng viên Khoa Luật Hành chính – Nhà nước

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ........................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm đƣơng sự trong vụ án hành chính .................................... 5
1.1.1. Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính ........................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án hành chính .................................................. 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án
hành chính...................................................................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính .............. 8


1.2.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính ............... 9
1.3. Những quy định của pháp luật Tố tụng hành chính về quyền và nghĩa vụ
của đƣơng sự trong vụ án hành chính ....................................................................... 11
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong vụ án hành chính....................... 12
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ riêng của đương sự trong vụ án hành chính ........................ 37
1.4. Ý nghĩa của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án
hành chính.................................................................................................................... 43
1.4.1. Đối với hoạt động tố tụng ................................................................................... 43
1.4.2. Đối với đương sự trong vụ án ............................................................................. 44
1.4.3. Đối với hoạt động quản lý nhà nước................................................................... 45
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH .................. 47
2.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án hành
chính.. ........................................................................................................................... 47
2.1.1. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong vụ án
hành chính ..................................................................................................................... 48
2.1.2. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ riêng của đương sự trong vụ án
hành chính ..................................................................................................................... 61
2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thúc đẩy việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của đƣơng sự trong vụ án hành chính ................................................................. 65


2.3.1. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự ................. 66
2.3.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ riêng của đương sự .................. 72
2.3.3. Một số giải pháp về mặt thực tiễn ....................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

- Bộ Luật TTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ
sung năm 2011

- Luật TTHC

: Luật Tố tụng hành chính

- NQ 02/2011

: Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối
cao hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
TTHC

- BLHS

: Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009

- VAHC

: Vụ án hành chính

- TTHC

: Tố tụng hành chính

- TTDS


: Tố tụng dân sự

- TAND

: Tòa án nhân dân

- TANDTC

: Tòa án nhân dân Tối cao

- VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

- UBND

: Ủy ban nhân dân


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa, với việc đổi mới, mở cửa để hội nhập quốc tế,
Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm tới việc xây dựng chính sách pháp luật để
phù hợp với xu thế và tình hình mới, nhất là khi nước ta đã gia nhập WTO. Bên
cạnh các văn bản pháp luật về đầu tư, kinh doanh thương mại, hợp đồng… các văn
bản pháp luật tố tụng cũng đã được chú trọng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý
vững chắc cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Trong đó, việc xây dựng các quy định pháp luật tố tụng hành chính (TTHC) là
cần thiết để đảm bảo cho cơ chế giải quyết các khiếu kiện phát sinh không ngừng và

ngày càng phức tạp. Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC) được ban hành năm
2010 thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (VAHC) năm 1996,
được sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2006 đã có những thay đổi đáng kể để đáp ứng
mục tiêu trên. Đáng chú ý, Luật TTHC đã sửa đổi và bổ sung thêm nhiều quy định
về quyền và nghĩa vụ của đương sự như mở rộng quyền được khởi kiện, quyền yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình
để giao nộp cho Tòa án, yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, ủy quyền cho người
khác tham gia tố tụng, tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích cho
mình… Những thay đổi này tạo nên nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều kiện thuận
lợi cho các đương sự khi yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp của mình, thơng
qua đó cũng góp phần cho việc giải quyết các VAHC được suôn sẻ và đúng đắn.
Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực khi Luật TTHC được áp dụng, thực tiễn
quá trình áp dụng vẫn cịn những sai sót, khơng đúng đắn dẫn đến nhiều oan sai, tỉ
lệ án bị hủy, bị sửa vẫn còn cao, chất lượng xét xử vẫn chưa đạt được như mong
muốn. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên, trong đó phải kể đến việc các quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC không được bảo đảm thực hiện đúng. Từ
thực tiễn xét xử những năm qua đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót của pháp luật
TTHC khi quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC. Vì việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự là cơ sở để Tòa án trong việc giải quyết vụ án
nên những hạn chế, thiếu sót đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình và chất
lượng của việc giải quyết vụ án.
Nhận thức được điều này, chúng tôi muốn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
cũng như những quy định của pháp luật TTHC hiện nay về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong VAHC. Trên cơ sở đó, đánh giá những thành tựu và chỉ ra những
hạn chế, bất cập khi áp dụng các quy định này trong thực tiễn và đưa ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật cũng như thực tiễn để việc thực hiện quyền và nghĩa vụ


2


của đương sự đạt được những kết quả cao hơn. Để giải quyết được những vấn đề
trên, cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và chun sâu, vì vậy
chúng tơi chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án hành
chính” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể và chuyên sâu về
“Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính”. Tuy nhiên, quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong VAHC là một vấn đề rộng gồm nhiều quyền và nghĩa
vụ, nên cũng có những cơng trình nghiên cứu có đề cập đến một phần nào đó của
quyền và nghĩa vụ của đương sự. Chúng tơi có thể kể ra ở đây như Khóa luận cử
nhân trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012: “Đương sự trong vụ án hành chính”
tác giả Đinh Thị Ngọc Yến, bài viết “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
trong vụ án hành chính” của tác giả Cấn Thùy Dung đăng trên tạp chí Kiểm sát số
04/2011, ngồi ra cịn những Luận văn, bài báo viết về một vấn đề nào đó liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC như Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân Luật trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 với đề tài “Thi
hành án hành chính” của tác giả Huỳnh Thị Khánh Ly, Luận văn thạc sỹ Luật
trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 với đề tài “Chứng cứ trong
vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Sơn Lâm, bài viết “Đối thoại trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính” của tác giả Lê Thu Hằng đăng trên tạp chí Nghề Luật
số 04/2011, bài viết “Đối thoại trong vụ án hành chính”, của tác giả Trần Thị Tố
Thu đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 01/2012, bài viết “Thi hành án hành
chính theo Luật Tố tụng hành chính” (2 kỳ) của tác giả Lê Việt Sơn đăng trên tạp
chí Kiểm sát số 10 và 11/2013, bài viết “Một số ý kiến về nguyên tắc quyền quyết
định và tự định đoạt của người khởi kiện trong Tố tụng hành chính” của tác giả Lê
Việt Sơn đăng tại kỷ yếu tọa đàm khoa học Pháp luật về giải quyết tranh chấp hành
chính ở Việt Nam, Khoa Luật Hành Chính – Nhà nước, Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, cơng trình Nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2014 với đề tài
“Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong vụ án hành
chính” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thị Hồi Thu, Nguyễn Thị

Mộng Trâm, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết “Tịa án xử lý
như thế nào đối với trường hợp người bị kiện quyết định hành chính hủy bỏ, thay
thể hoặc sửa đổi quyết định bị kiện?” của tác giả Dương Hốn đăng trên tạp chí
Tịa án nhân dân số 08/2012…
Tuy nhiên, như đã đề cập những cơng trình trên đều chỉ đề cập mà khơng
nghiên cứu cách cụ thể và đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC.


3

Vì vậy, ở đề tài này, chúng tơi sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu về các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC, trên cơ sở đó đưa ra
những bất cập trong việc thực hiện các quy định này, cuối cùng chúng tôi đề xuất
các giải pháp về mặt pháp lý và thực tiễn để hồn thiện vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý về quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong VAHC. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong
muốn đạt được ba mục đích sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC,
trên cơ sở đó tạo tiền đề cho việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC.
Hai là, làm rõ được các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong VAHC trên cơ sở nghiên cứu tổng quát và chi tiết, đặt để các quyền
và nghĩa vụ trong mối quan hệ tương tác với nhau.
Ba là, đưa ra những bất cập của pháp luật, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hồn
thiện quy định của pháp luật, cũng như những giải pháp thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC, từ đó nhận diện các bất
cập của pháp luật TTHC và kiến nghị giải pháp hoàn thiện.

Về phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên
cứu trên cơ sở Điều 49, các Điều luật khác có liên quan trong Luật TTHC và hướng
dẫn tại Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao (TANDTC) (NQ 02/2011). Bên cạnh đó, cịn có một số văn bản pháp luật
có liên quan như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, và các văn bản về xử lý vi phạm hành
chính. Ngồi ra, chúng tơi cịn nghiên cứu dựa trên các Báo cáo tổng kết công tác
của TANDTC và thực tiễn các VAHC trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được hình thành trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lê-nin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về nhà nước và pháp luật. Trong
luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh để làm rõ
các quy định pháp luật, thêm vào đó là các phương pháp lịch sử, phương pháp thống
kê, tổng kết thực tiễn, diễn dịch và quy nộp để làm rõ các đối tượng nghiên cứu
nhằm đạt được mục đích đề ra.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài


4

Với mục đích và đối tượng nghiên cứu của mình, đề tài có ý nghĩa là tài liệu
tham khảo cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong VAHC. Bên cạnh đó, chúng tơi mong muốn những kiến thức pháp
luật được cung cấp trong đề tài sẽ làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học có liên
quan, đồng thời, cung cấp những kiến thức cần thiết tới người đọc có quan tâm, và
nếu có thể được là những đương sự trong các VAHC.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật đề tài “Quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong vụ án hành chính” gồm hai chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong vụ án hành chính


5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm đƣơng sự trong vụ án hành chính
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
VAHC, trước hết cần có sự hiểu biết cơ bản về đương sự và đặc điểm của đương sự,
trên cơ sở đó làm nền tảng cho việc hiểu quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
VAHC.
1.1.1. Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính
Trong một VAHC ln tồn tại các nhóm chủ thể với mục đích tham gia tố tụng
khác nhau. Trong đó, trọng tâm và mục đích của q trình giải quyết VAHC là
đương sự, là để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, làm rõ khái
niệm đương sự trong VAHC là một vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Tuy
nhiên, pháp luật thực định chưa có một khái niệm hồn chỉnh nào về đương sự trong
VAHC, do đó chúng tơi tiếp cận khái niệm này từ nhiều nguồn khác nhau để có thể
đưa ra một khái niệm hồn chỉnh nhất cho q trình nghiên cứu.
Đầu tiên, dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm đương
sự được hiểu là “đối tượng trong một vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết”1. Còn
theo Từ điển Luật học đương sự được hiểu là “chủ thể có quyền và nghĩa vụ được
giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án”2. Nếu như Từ điển tiếng Việt
chỉ nói được sự liên quan giữa người là đương sự với vụ việc được giải quyết thì Từ
điển Luật học đã làm rõ hơn ở chỗ đưa ra được mối liên quan cụ thể giữa quyền và

nghĩa vụ của họ với quá trình giải quyết vụ án. Nhìn chung cả hai khái niệm này
đều giải thích chung nhất, dùng để chỉ chung cho đương sự trong các vụ án dân sự
lẫn hành chính. Cũng vì vậy, khái niệm này chỉ tiếp cận theo ngữ nghĩa thông
thường mà chưa thật sự rõ ràng, không thể hiện được bản chất của khái niệm đương
sự trong VAHC.
Tiếp cận dưới góc độ quan điểm chính thống của các nhà nghiên cứu, theo
Giáo trình Đại học Luật Hà Nội, “đương sự trong VAHC được xác định đó là người
khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”3, khái niệm này
giống với phần giải thích từ ngữ theo Khoản 5 Điều 3 Luật TTHC: “Đương sự bao
gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Cả hai
1

Hoàng Phê (chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 357.
Viện Khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 165.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb Cơng An Nhân dân, Hà Nội, tr.
161.
2


6

khái niệm được trích dẫn ở trên, chúng tơi nhận thấy đương sự trong VAHC được
giải thích theo phương pháp liệt kê, theo đó gồm ba chủ thể là người khởi kiện,
người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không đưa ra được nội
hàm của khái niệm. Như vậy, khi đọc các giải thích như trên, người đọc chỉ biết
được thành phần của đương sự mà chưa biết được bản chất của đương sự trong
VAHC. Một cách giải thích khác, theo Giáo trình Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh đương sự là “những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình”4, quan điểm này khơng rập khn như giải thích của Luật

TTHC mà đưa ra được nội hàm của khái niệm gồm hai bản chất của đương sự trong
VAHC đó là: thứ nhất đương sự là người tham gia tố tụng và thứ hai họ tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Chúng tơi cho rằng khái
niệm trên đã khắc phục được điểm thiếu sót của các khái niệm nêu ở trên, đưa ra
bản chất để người đọc có cách hiểu đúng về đương sự trong VAHC. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, khái niệm này chưa làm rõ được sự liên quan giữa đương sự trong VAHC
và những khiếu kiện bị kiện trong VAHC (được liệt kê tại Điều 28 Luật TTHC), có
thể gây nhầm lẫn với khái niệm đương sự trong vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự
(TTDS), vì đương sự trong vụ án theo thủ tục TTDS cũng tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó cần nhấn mạnh rằng đương sự trong
VAHC có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan trực tiếp với các khiếu kiện bị kiện.
Đúc kết các khái niệm đã được nghiên cứu, chúng tôi thiết nghĩ nên đưa ra
khái niệm về đương sự trong VAHC như sau “Đương sự trong VAHC là những cá
nhân, cơ quan và tổ chức tham gia tố tụng trong VAHC để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của chính mình, có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp với khiếu kiện bị
kiện”.
Khái niệm này đảm bảo lột tả được bản chất của đương sự trong VAHC, đồng
thời qua đó có thể phân biệt đương sự trong VAHC với đương sự trong pháp luật
TTDS, phân biệt đương sự với các chủ thể khác trong VAHC như người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án hành chính
Nghiên cứu về đương sự trong VAHC, yêu cầu phải làm rõ những đặc điểm
của đương sự trong VAHC, để từ cơ sở đó có thể nhận dạng và phân biệt được
đương sự với các chủ thể khác trong VAHC. Trên cơ sở khái niệm vừa được làm rõ,
chúng tôi đưa ra những đặc điểm của đương sự trong VAHC như sau:

4

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP.
Hồ Chí Minh, tr. 135.



7

Thứ nhất, đương sự là những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình
Trong VAHC đương sự thuộc nhóm người tham gia tố tụng và khi tham gia tố
tụng thực hiện những hoạt động cụ thể để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Đặc điểm này thể hiện qua mối liên hệ giữa việc giải quyết VAHC và quyền, lợi ích
của đương sự trong vụ án đó. Vụ án phát sinh là trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích của
đương sự khi đương sự có u cầu, trong q trình tố tụng và cho đến khi kết thúc
vụ án, các hoạt động giải quyết đều nhằm mục đích này, mà rõ ràng nhất là được thể
hiện qua bản án của Tòa án, trong đó có kết quả giải quyết về quyền, lợi ích của
đương sự – nội dung trọng tâm của bản án. Muốn có được kết quả đó phần lớn là
dựa vào sự tham gia tố tụng và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự
khi đương sự tham gia tố tụng. Đặc điểm này phân biệt đương sự với người tham
gia tố tụng khác như người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, mục đích tham gia tố tụng của nhóm người này là để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà khơng phải lợi ích của chính mình.
Cũng phân biệt được đương sự với người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch, nhóm những người này tham gia tố tụng với mục đích hỗ trợ cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết VAHC.
Thứ hai, đương sự trong VAHC là những người có quyền và nghĩa vụ liên
quan tới khiếu kiện bị kiện
Đương sự trong VAHC là người có liên quan mật thiết tới các khiếu kiện bị
kiện. Tùy theo địa vị tố tụng của từng đương sự mà sự liên quan của họ tới khiếu
kiện bị kiện là khác nhau. Cụ thể, nếu đương sự là người khởi kiện thì chịu tác động
trực tiếp bởi khiếu kiện bị kiện, quyền, lợi ích của họ bị các khiếu kiện này tác động
vì vậy mà họ đã thực hiện việc khởi kiện VAHC. Đương sự là người bị kiện là
người đã ban hành ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện.

Đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người mà việc giải quyết
VAHC có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, tức là hoặc ít hoặc nhiều họ bị
tác động trực tiếp bởi khiếu kiện.
Thứ ba, đương sự trong VAHC là những người có quyền làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quá trình TTHC
Khác với những người tham gia tố tụng khác, do địa vị pháp lý của mình,
đương sự có quyền làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quá trình TTHC. Cụ thể,
VAHC phát sinh trên cơ sở có việc khởi kiện của người khởi kiện và được Tòa án
thụ lý giải quyết. Chính hành vi khởi kiện này làm phát sinh quá trình TTHC, kéo
theo sự vận hành của cả bộ máy các cơ quan tư pháp. Trong quá trình giải quyết


8

VAHC các đương sự có thể làm thay đổi quá trình tố tụng ví dụ như có thể thay đổi
địa vị tố tụng được quy định tại Điều 147 Luật TTHC trong trường hợp người khởi
kiện rút toàn bộ đơn khởi kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu, u cầu Tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án...
Đương sự cũng có quyền làm chấm dứt q trình tố tụng như tại điểm c và điểm d
Khoản 1 Điều 120 Luật TTHC quy định người khởi kiện rút yêu cầu và được Tòa
án chấp nhận, người bị kiện hủy bỏ khiếu kiện bị kiện và người khởi kiện đồng ý rút
đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút
u cầu thì VAHC bị đình chỉ.
Tóm lại, đương sự trong VAHC là những người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích của chính mình thơng qua q trình giải quyết vụ án. Đương sự trong
VAHC được Khoản 5 Điều 3 Luật TTHC quy định gồm người khởi kiện, người bị
kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.2. Khái niệm, đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự trong vụ án
hành chính
Đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của chính mình, vì vậy

Luật TTHC quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án, tạo tiền đề
cho việc đương sự bảo vệ quyền lợi của mình trong VAHC.
1.2.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính
Theo Từ điển tiếng Việt, quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận
cho được hưởng, được làm, được địi hỏi”5, khái niệm này đưa ra cách giải thích
chung nhất, để chỉ mọi quyền chung của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội trong
mọi mối quan hệ. Mang tính khoa học pháp lý hơn, Từ điển Luật học giải thích như
sau: “quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật
công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai được ngăn cản, được hạn chế”6. Nhìn
chung, cả hai khái niệm đã đưa ra bản chất của quyền đó là điều mà pháp luật hoặc
xã hội cơng nhận hoặc cho phép và chủ thể có quyền được hưởng, được làm, được
đòi hỏi. Khái niệm thứ hai còn đưa thêm một điểm nữa về sự đảm bảo thực hiện mà
không ai được ngăn cản, hạn chế.
Nghĩa vụ được hiểu dưới góc độ ngơn ngữ tiếng Việt theo nhà ngơn ngữ học
Nguyễn Lân là “việc phải làm theo bổn phận của mình hoặc theo sự phân cơng”7,
hoặc một cách giải thích khác theo Từ điển tiếng Việt là “việc mà pháp luật hay
5

Hoàng Phê (chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 815.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp – Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 648.
7
Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr. 1258.
6


9

đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác”8. Dưới góc độ ngơn
ngữ khoa học pháp lý, nghĩa vụ được hiểu là “việc phải làm theo bổn phận của

mình”9. So với hai cách giải thích đầu, cách giải thích theo Từ điển Luật học khá
ngắn gọn và thiết nghĩ là chưa đầy đủ. Nhìn nhận cả ba khái niệm, vấn đề bản chất
của nghĩa vụ được rút ra đó là việc mà cá nhân phải làm theo trách nhiệm, bổn phận
mà pháp luật hoặc đạo đức bắt buộc. Khi nghiên cứu khái niệm nghĩa vụ của đương
sự trong VAHC, cũng như khái niệm quyền, hiện nay chưa có nhiều các tài liệu,
giáo trình nghiên cứu cũng như đưa ra khái niệm về nghĩa vụ của đương sự trong
VAHC.
Về khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC, hiện chưa có một
khái niệm mang tính khoa học pháp lý nào, hầu hết giáo trình của các trường đại
học, các tài liệu khác đều không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê những quyền và
nghĩa vụ cụ thể. Để làm rõ khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
VAHC, theo chúng tôi, cần làm rõ bản chất của quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong VAHC, theo đó quyền và nghĩa vụ trong VAHC cũng giống như khái niệm
quyền và nghĩa vụ đã được trích dẫn. Đặt trong mối liên hệ với VAHC, những
quyền và nghĩa vụ này là do Luật TTHC quy định công nhận cho đương sự được
phép thực hiện hoặc bắt buộc thực hiện trên cơ sở sự bảo đảm của pháp luật. Tựu
trung lại, theo chúng tơi, có thể đưa ra khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong VAHC như sau: “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC là những quy
định cho phép đương sự được hưởng, được thực hiện và bắt buộc phải thực hiện khi
tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC”.
Khái niệm này thể hiện được bản chất của quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong vụ án, khi được thiết lập dựa trên khái niệm chung về mặt ngôn ngữ đặt trong
mối quan hệ với pháp luật TTHC.
1.2.2. Đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính
Trên cơ sở khái niệm đã được phân tích, chúng ta nhận thấy quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong VAHC có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của đương sự là những điều đương sự được thực
hiện và bắt buộc phải thực hiện theo quy định của pháp luật TTHC
Một trong những dấu hiệu đặc trưng và nguyên tắc của nhà nước pháp quyền
là “nhà nước quản lý bằng pháp luật và pháp luật là cơng cụ quan trọng nhất trong


8
9

Hồng Phê (chủ biên)(2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 679.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp – Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 560.


10

việc điều chỉnh quan hệ xã hội”10. Trong quan hệ pháp luật TTHC biểu hiện của
nguyên tắc trên là sự ghi nhận và điều chỉnh của Luật TTHC về quyền và nghĩa vụ
của đương sự. Luật TTHC quy định cho đương sự được thực hiện rất nhiều quyền
và nghĩa vụ khác nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong khn khổ đó, khi
đương sự thực hiện đúng những điều mà pháp luật đã quy định về quyền và nghĩa
vụ của mình thì cơ quan, người tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
phải tôn trọng đảm bảo cho đương sự thực hiện và không được ngăn cản. Bên cạnh
đó, đương sự cũng chỉ thực hiện những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho
mình, khơng một chủ thể nào dù là cơ quan, người tiến hành tố tụng hay cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào khác có quyền đặt ra buộc đương sự thực hiện những quyền và
nghĩa vụ khác ngoài những điều pháp luật TTHC đã quy định.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của đương sự phát sinh khi tham gia vào quan hệ
pháp luật TTHC
Quyền và nghĩa vụ của đương sự phát sinh trên cơ sở quy định của pháp luật
TTHC và gắn liền với quan hệ pháp luật TTHC, do đó, quyền và nghĩa vụ của
đương sự chỉ phát sinh khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC. Điều đó cũng có
nghĩa là đương sự chỉ thực hiện những quyền và nghĩa vụ trên trong quá trình giải
quyết vụ án và việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ này là cơ sở cho q trình
giải quyết vụ án của Tịa án. Đặc điểm này xuất phát từ lý do đương sự là người
tham gia tố tụng mà chúng tôi đã phân tích. Bên cạnh đó, cũng đồng nghĩa với việc

khi khơng tham gia tố tụng và khơng có tư cách đương sự trong VAHC, một người
nào đó sẽ khơng được thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC.
Thứ ba, quyền của đương sự tồn tại song song với nghĩa vụ của đương sự
trong VAHC
Khoản 1 Điều 15 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “Quyền công dân không tách
rời nghĩa vụ công dân”, con người tồn tại trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội,
trong các mối quan hệ này, khơng thể một người nào chỉ có quyền và cũng khơng
thể một ai chỉ có nghĩa vụ mà khơng có quyền, như một lẽ cơng bằng, quyền tồn tại
song song cùng với nghĩa vụ. Cũng vậy, khi tham gia quan hệ TTHC, đương sự có
quyền và cũng có nghĩa vụ, điều này tạo nên mối quan hệ cân bằng và hợp lý. Bên
cạnh việc thực hiện quyền, đương sự thực hiện nghĩa vụ của mình là cơ sở để quyền
của đương sự khác cũng như chính mình được thực hiện và bảo đảm.
Ngoài ra, nhiều quyền của đương sự trong VAHC cũng chính là nghĩa vụ của
đương sự, bởi lẽ pháp luật cho đương sự quyền thực hiện việc nào đó nhưng đồng
10

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Tập bài giảng Lý luận về nhà nước, Nxb Hồng Đức, TP.
Hồ Chí Minh, tr. 225.


11

thời việc thực hiện đó cũng chính là trách nhiệm của đương sự. Tiêu biểu cho đặc
điểm này như quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh, khác với trong tố tụng hình
sự cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, trong quan hệ
pháp luật TTDS và TTHC, cung cấp chứng cứ và chứng minh vừa là quyền vừa là
nghĩa vụ của đương sự, đương sự càng chứng minh được nhiều thì quyền lợi hợp
pháp của họ cũng được bảo đảm11. Một ví dụ khác như quyền tham gia phiên tòa,
đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ, đương sự có quyền được tham gia phiên tịa,
quyền này khơng ai được phép ngăn cản, nhưng đương sự cũng có trách nhiệm phải

tham gia phiên tịa, điều này thể hiện thái độ thiện chí, tơn trọng của đương sự và
đồng thời cũng là cơ sở cho đương sự bảo vệ mình một cách tốt nhất.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC được đặt trong mối quan
hệ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình tố tụng
Khác với các quan hệ khác như quan hệ dân sự, kinh tế, lao động… quyền của
người này đồng thời là nghĩa vụ của người khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp
luật TTHC các đương sự có quyền và nghĩa vụ tương đối giống nhau và việc thực
hiện quyền của đương sự này phần lớn cũng không dựa vào việc thực hiện nghĩa vụ
của đương sự khác. Hầu hết các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
VAHC là được đảm bảo thực hiện và đồng thời cũng là trách nhiệm đối với quá
trình tố tụng, với các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó làm cơ sở cho
những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được
đúng đắn và khách quan.
Tóm lại, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC là tổng hợp những điều
mà đương sự được làm hoặc phải làm khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC
theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ tồn tại song song, tổng hòa với
nhau nhằm bảo đảm VAHC được giải quyết khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự được bảo vệ hiệu quả.
1.3. Những quy định của pháp luật Tố tụng hành chính về quyền và nghĩa
vụ của đƣơng sự trong vụ án hành chính
Đương sự trong VAHC bao gồm người khởi kiện, người bị kiện và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Luật TTHC quy định về quyền và nghĩa vụ của tất cả
đương sự trong VAHC chung trong một điều luật – Điều 49. Thông qua đây cũng
thể hiện tinh thần Điều 10 Luật TTHC: “Các đương sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong q trình giải quyết VAHC”. Bên cạnh đó, tùy địa vị pháp lý của

11

Lê Thị Mơ (2014), Luận văn thạc sỹ Luật học trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Người khởi
kiện trong vụ án hành chính, tr. 24-25.



12

đương sự, ngoài các quyền và nghĩa vụ chung, đương sự cịn có quyền và nghĩa vụ
riêng khác nhau.
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong vụ án hành chính
Luật TTHC quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự tập trung chủ yếu ở
Điều 49, bên cạnh đó, rải rác các quy phạm khác của Luật TTHC cũng có quy định
về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Những quy định này nếu liệt kê sẽ rất nhiều và
rộng, tuy nhiên lại có những đặc điểm có phần giống nhau, vì vậy, trong khn khổ
của đề tài, chúng tơi sẽ phân tích các quyền và nghĩa vụ này theo từng nhóm cụ thể.
Thứ nhất, các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung cấp
chứng cứ, chứng minh
Cung cấp chứng cứ và chứng minh được Luật TTHC xem như một nguyên tắc
cơ bản, cụ thể tại Điều 8 khẳng định: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ cho Toà án và chứng minh u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”
và Điều 9 quy định về “trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền”, phản ánh tầm quan trọng của hoạt động này. Do đó,
Chương VI của Luật TTHC về chứng cứ và chứng minh gồm 20 điều luật được
dành để quy định vấn đề này. Trong đó, Điều 74 Luật TTHC đưa ra giải thích về
chứng cứ trong VAHC như sau: “Chứng cứ trong VAHC là những gì có thật được
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu
thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ
để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay
khơng cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
VAHC”. Theo Điều 75 Luật TTHC chứng cứ tồn tại trong các nguồn của chứng cứ
như các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, vật chứng, lời khai…, để được
xem là chứng cứ, thì phải mang trong mình các đặc tính như tính khách quan (tức là
“những gì có thật”, thể hiện dưới một nguồn nào đó chứ khơng phải là tưởng tượng,

bịa đặt), tính liên quan (chứng cứ phải liên quan đến các tình tiết của vụ án) và tính
hợp pháp (chứng cứ phải được thu thập theo trình tự được Luật TTHC quy định)12.
Vì sự quan trọng của nó, bên cạnh các quy định trên, Điều 49 Luật TTHC về quyền
và nghĩa vụ của đương sự có 5 điều khoản ghi nhận đương sự trong VAHC có
những quyền và nghĩa vụ trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh. Cụ thể như
sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ
để chứng minh
12

Học viện tư pháp (2012), Giáo trình Kỹ năng giải quyết các vụ án hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 105-107.


13

Khoản 1 Điều 49 Luật TTHC ghi nhận đương sự có quyền “cung cấp tài liệu,
chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” song song
với đó, Khoản 18 Điều 49 Luật TTHC quy định thêm rằng đương sự có nghĩa vụ
“cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu cầu của Toà
án”, như vậy cung cấp chứng cứ là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của đương sự.
Cung cấp chứng cứ là quyền của đương sự là bởi vì trong quá trình giải quyết vụ án,
đương sự được thực hiện việc cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đương sự đưa ra, từ đó, đương sự được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Đương sự được tự nguyện quyết định và bảo đảm thực hiện quyền này, đương sự
cung cấp chứng cứ càng nhiều và càng đầy đủ thì quyền, lợi ích hợp pháp của họ
càng được bảo đảm. Bên cạnh đó, cung cấp chứng cứ cũng là nghĩa vụ của đương
sự. Trước là nghĩa vụ của đương sự là người khởi kiện để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của họ có thật, từ đó q trình tố tụng gồm nhiều cơ quan, cá nhân sẽ khởi
động để giải quyết yêu cầu đó, sau đó đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để

chứng minh cho các yêu cầu của mình là có căn cứ, nếu đương sự khơng chứng
minh được cho u cầu của mình thì họ phải chịu hậu quả của việc đó, cuối cùng
Khoản 1 Điều 78 Luật TTHC quy định trường hợp xét thấy chứng cứ trong hồ sơ vụ
án chưa đủ cơ sở để giải quyết, theo yêu cầu của Tòa án đương sự phải cung cấp
chứng cứ cho Tòa án, đây là trách nhiệm đối với Tịa án trong q trình giải quyết
vụ án, để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tố tụng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, theo quy định của Luật TTHC hiện hành
đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án ở bất cứ giai đoạn
nào. Điều 105 quy định khi nộp đơn khởi kiện, đương sự phải nộp kèm các tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Sau đó, khi vụ án được
giải quyết ở cấp sơ thẩm, đương sự có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án, cũng
như khi thấy cần thiết Tịa án u cầu đương sự cung cấp. Khơng dừng lại ở đó, tại
giai đoạn xét xử phúc thẩm, đương sự cũng có quyền bổ sung chứng cứ mới cho
Tịa án (Điều 189 Luật TTHC).
Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án những chứng cứ tồn tại
trong các nguồn khác nhau như các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; vật
chứng; cung cấp lời khai và các nguồn khác mà pháp luật có quy định. Nhìn chung,
quy định này tạo điều kiện cho đương sự thực hiện rộng rãi quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ của mình, nghĩa là với những gì đương sự có liên quan đến vụ án
đương sự đều được cung cấp cho Tòa án. Trong vấn đề này, Điều 72 Luật TTHC có
liệt kê một số loại chứng cứ mà từng đương sự phải cung cấp cho Tòa án theo yêu
cầu như bản sao quyết định hành chính, các quyết định giải quyết khiếu nại, văn bản


14

làm căn cứ cho người bị kiện ban hành các quyết định hành chính… Đáng lưu ý là
so với Điều 5 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VAHC năm 1996, sửa đổi, bổ sung
các năm 1998, 2006 trước đây bắt buộc người khởi kiện có nghĩa vụ phải giao nộp
bản sao các quyết định hành chính bị khởi kiện trong mọi trường hợp, thì nay Luật

TTHC đã có một bước tiến bộ, mở rộng hơn điều kiện để đương sự thực hiện quyền
của mình khi quy định rằng nếu người khởi kiện khơng nộp được thì phải có lý do
như khơng có tên trong quyết định hành chính và khơng có được quyết định hành
chính đó…
Thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ của đương sự được
quy định tại Điều 77 Luật TTHC. Theo đó, việc giao nộp chứng cứ phải được Tòa
án lập thành văn bản, trong đó có những nội dung mang đặc điểm nhận dạng chứng
cứ như tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm, bên cạnh các thông tin khác như thời
gian giao nộp, số trang của tài liệu chứng cứ… Quy định như vậy để đảm bảo chế
độ quản lý hồ sơ vụ án cũng như tránh thất thoát chứng cứ đương sự đã giao nộp.
Riêng đối với những chứng cứ khơng thể giao nộp được tại Tịa án, theo Điều 88
Luật TTHC Tịa án có thể cho phép đương sự hoặc người thứ ba bảo quản những
chứng cứ này và chịu trách nhiệm với việc bảo quản đó.
Liên quan đến quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự, Khoản 3 Điều 49 Luật TTHC quy định đương sự cịn có quyền “u cầu
cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó
cho mình để giao nộp cho Tồ án”. Lý do có quyền này là vì chứng cứ tồn tại trong
nhiều nguồn, nhiều nơi khác nhau và với đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước
liên quan đến VAHC, chứng cứ cịn có thể do nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu
giữ và bảo quản mà đương sự khơng có được. Vì vậy, đương sự được thể hiện ý chí
của mình trong việc u cầu những chủ thể đang lưu giữ chứng cứ thực hiện việc
cung cấp chứng cứ cho đương sự, làm cơ sở cho việc đương sự giao nộp cho Tòa án
và làm sáng tỏ nội dung vụ án. Dù luật không quy định rõ, nhưng đương nhiên
chúng ta hiểu rằng đương sự chỉ được quyền yêu cầu các chủ thể trên cung cấp
những chứng cứ có liên quan và cần thiết tới việc giải quyết vụ án và cũng không
thể yêu cầu đối với mọi loại chứng cứ, ví như những tài liệu liên quan đến bí mật
nhà nước, an ninh, quốc phịng quốc gia… thì chủ thể được u cầu không thể giao
cho đương sự.
Để đảm bảo việc thực hiện quyền yêu cầu của đương sự, pháp luật quy định
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ tại Điều

9 Luật TTHC như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Toà


15

án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu
của đương sự, Tồ án, Viện kiểm sát; trường hợp khơng cung cấp được thì phải
thơng báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do
của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ”. Đây là nguyên tắc của Luật
TTHC và đồng thời cũng là quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
đang lưu giữ, quản lý chứng cứ khi được đương sự yêu cầu cung cấp. Không chỉ là
trách nhiệm chung chung, luật còn quy định chủ thể được yêu cầu phải cung cấp
“đầy đủ” và “đúng thời hạn”, có như vậy, quyền lợi của đương sự mới được bảo
đảm. Trong trường hợp không thể cung cấp được, chủ thể đó cũng phải có thơng
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do của việc không cung cấp.
Hai là, quyền được đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà
tự mình khơng thể thực hiện được; đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng
cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Trên thực tế, ngoài những trường hợp khách quan khiến chủ thể trên không thể
cung cấp cho đương sự được, cịn có rất nhiều trường hợp chủ thể được u cầu cố
tình khơng quan tâm thực hiện u cầu của đương sự mà khơng có lý do. Thiếu
chứng cứ thì quá trình giải quyết vụ án sẽ khơng tồn diện và đầy đủ, quyền lợi của
đương sự cũng khơng được bảo đảm. Vì vậy để giải quyết những trường hợp trên
Khoản 4 Điều 49 Luật TTHC trao cho đương sự được quyền “đề nghị Toà án xác
minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được”.
Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 87 Luật TTHC, theo đó nếu đương
sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn khơng thể tự mình thu thập được thì
có thể u cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Khi thực hiện đương sự phải có
đơn yêu cầu, trong đó nêu rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập, lý do

vì sao tự đương sự khơng thể thu thập được… Điều kiện tiên quyết kèm theo đó là
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng khơng thể tự mình thu thập
được, quy định như vậy là để nâng cao trách nhiệm của đương sự trong việc thu
thập chứng cứ, bởi lẽ cung cấp chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của đương sự, tránh
việc đương sự đùn đẩy, ỷ lại vào Tòa án mà khơng tự mình thực hiện. Khi đương sự
có u cầu, Tịa án sẽ xem xét có chấp nhận u cầu đó hay khơng, nếu chấp nhận,
Tịa án sẽ u cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng
cứ cho mình.
Để đảm bảo việc thực hiện quyền này của đương sự, Điều 9 Luật TTHC quy
định khi nhận được yêu cầu của Tòa án, cũng giống như đối với yêu cầu của đương
sự, chủ thể được yêu cầu có nghĩa vụ cung cấp “đầy đủ” và “đúng thời hạn” cho
Tịa án, nếu khơng thể cung cấp được thì phải thơng báo bằng văn bản và nêu rõ lý


16

do. Cụ thể hơn, theo Khoản 2 Điều 87 chủ thể được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ,
kịp thời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Để đảm bảo cho giá
trị hiệu lực yêu cầu của Tòa án, theo Khoản 2 Điều 87 Luật TTHC nếu chủ thể được
yêu cầu không thực hiện đúng, tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy
định của pháp luật. Như vậy, khi các chủ thể đó khơng thực hiện trách nhiệm cung
cấp theo đúng yêu cầu cung cấp chứng cứ, nếu là đương sự u cầu thì Luật TTHC
khơng đặt ra chế tài, cịn nếu Tịa án u cầu thì đã có quy định mang tính chế tài để
xử lý đối với chủ thể được yêu cầu mà không thực hiện đúng yêu cầu. Do đó, khi
đương sự u cầu Tịa án thực hiện công việc xác minh, thu thập chứng cứ, khả
năng thực hiện được sẽ cao hơn rất nhiều, điều này tạo điều kiện để đương sự thực
hiện hết khả năng của mình trong việc chứng minh. Tuy nhiên, nếu những chủ thể
đó có lý do chính đáng thì phải thơng báo bằng văn bản cho Tòa án biết, việc này
được xem là hợp pháp.
Bên cạnh quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, đương sự cịn có

quyền đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài
sản, thẩm định giá tài sản. Lý do đương sự được thực hiện các quyền trên là để có
được những đánh giá, kết luận đúng từ các cơ quan có chun mơn, để trên cơ sở đó
Tịa án giải quyết vụ án. Thực hiện quyền này của đương sự, kết quả sẽ được thể
hiện thông qua các biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất, kết luận giám định, kết
luận giám định bổ sung, giám định lại, kết quả định giá, thẩm định giá tài sản, đây
là những nguồn của chứng cứ được quy định tại Điều 75 Luật TTHC. Căn cứ trên
những chứng cứ chứa đựng trong các nguồn trên, Tòa án đưa ra phán quyết về việc
giải quyết vụ án, các chứng cứ trên càng khách quan, chính xác thì bản án, quyết
định của Tòa án càng đúng đắn, quyền lợi hợp pháp của đương sự càng được bảo vệ
tốt nhất.
Ba là, quyền được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ
do đương sự khác cung cấp hoặc do Toà án thu thập
Trong hồ sơ vụ án, tồn tại chứng cứ do nhiều đương sự cung cấp và cũng có
thể do Tịa án thu thập. Để bảo vệ quyền, lợi ích của mình, đương sự phải biết được
những chứng cứ trên làm cơ sở cho quá trình bảo vệ, tranh luận và các quyền khác.
Vì vậy, Khoản 2 Điều 49 Luật TTHC ghi nhận đương sự có quyền “Được biết, đọc,
ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc
do Toà án thu thập”. Theo quy định trên, đương sự có hai quyền cơ bản, thứ nhất là
quyền được biết, được đọc, được xem các tài liệu, chứng cứ, thứ hai là quyền được
ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ. Quyền được biết, xem, đọc thể hiện rằng
đương sự đã được tiếp cận với tài liệu, chứng cứ đó, nghĩa là đương sự biết được có


17

tài liệu, chứng cứ và biết được nội dung của nó. Sau đó, đương sự có quyền ghi
chép, sao chụp, nghĩa là không chỉ được biết tài liệu, chứng cứ, đương sự cịn được
sao chụp lại để có bản sao của tài liệu, chứng cứ để thuận tiện hơn trong cơng việc
của mình.

Đương sự phải có đơn u cầu khi thực hiện quyền này. Đương sự có quyền
được ghi chép, sao chụp bằng các thiết bị kỹ thuật mà họ có như điện thoại, máy
ảnh… Tùy điều kiện, Tịa án cũng có thể thực hiện việc sao chép thay đương sự và
đương sự phải trả phí. Nhằm đảm bảo chế độ bảo quản hồ sơ vụ án, việc sao chép
phải được thực hiện trong một thời gian hợp lý theo sự hướng dẫn, giám sát của cán
bộ Tòa án và phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà
nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh và bí mật đời tư13. Liên quan đến
quyền này, trong trường hợp đương sự được đọc, biết, sao chụp chứng cứ do đương
sự khác cung cấp mà nhận thấy chứng cứ đó là giả mạo, Khoản 1 Điều 84 Luật
TTHC quy định đương sự có quyền u cầu Tịa án trưng cầu giám định, đây là
cơng việc cần có thời gian, do đó nếu được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sẽ tránh được tình trạng hỗn phiên tịa để giám định chứng cứ, khi nghiên cứu
điều này, chúng tôi nhận thấy đây là một ưu điểm rất lớn của quyền được đọc, biết
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp.
Như vậy, đối với hoạt động chứng minh, đương sự được Luật TTHC trao cho
những quyền từ việc tự cung cấp chứng cứ đến việc yêu cầu chủ thể khác đang lưu
giữ chứng cứ cung cấp cho mình để giao nộp Tịa án và cả quyền yêu cầu Tòa án
can thiệp, đương sự có những quyền và nghĩa vụ như trên là để bảo vệ chính mình.
Khơng chỉ có vậy, khi tham gia tố tụng, đương sự cịn có những quyền và nghĩa vụ
khác nhau, tổng hòa lại làm một thể thống nhất trong việc bảo đảm quyền của
đương sự, đảm bảo tính khách quan của q trình tố tụng.
Thứ hai, các quyền liên quan tới việc tự quyết định và định đoạt của người
khởi kiện và các quyền có tính chất tương tự của đương sự khác
Điều 7 Luật TTHC về “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện”
quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện VAHC.
Toà án chỉ thụ lý giải quyết VAHC khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong
quá trình giải quyết VAHC, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện của mình theo quy định của Luật này”. Đây được xem là một trong những
nguyên tắc căn bản của Luật TTHC, thể hiện sự tơn trọng ý chí tự lựa chọn của các
đương sự. Mở rộng quyền này, đương sự được thực hiện các quyền liên quan như

13

Đoàn Tấn Minh (2011), Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính và các văn bản áp dụng giải quyết
các khiếu nại hành chính tại Tịa, Nxb Lao Động, Hà Nội, tr. 44.


18

quyền khởi kiện, rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, ủy quyền cho người khác
tham gia tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án… Đáng lưu ý rằng Luật
TTHC hiện nay chỉ quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi
kiện mà không quy định với các đương sự khác. Tuy nhiên, sơ lược về những quyền
và nghĩa vụ thuộc quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện, chúng tơi
nhận thấy người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có một
phần những quyền và nghĩa vụ có tính chất giống như vậy. Do đó, chúng tơi quyết
định nghiên cứu chung các quyền và nghĩa vụ mang tính chất quyết định và tự định
đoạt của người khởi kiện cho tất cả đương sự.
Một là, quyền khởi kiện VAHC
Nói đến quyền quyết định và tự định đoạt, không thể không đề cập tới quyền
khởi kiện VAHC. Điều 5 Luật TTHC khẳng định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện VAHC để yêu cầu Tồ án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
theo quy định của Luật này”. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức khi thấy quyền, lợi
ích của mình bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có
quyền khởi kiện vụ án trước Tòa án. Khởi kiện là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức
u cầu Tịa án xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền, lợi ích của chính mình. Bên cạnh đó, khi khởi kiện
người khởi kiện cịn được quyền tự định đoạt trong nội dung khởi kiện, cụ thể là
quyền tự đưa ra các yêu cầu, phạm vi yêu cầu, ví dụ việc u cầu hủy một phần hay
tồn bộ quyết định hành chính, yêu cầu về bồi thường thiệt hại… Điều 7 Luật
TTHC khẳng định Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi có đơn khởi kiện, hiểu rộng hơn, Tòa

án chỉ giải quyết các vấn đề mà người khởi kiện yêu cầu và cũng chỉ trong phạm vi
yêu cầu mà thôi. Như vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện VAHC và
cũng có quyền quyết định nội dung các yêu cầu khởi kiện của mình, để từ đó Tịa án
xem xét và giải quyết.
Ngồi ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức cịn có quyền lựa chọn chủ thể giải quyết
yêu cầu của họ. Có những trường hợp khi đã quyết định nộp đơn khởi kiện tại Tòa
án, người khởi kiện tiếp tục nộp đơn khiếu nại theo thủ tục hành chính, hoặc ngược
lại. Trong những trường hợp như vậy, Điều 31 Luật TTHC quy định cho phép
người khởi kiện được lựa chọn giữa việc giải quyết vụ án bằng con đường tố tụng
hay con đường hành chính. Quyền này thể hiện sự tự định đoạt của người khởi kiện
trong việc lựa chọn cơ quan và thủ tục giải quyết tranh chấp hành chính và được cụ
thể hóa tại Điều 5 NQ 02/2011, trong đó dự liệu những trường hợp khác nhau, với
mỗi trường hợp đều được giải quyết theo hướng tôn trọng tối đa sự lựa chọn cơ
quan, cá nhân giải quyết theo yêu cầu của đương sự. Về hình thức, đây là một trong


19

những nội dung quan trọng, việc lựa chọn của chủ thể khởi kiện phải được thực
hiện thơng qua việc có đơn lựa chọn bằng văn bản. Nếu họ không thể làm văn bản
lựa chọn được thì Tịa án phải lập biên bản về việc họ lựa chọn cơ quan giải quyết.
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự liên quan đến việc khởi kiện
cũng còn được thể hiện thông qua quyền rút, bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện,
tuy nhiên đây là quyền đặc thù của người khởi kiện, do đó, chúng tơi sẽ đề cập ở
phần sau.
Hai là, quyền đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án
Đối thoại tồn tại như một nguyên tắc đã được Luật TTHC quy định tại Điều 12
“Trong quá trình giải quyết VAHC, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại
về việc giải quyết vụ án” và Khoản 11 Điều 49 Luật TTHC cụ thể thành quyền của
đương sự, quyền “đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án”.

Lý do pháp luật TTHC quy định quyền thực hiện đối thoại của đương sự là để
các bên đương sự hiểu rõ hơn về nội dung tranh chấp, quan điểm lý lẽ của các bên
để họ tự nhận ra những khuyết điểm, thiếu sót của mình14, thơng qua đó họ có
những hành động phù hợp và hiệu quả hơn như người khởi kiện rút đơn kiện, người
bị kiện hủy bỏ, thay đổi khiếu kiện bị kiện và người khởi kiện đồng ý với việc đó…
Đối thoại khơng phải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết VAHC,
nhưng đương sự có quyền u cầu Tịa án tổ chức đối thoại, kèm theo đó là quy
định tại Khoản 4 Điều 36 Luật TTHC ghi nhận về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong việc tổ chức đối thoại giữa các đương sự khi có yêu cầu. Sau đó, đương
sự cịn có quyền được tham gia đối thoại khi Tịa án tổ chức và thơng qua đó thể
hiện ý chí của mình. Tất cả các đương sự trong VAHC được thực hiện quyền này và
cũng chỉ khi có ít nhất là hai bên đương sự là người khởi kiện và người bị kiện thực
hiện đối thoại thì quyền này mới có thể được thực hiện, đương sự có thể tự mình
hoặc ủy quyền cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích của mình tham gia
đối thoại15. Thơng thường quyền đối thoại của đương sự được thực hiện trước khi
mở phiên tòa, tuy nhiên, trong trường hợp tại phiên tòa, nếu các bên đương sự muốn
Tòa án cho thực hiện việc đối thoại tại phiên tịa thì Tịa án vẫn chấp nhận và tạo
điều kiện.
Thực hiện quyền đối thoại có ý nghĩa rất lớn như tiết kiệm thời gian, công sức
của các bên cũng như giảm thiểu những cơng việc cho Tịa án, góp phần giải quyết
nhanh chóng và kịp thời những tranh chấp hành chính, tạo điều kiện dân chủ trong
14

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb Hồng Đức,
TP. Hồ Chí Minh, tr. 52.
15
Lê Thu Hằng (2011), “Đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án hành chính”, Tạp chí Nghề luật, số
04/2011, tr. 26.



20

hoạt động hành chính nhà nước. Ngồi ra, sâu xa hơn, nếu các bên đạt được mong
muốn qua việc đối thoại, đó là sự tự nguyện của các bên nên việc thi hành những
điều này cũng sẽ được các bên đương sự tự nguyện hơn là các bản án, quyết định
của Tòa án.
Ba là, quyền yêu cầu Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời
Khoản 5 Điều 49 Luật TTHC quy định đương sự được quyền “yêu cầu Tòa án
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Biện pháp khẩn cấp tạm
thời được hiểu là “biện pháp pháp lý do Tòa quyết định áp dụng nhằm giải quyết
yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo tồn tình trạng hiện có tránh
gây thiệt hại khơng thể khắc phục được hoặc đảm bảo việc thi hành án”16. Quyền
này của đương sự bao gồm ba quyền nhỏ, đó là yêu cầu Tòa án áp dụng, thay đổi và
hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong đó, quyền yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là quyền có phần quan trọng và được quan tâm nhiều hơn trên
thực tế.
Lý do pháp luật TTHC quy định cho đương sự được quyền này là bởi lẽ hoạt
động quản lý nhà nước mang tính quyền uy mệnh lệnh, các quyết định hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, hành vi hành
chính được ban hành, thực hiện cần phải được tôn trọng và bảo đảm thi hành từ các
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện
không làm mất hiệu lực của các khiếu kiện bị kiện17. Tức là khiếu kiện đó vẫn cịn
hiệu lực và tiếp tục được thi hành, nên có thể làm xấu đi tình trạng của đương sự
hoặc xấu đi tình trạng hiện có, do đó nhằm đảm bảo u cầu cấp bách của đương sự,
bảo vệ chứng cứ, bảo đảm việc thi hành án hoặc bảo tồn tình trạng hiện có, đương
sự có quyền u cầu Tịa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình cũng như để đảm bảo hoạt động
giải quyết vụ án được sn sẻ.
Đương sự có quyền u cầu Tịa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

đã được quy định tại Điều 62 Luật TTHC đó là: tạm đình chỉ việc thi hành quyết
định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh; tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính; cấm hoặc buộc thực hiện những
hành vi nhất định. So sánh với Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự (Bộ luật TTDS)
16

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb Hồng Đức,
TP. Hồ Chí Minh, tr. 168.
17
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb Hồng Đức,
TP. Hồ Chí Minh, tr. 169.


21

pháp luật TTDS quy định có 12 biện pháp khẩn cấp tạm thời được liệt kê và 1 điều
khoản mở viện dẫn quy định pháp luật khác, một điều nhận thấy rằng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong Luật TTHC ít hơn rất nhiều. Sở dĩ Luật TTHC chỉ quy định
ba biện pháp khẩn cấp tạm thời trên là bởi lẽ đối tượng tranh chấp trong VAHC là
tính hợp pháp của các khiếu kiện bị kiện, các vấn đề khác như yêu cầu bồi thường
thiệt hại chỉ là thứ yếu, trong khi đó, đối tượng tranh chấp trong quan hệ pháp luật
TTDS là vô cùng rộng lớn, bao gồm các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dân sự,
lao động…
Khi nghiên cứu quyền này của đương sự, chúng tôi thấy rằng phần lớn các
biện pháp khẩn cấp tạm thời là thuộc quyền yêu cầu của đương sự là người khởi
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, để đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp
pháp của họ, nếu trong mối quan hệ hành chính, họ có phần yếu thế, thì khi khởi
kiện VAHC, phần nào đó thơng qua quy định này pháp luật tạo ra sự công bằng để
được giải quyết đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, đặc biệt là cá nhân,
cơ quan, tổ chức khởi kiện. Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là người bị kiện

khơng có quyền này, Luật TTHC vẫn quy định họ được quyền yêu cầu Tòa án áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp trên, nhưng với đặc thù quản lý nhà nước của
người bị kiện, các yêu cầu này chủ yếu là đối với yêu cầu thứ ba “cấm hoặc buộc
thực hiện những công việc cụ thể”, hoặc các yêu cầu về hủy bỏ biện pháp tạm thời
mà Tòa án đã áp dụng.
Về thời điểm đương sự được thực hiện quyền yêu cầu, thay đổi, hủy bỏ này, có
hai thời điểm mà Luật TTHC quy định như sau: đầu tiên vì là biện pháp có tính cấp
bách và tạm thời, do tình thế khẩn cấp nên ngay cả khi vụ án chưa được thụ lý, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn u cầu Tịa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời cùng lúc với việc nộp đơn khởi kiện. Chúng tôi cho rằng đây là điểm
tích cực của Luật TTHC nhằm đảm bảo quyền của đương sự được bảo đảm cao nhất
trong những lúc cấp thiết, bởi quá trình nhận đơn khởi kiện và thụ lý vụ án chiếm
một thời gian tương đối dài, nếu đợi đến lúc vụ án được thụ lý mới cho đương sự
quyền này thì lúc đó “ván đã đóng thuyền” quyền lợi của đương sự đã khơng được
bảo đảm, tình trạng hiện có khơng cịn, bằng chứng có thể bị che giấu, phá hủy. Sau
đó là trong quá trình giải quyết vụ án, tức sau khi vụ án được thụ lý, đương sự có
quyền yêu cầu trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa.
Bốn là, quyền ủy quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện
cho mình tham gia tố tụng, tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình


×