BÀI TIỂU LUẬN
BỘ MÔN: TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
ĐỀ TÀI: THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
Tiểu luận Tố tụng hành chính
- 2 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
1.1.1 Định nghĩa thẩm quyền……………………………………………… 4
1.1.2 Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân……………………………………………………………………………… 5
1.1.3 Sự phát triển của thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa
án nhân dân…………………………………………………………………… 5
1.2. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành.
1.2.1. Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện…………………………8
1.2.2. Thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ…………… 10
1.2.3. Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa Tòa án với Tòa án và
giữa Tòa án với cơ quan giải quyết khiếu nại……………………………….12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN VÀ MỘT SỐ Ý
KIẾN
2.1 Thực trạng về thẩm quyền xét xử xác vụ án hành chính
2.1.1 Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền………………13
2.1.2 Thực tiển áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành
chính…………………………………………………………………………… 37
2.2 Một số kiến nghị về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính.
2.2.1 Kiến nghị về sử đổi quy định của pháp luật………………………52
2.2.2 Kiến nghị về áp dụng pháp luật…………………………………….54
- 3 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Chương 1: Khái quát về thẩm quyền xét xử vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân.
1.1.1 Định nghĩa thẩm quyền.
- Thuật ngữ “thẩm quyền” bắt nguồn từ tiếng La Tinh là “compotentia”,
có hai nghĩa là:
1) Phạm vi các quyền hạn của các cơ quan hoặc người có chức vụ nào
đó;
2) Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có
Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được biểu thị
bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai – “thẩm
quyền chuyên môn”.
- “Thẩm quyền chuyên môn” và “thẩm quyền pháp lý” đều quan trọng đối
với quản lý nhà nước và có quan hệ với nhau rất chặt chẽ.
=> Thẩm quyền chuyên môn của cơ quan thực chất được bảo đảm
thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo
các tiêu chuẩn, yêu cầu nhất định và cũng dần dần được thể chế hoá
thành pháp luật ở một mức độ nào đấy.
Tuy nhiên trong khoa học, pháp luật và thực tiễn thuật ngữ “thẩm
quyền” thường vẫn được hiểu với nghĩa là thẩm quyền pháp lý
Thẩm quyền với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất. Do
tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ chặt chẽ với nó,
nên có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền.
=> Thẩm quyền là việc pháp luật cho phép hay qui định bổn phận (trách
nhiệm) cho một cá nhân, một tổ chức được (hay phải) làm một việc gì đó.
thẩm quyền luôn phải được kèm theo một mức độ quyền lực để làm tăng
tính thực thi cho thẩm quyền trước những cản trở có thể.
- 4 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
1.1.2 Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân.
Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là quyền và
nghĩa vụ của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án
hành chính
1.1.3 Sự phát triển của thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
của tòa án nhân dân
- Sau 12 năm đi vào hoạt động và giải quyết các vụ án hành
chính, Tòa án các cấp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Nếu
như trước đây, trong quá trình quản lý, điều hành Nhà nước, cơ quan hành
chính chỉ căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
một cách chung chung để ban hành các quyết định hành chính, thì nay đã
căn cứ cụ thể vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để ban
hành quyết định hành chính theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà
pháp luật đã quy định. Việc thành lập Tòa Hành chính đã góp phần thúc
đẩy quá trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà
nước phải tự nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho
các cơ quan quản lý hành chính phải thận trọng, cân nhắc hơn khi ban
hành một quyết định hành chính hay có hành vi hành chính.
- Sau 12 năm hoạt động, Tòa Hành chính các cấp đã khẳng định
được vị trí của mình trong đời sống xã hội và là công cụ không thể thiếu
được trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Kết quả giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án các
cấp đã khẳng định vai trò to lớn của quá trình giải quyết khiếu kiện hành
chính bằng con đường tư pháp.
Thông qua hoạt động của Tòa Hành chính các cấp, về phía người
dân đã quan tâm và tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới
pháp luật nói riêng, xem đây là một bước phát triển của cải cách tư pháp
phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước. Sau khi Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành, người dân rất hy vọng và
tin tưởng vào sự phán xét của Tòa hành chính. Nhân dân và công luận
quan tâm đến tính công khai, minh bạch của phiên tòa xét xử. Các quyết
định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình tự, thủ tục,
- 5 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
thẩm quyền và nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử hủy
bỏ là thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính.
Ngược lại, khi các yêu cầu khởi kiện của công dân không được Toà án
chấp nhận cũng giúp cho người khởi kiện hiểu biết và nắm vững hơn pháp
luật, thông suốt những quyết định của cơ quan quản lý hành chính Nhà
nước, từ đó tự nguyện thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Mặt khác
đó cũng là sự cân nhắc, thận trọng của những người khiếu kiện khác.
- Tuy nhiên trong thời gian qua chất lượng giải quyết các vụ án hành
chính vẫn còn những tồn tại vì việc xét xử các vụ án hành chính là một lĩnh
vực rất mới. Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của Tòa Hành chính
Tòa án nhân dân các cấp chưa được đào tạo, bồi dưỡng nhiều về nghiệp
vụ giải quyết các vụ án hành chính cũng như kiến thức về quản lý hành
chính Nhà nước có liên quan đến những lĩnh vực mà Tòa án có thẩm
quyền giải quyết. Vẫn còn có cán bộ Tòa án chưa thực sự nắm vững các
quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính; một số Thẩm phán chưa quan tâm một cách đầy đủ các
văn bản pháp luật về quản lý hành chính Nhà nước liên quan đến những
loại quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện mà mình đang
thụ lý, giải quyết. Trong công tác chuyên môn còn vi phạm về điều kiện
khởi kiện và điều kiện thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính; có nhiều vụ
việc chưa phân biệt thẩm quyền loại việc của cơ quan hành chính Nhà
nước và cơ quan Tòa án; thời gian giải quyết các vụ án chưa đảm bảo
theo đúng quy định của pháp luật. Đường lối giải quyết một số vụ án không
đúng dẫn đến đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử phúc
thẩm, sơ thẩm lại vụ án. Vì vậy, có bộ phận công dân còn nghi ngại trước
khi chọn con đường khởi kiện tại Tòa án
a ) Về thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện:
Hiện nay theo Luật TTHC, Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tất
cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong mọi lĩnh vực quản
lý nhà nước, loại trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ
quy định và quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ
của cơ quan, tổ chức
- 6 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã thể chế hoá những khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án tại Điều 28, đó là:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết
định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước
trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do
Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách
cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
-Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ
từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh.
Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây,
loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án chỉ được quy định tại
Điều 11 gồm 22 khoản. Nay Luật Tố tụng hành chính 2010 quy định về
thẩm quyền của Toà án theo phương pháp loại trừ như quy định trên thì
phạm vi thẩm quyền được mở rộng, do vậy có rất nhiều loại việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 264 Luật Tố tụng hành chính 2010 về
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2003 thì việc tranh chấp
quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản
1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì sau khi tranh chấp được Chủ tịch
UBND cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), hoặc Chủ tịch UBND
cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương) đã giải quyết mà các bên
đương sự không đồng ý giải quyết thì có quyền khiếu nại tiếp theo hoặc
khởi kiện tới Tòa án.
Trước đây, khi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính
vẫn được áp dụng thì loại việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước. Nay Luật tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực
thì loại việc trên lại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án và thuộc nhóm
việc quy định tại khoản 1 Điều 28.
- 7 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
b) Về thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ :
Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, trường
hợp người khỏi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên
lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan,
người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người
khỏi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội.
Luật TTHC có sự phân biệt rõ ràng trong trường hợp khiếu kiện đối
với quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức, đối với quyết định
buộc thôi việc đối với công chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ
cấp huyện trở xuống ban hành thì kiện tại Tòa án trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với cơ quan, tổ chức của người có thẩm quyền ra quyết
định. Đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương thì kiện tại Tòa an nơi mà
người khởi kiện làm việc.
1.2. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính theo pháp luật hiện
hành.
1.2.1. Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện.
Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện xác định các loại việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng hành
chính.
Theo quy định của Điều 28 Luật TTHC quy định về những khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cụ thể:
a. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các
quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong cac lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao
thao danh mục đó Chính phủ quy định và các quyết định hành
- 8 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức.
Như vậy, khác với quy định của Pháp lệnh TTGCVAHC trước đây khi quy
định về thẩm quyền theo loại việc đó chính là sự giới hạn 22 lĩnh vực được
quyền khiếu nại theo thủ tục tố tụng hành chính. Hiện nay theo Luật TTHC,
Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong mọi lĩnh vực quản lý nhà nước, loại trừ quyết định
hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành
chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
b. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Đây là loại việc đặc biệt đuôc Luật TTHC liệt kê trong một khỏa riêng của
Điều luật. Đối tượng khiếu kiện ở đây chính là danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Đối với loại việc này thì công dân chỉ được thực hiện quyền khởi kiện tại
Tòa án sau khi thực hiện thủ tục khiếu nại hành chính. Bên cạnh d0o1
công dân chỉ có quyền khởi kiện về việc không có tên trong danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân mà không có quyền khởi kiện về tư cách các ứng cử viên đại
biểu, các hoạt động liên quan đến bầu cử hay kết quả bầu cử…
Do trong quá trình giải quyết của Tòa án đối với loại khiếu kiện này có
nhiều điểm khác biệt so với các loại việc khác nên được Luật TTHC quy
định tại chương XI của Luật TTHC.
c. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ
chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
Phạm vi các quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức có thể bị
khiếu kiện là rất rộng. Phạm vi này chỉ bị giới hạn bởi đối tượng bị kỷ luật
là “công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống”
mà không phụ thuộc vào cơ quan làm việc của công chức.
- 9 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
d. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh.
Đây là loại việc đặc biệt vì đối tượng khởi kiện là quyết định giải quyết
khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành
chính là quyết định của Hội đống cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công
thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo
quy định tại mục 7 chương V của Luật cạnh tranh, bao gồm:
- Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với
quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối
với quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý
vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
1.2.2. Thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ.
Cơ sở pháp lý: Điều 29 và Điều 39 Luật TTHC, thẩm quyền theo các cấp
Tòa án và theo lãnh thổ được hiểu như sau:
+ Đối với thẩm quyền theo các cấp Tòa án: Tòa án nhân dân cấp huyện
có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện của cá nhân, tổ chức mà người
bị kiện trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong
cơ quan nhà nước cấp huyện trở xuống, đồng thời giải quyết khiếu kiện về
danh sách cử tri bầu cử Đại biểu Quốc hội và danh sách bầu cử Đại biểu
Hội đồng nhân dân. Đối với những khiếu kiện mà người bị khiếu kiện là cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước cấp
tỉnh và cấp trung ương ( gồm các quyết định hành chính, hành vi hành
chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phóng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định
hành chính, hành vi hành chính của ngưới có thẩm quyền trong cơ quan
đó; các quyết định hành, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong
các cơ quan nhà nước vừa nêu trên và quyết định hành chính, hành vi
- 10 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
hành chính của ngưới có thẩm quyền trong các cơ quan đó) thì thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
+ Đối với thẩm quyền theo lãnh thổ: Nếu người bị kiện thuộc cơ quan nhà
hước cấp địa phương (bao gồm cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã…) thì kiện
tại Tòa án trên cùng lãnh thổ với cơ quan bị kiện (hoặc cơ quan có cán bộ,
công chức bị kiện trong trường hợp người bị kiện là người có thẩm quyền).
Nếu người bị kiện là cơ quan nhà nước cấp trung ương hoặc ngưới có
thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước này thì người khởi kiện là cá
nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức
có trụ sở ở đâu thì kiện tại Tòa án nơi đó.
Ngoài ra Luật TTHC đã bổ sung thêm một số quy định mới mà trong Pháp
lệnh TTGQCVAHC trước đây chưa quy định:
- Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, trường
hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở
trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi có
cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi
hành chính.
- Đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài hoặc của ngưới có thẩm quyền trong cơ quan đó
mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án. Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú
tại Việt Nam, thì Tòa án có thẩm quyền là Tóa án nhân dân thành
phố Hà Nội và Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;
Bên cạnh đó, có một điểm khác biệt rất lớn trong việc xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ giữa Pháp lệnh TTGQCVAHC và Luật TTHC trong trường
hợp đối với khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối cới công chức.
Theo Pháp lệnh TTGQCVAHC trường hợp khiếu kiện đối với quyết định kỷ
luật buộc thôi việc phải khiếu kiện tại Tòa án trên cùng lãnh thổ với cơ
quan của người đã ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc mà không phân biệt
quyết định kỷ luật buộc thôi việc đó do n người có thẩm quyền cơ quan
nhà nước cấp nào ban hành. Luật TTHC thì có sự phân biệt rõ vấn đề này,
- 11 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
đối với quyết định buộc thôi việc đối với công chức do người đúng đầu cơ
quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống ban hành thì kiện tại Tòa án trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với cơ quan, tổ chức của người có thẩm
quyền ra quyết định. Đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người
dứng dầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương thì kiện tại Tòa
án nơi mà người khởi kiện làm việc.
Trường hợp cần thiết Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện quy định tại điểm
g khoản 1 Điều 30 Luật TTHC.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan
đến nhiều đối tượng, phức tạp.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà các Thẩm phán của Tòa
án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp hải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi.
- Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác
tư pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc cớ quan có thẩm quyền ở
nước ngoài.
1.2.3. Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa Tòa án với Tòa án
và giữa Tòa án với cơ quan giải quyết khiếu nại .
a. Tranh chấp giữa Tòa án nhân dân với nhau (khoản 2
Điểu 32 Luật TTHC).
- Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh
án Tòa án cấp tỉnh giải quyết.
- Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau
hoặc giữa các Tòa án cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải
quyết.
- 12 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
b. Tranh chấp giữa Tòa án nhân dân với người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại (Điều 31 Luật TTHC).
Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi
kiện.
(Xem hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP)
Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền và một số
kiến nghị.
2.1 Thực trạng về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính.
2.1.1 Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền.
a. Ưu điểm
Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân, Điều 28 Luật Tố tụng hành
chính quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo hướng loại trừ, cụ thể là Tòa án có thẩm quyền giải quyết các khiếu
kiện sau đây:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, trừ các quyết định hành chính,
hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các
quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức.
- Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử Đại biểu quốc hội, danh sách
cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ
từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh.
- 13 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Thực tiễn cho thấy, việc quy định theo phương pháp liệt kê các khiếu
kiện thuộc thẩm quyền của Toà án như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính đã hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân,
cơ quan, tổ chức đối với một số loại việc, đặc biệt là các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Việc quy định theo
phương pháp liệt kê trong một số trường hợp dẫn đến việc tranh luận
không đáng có hoặc bỏ sót loại việc lẽ ra cần được giải quyết tại Toà án.
Chính vì vậy, quy định các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án theo phương pháp loại trừ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc xác định quyền khởi kiện các vụ án
hành chính, đảm bảo sự công bằng cho người dân và đáp ứng được yêu
cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Về mặt
kỹ thuật lập pháp, việc quy định theo phương pháp loại trong trường hợp
này là rất hợp lý và bảo đảm tính ổn định của điều luật.
Quy định trên đã loại trừ khỏi đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà
nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do
Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Quyết định hành chính, hành vi
hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là các quyết định và
hành vi hành chính liên quan đến quan hệ nội bộ như phân công trách
nhiệm giữa thủ trưởng và nhân viên, phân công trách nhiệm giữa các cơ
quan, quyết định phân công công tác trong nội bộ cơ quan
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính thì
những quyết định hành chính, hành vi hành chính này không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà hành chính. Tương tự như vậy, do đặc thù và
tính nhạy cảm của lĩnh vực quốc phòng, an ninh nên các quyết định và
hành vi hành chính mang tính chất bí mật nhà nước sẽ do Chính phủ quy
định cũng nằm ngoài phạm vi thẩm quyền xét xử án hành chính của Toà
án nhân dân.
Bên cạnh đó, để khắc phục những mâu thuẫn trong các quy định của
pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, Điều 264 Luật
Tố tụng hành chính đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai, đó
là sửa đổi khoản 2 Điều 136 và Điều 138 của Luật Đất đai năm 2003.
- 14 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Theo đó, đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 50
Luật Đất đai khi có tranh chấp quyền sử dụng đất nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh thì đương sự có thể lựa chọn tiếp tục khiếu nại lên
cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện ra Toà hành chính (khoản 1
Điều 264 Luật Tố tụng hành chính). Tại khoản 2 Điều 264 Luật Tố tụng
hành chính (sửa khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003): "Trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất
đai thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính". Như vậy, với
quy định về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 136 và Điều 138 Luật Đất
đai năm 2003, Luật Tố tụng hành chính đã tạo ra sự thống nhất trong việc
giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý đất đai cũng như sự thống nhất với quy định của Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 2005. Do đó, góp phần bảo đảm tính khả thi của
Luật Tố tụng hành chính.
Cũng liên quan đến việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án đối
với các khiếu kiện hành chính, tại Điều 3 Luật Tố tụng hành chính đã giải
thích các thuật ngữ cơ bản là "quyết định hành chính", "hành vi hành
chính" với tư cách là đối tượng khởi kiện được quy định tại Điều 28 luật
này. Theo đó, quyết định hành chính được hiểu là văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong
các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể (khoản 1 Điều 3); hành vi hành chính là hành vi của cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm
vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 3). Như vậy Luật Tố
tụng hành chính đã khắc phục được những thiếu sót của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Cùng với việc quy định các
khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo phương pháp loại
trừ, việc giải thích này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong việc xác định quyền khởi kiện vụ án hành chính của mình, đảm
bảo sự công bằng và đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế
- 15 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
b. Nhược điểm
Khi nói đến vấn đề thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án (từ đây
xin nói tắt là thẩm quyền), có thể xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau:
góc độ mục đích, nội dung, tính chất Ở đây, chúng tôi xem xét thẩm
quyền này dưới góc độ nội dung và tập trung bàn về: thẩm quyền đối với
việc thụ lý việc kiện hành chính (tạm gọi là thẩm quyền thụ lý) và thẩm
quyền đưa ra phán quyết về Quyết định hành chính và Hành vi hành chính
bị kiện (gọi tắt là thẩm quyền phán quyết) của tòa án.
Về thẩm quyền thụ lý:
Về lý thuyết, để được coi là có một vụ án hành chính, phải có việc
kiện hành chính và việc thụ lý của tòa án. Trong giới hạn bài viết này,
chúng tôi không hướng việc nghiên cứu vào các quy trình và kỹ năng tố
tụng của hành vi thụ lý, mà chủ yếu phân tích một số vấn đề liên quan đến
thẩm quyền của tòa án trong việc thụ lý một vụ án hành chính. Bởi vì việc
tòa thụ lý hay từ chối đơn kiện hành chính của một người sẽ có những ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền công dân của họ.
- Để có thể thụ lý một vụ án hành chính, trước hết tòa án phải xem
xét thẩm quyền theo loại việc. Thẩm quyền này đã được quy định trong
pháp lệnh số 10/1998/PL- UBTVQH với tên gọi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung
một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi
tắt là PL) tại Điều 11 xác định 9 loại việc cụ thể. Nghị quyết 03/HĐTP
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính ngày 18/04/2003 tổng kết thêm 7 loại việc
được coi là thuộc Điều 11 khoản 10 PL.
Việc mở rộng từng bước thẩm quyền của tòa án như trên chứng tỏ
vai trò xét xử hành chính của tòa án đã được nhà nước và xã hội thừa
nhận. Tuy nhiên, để tòa án có thể thụ lý và giải quyết được những loại việc
đó, không phải vấn đề đơn giản. Bởi lẽ, dù PL đã quy định tương đối chi
tiết trong Điều 11 các loại việc tòa hành chính có thẩm quyền xét xử, song
thực tế các tòa áp dụng không thống nhất. Cùng loại việc, tòa án này thụ lý
nhưng tòa án lại khác từ chối đơn kiện. Nguyên nhân trước tiên là do cách
hiểu về những điều, khoản đã quy định không nhất quán. Có thể ví dụ:
Điều 11 khoản 2 PL quy định tòa án có thẩm quyền xem xét khiếu kiện về
“Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc buộc tháo dỡ công
trình, nhà ở, vật kiến trúc kiên cố”. Ngay lập tức cái gọi là “công trình… bị
- 16 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
tháo dỡ” được nhiều tòa mặc định chỉ là những công trình xây dựng trái
phép. Do đó, nếu 1 công trình bị tháo dỡ, nhưng không phải do xây dựng
trái phép mà có khiếu kiện tòa không thụ lý vì lý do không thuộc thẩm
quyền theo Điều 11 khoản 2.
Về quyết định tháo dỡ công trình xây dựng có nhiều trường hợp khác
nhau: Có thể đó là công trình do xây dựng trái phép, bị xử phạt và buộc
tháo dỡ, trường hợp này có thể khởi kiện theo Điều 11 khoản 1: khiếu kiện
về quyết định xử phạt vi phạm hành chính (QĐXPVPHC). Vì về nguyên
tắc, tháo dỡ là biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt hành chính
không áp dụng độc lập mà phải áp dụng kèm theo hình thức phạt chính và
ban hành trong cùng quyết định với hình thức phạt chính. Cũng có trường
hợp xây dựng trái phép, nhưng vì hết thời hiệu xử phạt, nên không ra
quyết định xử phạt mà cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể ra quyết định áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả3. Khi đó, biện pháp tháo dỡ công trình
xây dựng trái phép có thể áp dụng độc lập bằng một quyết định hành
chính. Nếu muốn kiện, người khởi kiện có thể kiện theo Điều 11 khoản 2.
Vậy đối với công trình, nhà ở, vật kiến trúc kiên cố được xây dựng
không trái phép nhưng vẫn bị tháo dỡ vì những lý do từ phía công quyền
đưa ra thì đương sự có quyền khởi kiện không? Ví dụ, có căn nhà, ban
đầu được nhà nước công nhận là tồn tại hợp pháp, việc sang nhượng căn
nhà được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận. Nhưng rồi, chính cơ quan đó
lại buộc người mua phải tháo dỡ căn nhà vì lý do liên quan đến quyền sử
dụng mảnh đất trên đó căn nhà tọa lạc (nhưng cơ quan có thẩm quyền
chưa ban hành quyết định thu hồi đất). Trường hợp đó tòa án có thụ lý
không hay viện lý do việc kiện không thuộc trường hợp “công trình xây
dựng trái phép” để rồi trả lại đơn
Nghị quyết 03 có đụng chạm đến vấn đề này nhưng tiếc là chỉ mới
hướng dẫn về tính chất kỹ thuật của đối tượng bị tháo dỡ - tức là cách xác
định thế nào là “công trình, nhà ở, vật kiến trúc kiên cố”, chứ không giải
thích về tính chất pháp lý của chúng: Đó là loại công trình xây dựng trái
phép hay là cả những công trình không xây trái phép nhưng cơ quan nhà
nước vẫn quyết định tháo dỡ? Chúng tôi cho rằng điều này cần được quy
định cụ thể hơn.
Tương tự Điều 11 khoản 2, việc xác định thẩm quyền của tòa án để
thụ lý đơn kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức
theo Điều 11 khoản 4, tòa án cũng “bối rối” trong xử lý. Về phân loại cán
- 17 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
bộ, công chức Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi 2003 và 4 Nghị định
của Chính phủ (số 114/CP, 115/CP, 116/CP và 117/CP ban hành cùng
ngày 10/10/2003) quy định có vẻ như cụ thể, chi tiết hơn trước đây. Tuy
nhiên, thực tế thì việc phân loại trong các văn bản này lại phần nào “làm
khó” cho tòa án khi xem xét thụ lý đơn kiện của công chức bị thôi việc. Ví
dụ, trường hợp của công chức dự bị (theo Nghị định 115/CP). Những
người này nếu vi phạm kỷ luật, bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc việc
(Điều 27 Nghị định 115/CP) thì có thể kiện tại tòa hành chính hay không?
Chiếu theo Nghị định 115/CP thì họ có quyền kiện, vì chương III Nghị
định 115/CP quy định công chức dự bị có quyền khiếu nại về quyết định kỷ
luật theo Điều 41, 42, 44, 45 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Mà Điều
42 nói về quyền khởi kiện vụ án hành chính. Điều đó có nghĩa là Nghị định
115/CP, Pháp lệnh Cán bộ, công chức thừa nhận cho họ có quyền kiện ra
tòa nếu bị buộc thôi việc. Song, nếu theo lý luận hành chính về công chức
thì việc kiện hành chính đó có điều không ổn bởi công chức theo đúng khái
niệm phải là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân
sách và được xếp vào ngạch công chức 5. Trong khi đó, công chức dự
bị thì chưa phải là công chức vì chưa được xếp vào ngạch. Mà Điều 11
khoản 4 Pháp lệnh 98 chỉ chấp nhận khiếu kiện của người là cán bộ, công
chức. Như vậy, hai PL quy định trái nhau. Và khi có sự mâu thuẫn giữa các
văn bản, tòa án thực sự không dám chắc có thể thụ lý đơn khởi kiện của
công chức dự bị theo khoản 4 Điều 11 hay không?
Có thể thấy, nếu các quy định không rõ ràng, việc hiểu không thống nhất
thì áp dụng sẽ không đồng bộ, mỗi nơi làm theo cách hiểu của mình, điều
đó ảnh hưởng đến quyền của người khởi kiện và không đảm bảo được
mục đích và ý nghĩa của xét xử hành chính.
- Xác định thẩm quyền theo lãnh thổ của tòa án là vấn đề quan trọng
thứ hai khi thụ lý một vụ án hành chính.
Việc đương sự có thể kiện ở đâu, tòa cấp nào sẽ thụ lý là vấn đề người
khởi kiện có nhiều băn khoăn.
Điều 12 Pháp lệnh quy định thẩm quyền theo cấp tòa án (huyện, tỉnh,
tối cao) tương đối cụ thể. Và tưởng chừng quy định cụ thể như vậy thì đã
có thể áp dụng dễ dàng! Nhưng, vấn đề lại cách hiểu về thuật ngữ không
thống nhất.
- 18 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Tại điểm a khoản 1 quy định thẩm quyền của tòa án cấp huyện đối
với:
a) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh
thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;
Và điểm a, điểm b khoản 2 quy định thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh
đối với:
a) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn
phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà
người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên
cùng lãnh thổ;
b) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước
quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan
chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.
Các quy định này có sử dụng thuật ngữ “trên cùng lãnh thổ”. Có ý
kiến cho rằng “cùng lãnh thổ” tức là tòa án thụ lý đơn kiện đóng trụ sở
cùng địa bàn với nơi cư trú của những người khởi kiện. Nếu hiểu như vậy
thì sẽ có vấn đề là: tại thời điểm nhận quyết định hành chính, người khởi
kiện cư trú ở tỉnh A, sau đó một thời gian họ chuyển đến cư trú ở tỉnh B.
Vậy, nếu muốn kiện quyết định hành chính đó (vẫn trong thời hiệu khởi
kiện) thì có thể kiện tại tòa án tỉnh B hay phải trở về kiện tại tòa tỉnh A? Và
nếu nhiều người kiện một quyết định hành chính nhưng lại ở các nơi khác
nhau thì sao?
Có quan điểm cho rằng, “cùng lãnh thổ” được hiểu là tòa án và cơ
quan ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính
đóng trụ sở trên cùng lãnh thổ. Nghĩa là, cơ quan ban hành quyết định
hành chính đóng ở địa bàn (tỉnh, huyện) nào thì tòa án nơi đó thụ lý đơn
kiện không cần biết người bị áp dụng quyết định hành chính cư trú có trên
- 19 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
cùng lãnh thổ hay không. Hiểu theo cách đó thì hệ quả sẽ là: trong trường
hợp cơ quan ban hành quyết định đóng tại địa phương này nhưng ban
hành quyết định áp dụng cho đối tượng ở địa phương khác (ví dụ quyết
định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ - các cơ quan này đóng trụ sở
ở Hà Nội, nhưng áp dụng với đối tượng cư trú hoặc đóng trụ sở ở thành
phố Hồ Chí Minh!), thì người khởi kiện chỉ có thể kiện tại tòa án nơi mà cơ
quan ban hành quyết định đó đóng trụ sở (trường hợp ví dụ trên thì chỉ
được kiện tại tòa án thành phố Hà Nội). Khi khoảng cách địa lý quá xa thì
rõ ràng là bất lợi cho người khởi kiện! Nhất là với vụ việc trong đó phần lớn
(hoặc thậm chí là tất cả) đối tượng bị áp dụng quyết định lại ở một địa bàn
khác với nơi cơ quan ban hành quyết định đóng trụ sở. Trong khi đó, việc
di lý án đâu phải lúc nào cũng dễ dàng và đảm bảo xét xử khách quan.
Điều nên bàn ở đây là, nếu hiểu khái niệm “trên cùng lãnh thổ” như cách
hiểu thứ 2 thì chắc chắn là đã không có việc quy định trong khoản 3 Điều
12 PL về trường hợp Tòa án Tối cao lấy vụ việc lên để giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm khiếu kiện về “quyết định hành chính,
hành vi hành chính… liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường
hợp khó xác định được thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh nào”. Bởi vì sẽ
chẳng có sự “khó” ấy nếu xác định thẩm quyền thụ lý theo kiểu cơ quan
ban hành Quyết định có trụ sở ở đâu thì tòa án nơi đó thụ lý, không phụ
thuộc người khởi kiện! Dường như PL đặt vấn đề này là xuất phát từ cách
hiểu khái niệm”trên cùng lãnh thổ” tức là tòa có thẩm quyền thụ lý là tòa án
nơi mà người khởi kiện cùng cư trú hoặc cùng đóng trụ sở. Cho nên, nếu
những người khởi kiện không cùng nơi cư trú thì mới phát sinh cái gọi là
“khó xác định thẩm quyền thuộc tòa án tỉnh nào” chứ!
Tuy nhiên, nếu chấp nhận cách hiểu đó thì tòa án cấp Tỉnh sẽ lúng
túng trong trường hợp đương sự ở những địa bàn khác nhau cùng kiện
một quyết định hành chính khi mà Tòa tối cao đã không còn quyền theo
Điều 12 khoản 3 nữa!
Vấn đề này cũng là một trở ngại cho tòa án khi đứng trước câu hỏi: Vụ việc
có thuộc thẩm quyền của tòa hay không?
- Việc giải quyết “xung đột” thẩm quyền thụ lý khiếu kiện hành chính
mà Pháp lệnh hiện đang quy định còn có điểm chưa thật sự hợp lý. Theo
Điều 13 Pháp lệnh, nếu vụ việc liên quan đến nhiều người mà một số
người khởi kiện tại tòa án, một số khác khiếu nại lên cơ quan hành chính
cấp trên thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân. Điều này được
Nghị quyết 03 mục 12 hướng dẫn cụ thể hơn, nhưng chung quy việc quyết
- 20 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
định trao quyền giải quyết cho tòa án hoặc cơ quan cấp trên cũng không
có sự lý giải rõ ràng.
Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc xác định thẩm quyền đương
nhiên cho tòa án như vậy là không hợp lý vì không phù hợp với nguyên tắc
quyền tự định đoạt của các đương sự trong việc khiếu nại cũng như khiếu
kiện hành chính. Nếu như, phần lớn những người liên quan trong vụ việc
đó cùng quyết định kiện tại tòa án thì việc giao cho tòa án giải quyết khiếu
kiện đó là hoàn toàn hợp lý. Nhưng ngược lại, nếu vẫn trao quyền xét xử
đó cho tòa án khi mà phần lớn người có liên quan đã quyết định khiếu nại
hành chính chứ không kiện ra tòa xem ra lại là bất hợp lý, không tôn trọng
quyền lựa chọn của đương sư. Chúng tôi đồng ý với cách lập luận trên và
kể cả sáng kiến về cách phân định thẩm quyền dựa theo tỷ lệ giữa khiếu
nại và khiếu kiện theo cách mà tác giả đưa ra: Nếu số khiếu nại nhiều hơn
thì vụ việc do cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết và ngược lại.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần xem lại cách tính tỷ lệ đơn (khiếu nại và
khởi kiện) đối với trường hợp một người gửi đơn tới cả hai nơi (vừa kiện
tại tòa, vừa khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên).
Theo ý kiến chúng tôi, nếu dựa vào tiêu chí quyền tự định đoạt của
đương sự để xác định thẩm quyền thụ lý thì phải triệt để bám sát tiêu chí
đó. Khi nhà nước tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, tạo điều kiện
cho họ được suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định kiện hay không kiện
(bằng các quy định về thời hiệu khởi kiện), thì ngược lại đương sự phải có
nghĩa vụ tôn trọng quyền đó của mình. Nếu họ tùy ý vi phạm quyền này thì
quyền lợi của họ sẽ không được bảo vệ. Cho nên, nếu một người vừa
khiếu nại hành chính lại vừa khởi kiện ra tòa, thì khi tính tỷ lệ giữa khiếu
nại và khiếu kiện, sẽ không tính đơn khởi kiện mà chỉ tính đơn khiếu nại
cho người đó. Như vậy mới phù hợp với tinh thần Điều 2 và Điều 30 Pháp
lệnh - tức là người khởi kiện phải cam đoan không khiếu nại hành chính
lên cấp trên. Do đó, khi họ vi phạm cam kết này thì coi như họ tự tước
quyền khởi kiện của mình!
- Tóm lại, xét về thẩm quyền tòa án trong việc thụ lý án hành chính,
rõ ràng còn nhiều vấn đề phải bàn. Chúng ta hãy khoan nói đến việc mở
rộng thẩm quyền của tòa án theo hướng nào: quy định cho tòa có quyền
xét xử tất cả các loại tranh chấp hành chính hay mở rộng từng bước thẩm
quyền cho tòa án? Thực tế là, khi công dân tham gia giám sát hoạt động
của hành chính bằng con đường khiếu kiện hành chính không phải chỉ vì
công quyền mà trước hết là vì chính họ. Do đó, sẽ là sai lầm khi cho rằng
- 21 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
có thể thu hút sự tham gia của công dân vào cơ chế giám sát này bằng
cách mở rộng thẩm quyền cho tòa án một cách vội vã, không tính toán! Dĩ
nhiên là không thể làm theo kiểu “thị trường”- hấp dẫn khách hàng bằng
cách tăng số lượng sản phẩm cho phong phú, bắt mắt mà quên đi vấn đề
chất lượng. Vì thế, chúng ta cần phải xem xét lại thật kỹ lưỡng những quy
định liên quan đến thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án trong các văn
bản tố tụng hành chính hiện hành và các văn bản khác liên quan đến lĩnh
vực này. Cần sửa đổi và bổ sung sao cho những loại việc hiện đang quy
định cho tòa án (số loại việc dù còn rất hạn chế) phải được mọi người có
thể hiểu một cách thống nhất. Có vậy, tòa án mới thụ lý và xét xử đúng
pháp luật và công dân mới tự tin mà nộp đơn kiện ra tòa!
Về thẩm quyền phán quyết của tòa án:
Ở Pháp, khi xét xử vụ án hành chính, Tòa hành chính có quyền kết luận,
quyết định với một trong các hình thức sau: Bác bỏ đơn khiếu kiện của
đương sự; Hủy quyết định của cơ quan cơ quan hành chính đã gây thiệt
hại cho công dân; Buộc cơ quan hành chính đã ra quyết định hành chính
sai trái phải bồi thường. Hội đồng nhà nước Pháp (le Conseil d’Etat) không
chỉ có quyền kiểm tra tính hợp pháp của quyết định hành chính cá biệt mà
còn được trao quyền kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản quy phạm,
có quyền hủy bỏ văn bản quy phạm (bị kiện độc lập hoặc văn bản được áp
dụng để ban hành văn bản cá biệt).
Luật tố tụng hành chính Trung Quốc, trái lại, không quy định thẩm quyền
xét xử của tòa án đối với văn bản quy phạm mà việc xử lý những văn bản
quy phạm sai trái được giải quyết bằng con đường hành chính.
Qua ví dụ từ luật của một số nước, cho thấy luật tố tụng hành chính Việt
Nam có nhiệm vụ phải xác định rõ thẩm quyền ra phán quyết của tòa án
với vụ án hành chính, tức là tòa án phải tuyên bố một cách cụ thể những
vấn đề liên quan đến quyết định hành chính và hành vi hành chính bị kiện.
Đáng tiếc là, trong PL không có quy định cụ thể nào về vấn đề này.
Chương III của PL quy định về phiên tòa sơ thẩm nhưng tuyệt không có
một quy định nào nói đến việc tòa sẽ phán quyết thế nào về quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị kiện (hủy bỏ quyết định; bác đơn kiện
hay đình chỉ hành vi hành chính?). Nghị quyết 03 đã kịp thời khắc phục
hạn chế trên ở mục 16, theo đó:
- 22 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
Nếu yêu cầu của người khởi kiện không có cơ sở thì tòa tuyên bác
đơn kiện ;
+ Đối với quyết định hành chính, tòa có quyền tuyên: Hủy 1 phần hoặc
toàn bộ quyết định (bao hàm cả quyết định kỷ luật buộc thôi việc) trái pháp
luật, buộc cơ quan, cán bộ có thẩm quyền thực hiện công vụ theo đúng
quy định của pháp luật; Nếu có thiệt hại phát sinh từ quyết định hành chính
thì buộc cơ quan, cán bộ có thẩm quyền bồi thường thiệt hại.
+ Đối với hành vi hành chính, tòa có quyền tuyên bố 1 hoặc toàn bộ các
hành vi hành chính là trái pháp luật, buộc chủ thể có hành vi đó phải chấm
dứt.
Mặc dù Nghị quyết 03 đã lấp được phần nào lỗ hổng to lớn của Pháp
lệnh, song Nghị quyết lại hạn chế trong việc chỉ xác định quyền phán quyết
của tòa án đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ
quan hành chính, cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan đó. Như vậy lại
là không phù hợp với Điều 12 PL về loại quyết định hành chính và hành vi
hành chính là đối tượng xét xử của tòa án (không phải chỉ là quyết định và
hành vi của cơ quan hành chính).
Thêm nữa, cũng có ý kiến cho rằng, Nghị quyết mới nói đến quyền
Hủy (toàn bộ hoặc một phần) quyết định hành chính sai trái mà không nói
việc tòa có quyền Sửa quyết định hay không khi thấy quyết định cần phải
sửa và Tòa có thể sửa. Ý kiến này dựa trên lập luận rằng làm như vậy thì
quá trình phục hồi quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện sẽ diễn ra
nhanh chóng hơn. Chúng tôi cho rằng: tòa án chỉ có quyền phán xét về
tính hợp pháp, tính đúng đắn của quyết định hành chính và hành vi hành
chính chứ không có quyền làm thay công việc của hành chính.
Nghĩa là sau khi xem xét, thấy quyết định đó là trái pháp luật thì
tuyên bố: quyết định trái pháp luật! Còn việc xử lý quyết định đó phải thuộc
trách nhiệm của hành chính (đương nhiên đặt dưới quyền giám sát của tòa
án - vì có bản án của tòa án). Theo chúng tôi, tòa án không có quyền sửa
quyết định hành chính (cho dù chính chủ thể ban hành cũng thừa nhận sai
lầm trong quyết định đó). Đơn giản vì sửa quyết định hành chính là hoạt
động quản lý hành chính thuộc chức năng hành pháp không thuộc chức
năng xét xử của tòa án! (ngay cả việc hủy quyết định cũng đã là can thiệp
vào công việc của hành chính, song có lẽ vì tính rõ ràng là trái pháp luật
- 23 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
của nó và để phục hồi nhanh quyền của người khởi kiện mà trao quyền
cho tòa án tuyên hủy).
Ngoài ra, cũng cần quy định cụ thể quyền của Tòa án đối với quyết
định hành chính bị kiện được xác định là trái pháp luật, nhưng do áp dụng
một văn bản đang có hiệu lực mà văn bản ấy trái với văn bản của cấp trên
về cùng một vấn đề. Mặc dù chúng ta đã có nguyên tắc xác định hiệu lực
của văn bản, văn bản của cấp trên có hiệu lực pháp lý cao hơn. Nếu người
áp dụng biết văn bản của cấp trên và văn bản được chọn để áp dụng mâu
thuẫn nhau mà vẫn áp dụng văn bản của cấp dưới thì quyết định phải bị
hủy. Nếu không biết là có văn bản của cấp trên quy định khác về vấn đề
mình giải quyết thì việc ban hành quyết định rõ ràng là trái pháp luật, thể
hiện sự tác trách của người ban hành quyết định, cũng phải hủy quyết
định10. Cần quy định cụ thể trong PL quyền của tòa án tuyên hủy quyết
định hành chính trong trường hợp đó.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ về những điểm hạn chế của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết vụ án hành chính (PLTTGQVAHC) liên quan đến thẩm
quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân. Mục đích của chúng tôi là,
chỉ cần xét dưới góc độ lý thuyết, chưa nói đến kỹ năng nghiệp vụ của tòa
án, cũng đủ thấy rằng đã đến lúc phải xem xét lại toàn diện và kịp thời sửa
lại toàn bộ PLTTGQVAHC. Trong đó, một trong những nội dung quan trọng
hàng đầu là quy định lại một cách rõ ràng, chính xác, thống nhất vấn đề
thẩm quyền của tòa án. Cần sửa đổi văn bản này song song với việc rà
soát một số văn bản tố tụng hành chính và văn bản có liên quan khác để
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Trong quá trình sửa đổi
Pháp lệnh, cũng nên tính đến “đỡ đầu” cho một số quan hệ có “nguy cơ bị
bỏ rơi”- chẳng hạn loại khiếu kiện về danh sách cử tri và hộ tịch là loại
quan hệ mà quá trình dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã nhiều ý kiến thống
nhất không nên quy định việc giải quyết loại việc này theo thủ tục tố tụng
dân sự như trước đây mà nên chuyển cho tòa hành chính giải quyết. Đó là
giải pháp hoàn toàn hợp lý vì bản chất những quyền đó là quyền hành
chính của công dân và ở nhiều nước trên thế giới loại việc này từ lâu được
quy định là khiếu kiện hành chính và do tòa hành chính giải quyết.
Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án
sẽ góp phần khuyến khích mọi người tham gia tích cực vào cơ chế pháp lý
này, qua đó góp phần chấn chỉnh lại hoạt động hành chính theo hướng
ngày càng hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn, bảo vệ ngày càng tốt hơn các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân!
- 24 -
Tiểu luận Tố tụng hành chính
- Chậm mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong lĩnh vực khiếu
kiện hành chính dẫn đến nhiều việc Toà án phải từ chối thụ lý
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 đã ghi
nhận Toà án có thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu kiện; sửa đổi, bổ sung
năm 1998 tăng thêm 2 loại khiếu kiện. Sau đó, mãi đến năm 2006 Pháp
lệnh này mới tiếp tục được sửa đổi, bổ sung mở rộng số lượng các khiếu
kiện thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án lên 22 loại việc. Tuy nhiên, quy
định theo kiểu liệt kê như các Pháp lệnh trên sẽ bị lạc hậu theo thời gian,
thường xuyên bị sửa đổi, bổ sung, điều này không những ảnh hưởng đến
tính ổn định của pháp luật mà còn không đáp ứng được sự phát triển của
điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu của thực tiễn. Thực tế, thời gian qua
cho thấy rất nhiều đơn khởi kiện của người dân trong lĩnh vực này, nhất là
những khiếu kiện hành chính về đất đai đã bị Toà án từ chối thụ lý vì chưa
có thẩm quyền xét xử.
Luật Tố tụng hành chính 2010 đã khắc phục hạn chế của các
Pháp lệnh trước đây bằng việc quy định mang tính loại trừ - một phương
pháp rất mở và bao quát, bao gồm tất cả các quyết định hành chính, hành
vi hành chính, chỉ trừ các quyết định hành chính, hành vi hành chí thuộc
phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định, hành vi
hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên, phạm vi loại trừ ở đây cũng nên cần tiếp tục được xem
xét bởi lẽ chúng ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trong một Nhà nước pháp quyền đòi hỏi
pháp luật phải là thượng tôn, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm cả
các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước đều làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, các cơ quan
tòa án ngoài việc cần được đảm bảo độc lập với các cơ quan hành
chính, thì còn phải có thẩm quyền quyết định tính đúng sai của tất cả các
quyết định hành chính, hành vi hành chính và mục tiêu của Luật Tố tụng
hành chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, cơ quan,
tổ chức tại các cơ quan tòa án.
Sở dĩ như vậy là bởi vì, dù là quyết định, hành vi mang tính chất nội
bộ nhưng cũng là quyết định, hành vi hành chính, trong trường hợp quyết
định hành chính đó, hành vi hành chính đó trái pháp luật và xâm phạm đến
- 25 -