Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Xuất bản việt nam với việc phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.26 KB, 22 trang )

A. MỞ ĐẦU
Từ cuối thế kỷ XX tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành
tất yếu khách quan. Nó cuốn hút tất cả các nước từ giàu đến nghèo, từ lớn đến
nhỏ. Sự chuyển biến to lớn này là thành quả của sự ra đưòi các cơng nghệ
cao, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức, tồn cầu hố và hội
nhập về kinh tế, văn hoá.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế đó sự sản inh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là hướng đi phù hợp với xu thế phát triển khách quan của
thừoi đại. Kinh tế thị trường Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của nền kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt,
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ phát triển hiện nay, không chỉ Việt Nam mà các nước
trên thế giới đang bùng nổ về công nghệ thông tin. Sự phát triển của khoa học
công nghệ tạo ra phương tiện mới trong việc tiếp nhận và truyền bá thông tin.
PGS.TS Trần Văn Hải – Trưởng khoa Xuất bản – Học viện Báo chí và
Tuyên truyền đã nhận định:
“Trong cơ chế thị trưởng định hưóng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xuất
bản là một binh chủng quan trọng trên mặt trận tư tưởng - chính trị, là công
cụ sắc bén để tuyên truyền, cổ động và tổ chức quần chúng cách mạng, xây
dựng hệ tư tưởng và giáo dục ý thức tri giác cách mạng cho mọi người. Song
xuất bản còn là ngành sản xuất hàng hoá, một ngành kinh tế kỹ thuật. Đặc
biệt trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức, xuất bản đang trở thành
ngành cơng nghiệp văn hố mũi nhọn, là một ngành công nghệ hiện đại”.
Quả đúng như PGS.TS Trần Văn Hải đã nói, hoạt động xuất bản là một
hoạt động truyền thông, giá trị truyền bá là giá trị của tin tri thức và các giá trị


văn hố tinh thần. Xuất bản có tác động khơng nhỏ đến sự phát triển bền vững


của kinh tế. Ngược lại, xuất bản nếu khơng tính đến hiệu quả kinh tế cũng
không thể tồn tại và phát triển được.
Trong xu thế quốc tế hố, tồn cầu hố hiện nay, hoạt động xt bản có
vai trị quan trọng, giúp nước ta có thể giải quyết được bài tốn về phát triển
kinh tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế mà không bị lạc hậu và chậm trễ về
tri thức thông tin và truyền thơng, hồn thành tốt việc chuyển giao cơng nghệ.
Vì lý do trên mà tác giải quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Xuất bản
Việt Nam với việc phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay”
2. Mục đích viết đề tài.
Trong tiểu luận, một mặt tác giả muốn khẳng định vị trí, tầm quan trọng
của xuất bản trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là việc phát triển kinh tế của
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hơn nữa, hoạt động xuất bản tham gia vào bồi dưỡng nhân lực, chuyển
giao cơng nghệ, tích luỹ vốn cho nền kinh tế nước nhà.
Mặt khác, hy vọng không những người trong ngành mà tất cả mọi
người sẽ trở thành một cộng tác viên đắc lực để tham gia xây dựng một ngành
xuất bản vững chắc và vươn cao hơn trong xã hội hiện đại.
3. Phạm vi đề tài.
Đối với đề tài nghiên cứu này, tác giả tập trung vào phân tích, nghiên
cứu một số khía cạnh sau:
Vai trị của xuất bản trong lĩnh vực kinh tế được thể hiện như thế nào?
Kinh tế có ảnh hưởng gì đối với cơng tác xuất bản.
Hiện trạng vai trị của xuất bản Việt Nam đối với việc phát triển kinh tế
hiện nay.
Phương hướng, giải pháp để xuất bản làm tốt nhiệm vụ của mình trong
việc phát triển kinh tế, tham gia vào xây dựng nguồn lực, bồi dưỡng nhân tìa
và tích luỹ vốn ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.



Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:
Phân tích – tổng hợp
Thống kê – phân tích
Đánh giá - nhận xét
….
5. Kết cấu của đề tài.
A- Mở đầu
B. Nội dung gồm
I. Vai trò của hoạt động xuất bản trong lĩnh vực kinh tế
II. Hiện trạng vai trò của xuất bản đố với việc phát triển nền kinh tế
Việt Nam hiện nay.
III. Phương hướng và biện pháp để xuất bản là động lực phát triển kinh
tế Việt Nam hiện nay.


B. NỘI DUNG
I. Vai trò của hoạt động xuất bản trong lĩnh vực kinh tế.
1. Một số khái niệm khách quan
1.1. Kinh tế, kinh tế tri thức cơng nghiệp hố - hiện đại hoá.
* Kinh tế.
Kinh tế là tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước
liên quan đến các quá rtình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản
phẩm xã hội.
Theo định nghĩa khác, tổng thể những mối quan hệ trong quá trình sản
xuất vật chất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong tổ chức và
hoạt động của cơ sở hạ tầng của xã hội, bao gồm các ngành kinh tế, kỹ thuật,
các loại hình sản xuất tương ứng.
Vậy, kinh tế là nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Quan hệ kinh tế, suy đến cùng là nhân tố quyết định mọi mối quan hệ xã hội.
Nền kinh tế toàn cầu đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Việt Nam cũng là

bước khơng nằm ngồi sự chuyển dịch ấy. Từ nền kinh tế lạc hậu chuyển sang
nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức…
* Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khuv ực kinh tế tư nhân làm chủ
đạo. Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các
cá nhân người tiêu dùng và cơng ty. Việc định giá hàng hố và phân bố các
nguồn lực kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung – cầu.
* Kinh tế tri thức.
Khái niệm kinh tế tri thức xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ
20, nhưng chỉ gần đây mới rộ lên, nhất là từ khi phát triển máy tính cá nhân,
rồi Internet và xa lộ thơng tin.
Có người gọi kinh tế tri thức là kinh tế mạng, để nhấn mạnh rằng chưa
bao giờ thế giới tràn ngập những tổ chức mạng như bây giờ.
Hiện nay, có nhiều quan điểm và định nghĩa về kinh tế tri thức.


Theo nhận định của Giáo sư - Viện sĩ Đặng Hữu trong bài “Kinh tế tri
thức với chiến lược phát triển của Việt Nam: “Kinh té tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đi với sự phát triển kinh tế. Tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức hai ngành công nghiệp và nông nghiệp chiếm tỷ lệ
thấp và chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành
tựu mới nhất của khoa học công nghệ.
Như vậy, hiện nay không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đang hướng
nền kinh tế sang nền kinh tế chủ đạo là kinh tế trio thức. Bởi thời đại ngày
nay là thời đại của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vậy nên tất cả các
lĩnh vực, ngành nghề đều chịu sự ảnh hưởng của tri thức, của khoa học – công
nghệ.
* Công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VII và Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, khi xác định nhiệm vụ căn bản trong giai

đoạn cách mạng mới, công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp
tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế trị trường có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Đảng cộng sản Việt Nam
đã xác định:
“Cơng nghiệp hố -hiện đại hố là q tình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng sức lao động thủ cơng là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra
năng suất lao động cao”.
Có thể nói, cơng nghiệp hố khơng hải chỉ là phát triển nền công
nghiệp mà là phát triển mọi lĩnh vực vai trò sản xuất vật chất và dịch vụ của
nền kinh tế đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao
động, kỹ năng sản xuất.


Hiện đại hố, cũng khơng có nghĩa chỉ là đưa khoa học – công nghệ kỹ
thuật thông tin – vi điện tử hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế mà là
quá trình vận dụng tất cả những phương tiện đó vào tổng thể hệ thống kinh tế
chính trị, xã hội, nó địi hỏi phải thực hiện cách mạng công nghệ trong các cơ
cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý.
Ở nước ta, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay thực sự
đang là một cuộc tiếp diễn lớn lao, rất căn bản của kinh tế - văn hoá Việt Nam
với thế giới tri thức hiện đại. Cơng nghiệp hố - hiện đại hố nâng cao chất
lượng cuộc sống từ đó hình thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời
sống tinh thần.
Công nghiệp hố - hiện đại hố khơng chỉ đưa nước ta hội nhập công
nghiệp, nền kinh tế hiện đại với thế giới mà là sự toàn diện khoa học kỹ thuật,
kinh nghiệm sản xuất – quản lý kinh tế - xã hội. Vậy chúng ta phải biết kết
hợp giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh, trong đó yếu tố nội sinh là gốc,

là nền tảng. Chúng ta hội nhập trên cơ sở định hướng với sự lựa chọn tối ưu
làm sao tích hợp được nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền khoa học kỹ thuật
– công nghệ và cách điều tiết nền kinh tế - xã hội của nhiều nước một cách hợ
lý, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của dân tộc mình.
Q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố có kết quả hay khơng cịn phụ
thuộc vào vấn đề giữ gìn bản sắc văn hố Việt. Khơng để nền khoa học cơng
nghệ hiện đại làm lu mờ tinh hoa, bản sắc của văn hoá. Tiếp thu những nét
văn hoá đặc sắc, đồng thời biết phát huy nét văn hố truyền thống. Mục tiêu
của cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển kinh tế hiện đại, kinh tế tri
thức đồng thời phát triển một cách hài hồ và tồn diện sắc thái văn hố Việt
Nam.
1.2. Xuất bản và xuất bản phẩm.
* Xuất bản.
Xuất bản là một từ Hán – Việt. Về từ loại là một động từ, có nghĩa là
phổ biến rộng bằng cách in và phát hành những loại sách báo, tranh ảnh và


các văn bản khác. Theo ngôn ngữ phương Tây, xuất bản là Publish trong tiếng
Anh, Publier trong tiếng Pháp… song đều bắt nguồn từ tiếng La tinh
Publicare có nghĩa là công bố cho mọi người đều biết.
Theo từ điển Thuật ngữ xuất bản – in – phát hành sách – thư viện – bản
quyền (Cục Xuất bản – Nxb Từ điển Bách khoa – 2002)
“Xuất bản là hoạt động truyền bá xã hội. Nó khơng tạo ra các tác phẩm
nhưng sử dụng các tác phẩm văn hoá để truyền bá, phổ biến. Nó là khâu nối
tiếp, nâng cao các giá trị văn hoá, nhân rộng và mang chúng đến với quần
chúng quảng đại trong xã hội”.
Xuất bản, hoạt động thuộc lĩnh vực văn hố, tư tưởng thơng qua việc
sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến nhiều người.
Xuất bản là một tổ hợp hoạt động văn hoá tinh thần, vừa là một hoạt
động sản xuất, lưu thông. Đáp ứng những nhu cầu văn hố, tư tưởng xã hội là

mục đcíh của hoạt động xuất bản. Việc tổ chức sản xuất, lưu thông các xuất
bản phẩm là phương thức, phương tiện hoạt động của sự nghiệp xuất bản.
Xuất bản là một q trình hoạt động nối tiép, đồng bộ, hồn chỉnh, gồm
ba khâu: “biên tập, in, phát hành các loại xuất bản phẩm trong xã hội”.
Theo PGS.TS Trần Văn Hải – Trưởng khoa Xuất bản – Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
“Xuát bản là một thành tựu của nền văn minh nhân loại khi ra đời nói
trở thành một cơng cụ mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển của nền văn minh
nhân loại. Xuất bản là một hoạt động truyền bá, là một q trình hoạt động
đồng bộ, hồn chỉnh, khép kín bao gồm ba khâu: biên tập, nhân bản và phát
hành. Xuất bản là một tổ hợp hoạt động vừa là hoạt động văn hoá tư tưởng,
vừa là một hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh hàng hoá xuất bản phẩm.
Xuất bản là một công cụ thống trị của giai cấp thống trị, là công cụ để thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội. Có thể nói, khái niệm xuất bản với tư
cách là khái niệm của khoa học xuất bản là sự khái quát hoá một quá trình


hoạt động vừa là hoạt động sáng tạo tinh thần, vừa là hoạt động sáng tạo vật
chất, gồm ba yếu tố tạo thành.
Xuất bản là hoạt động gia công biên tập đối với các tác phẩm, làmchốn
phù hợp với nhu cầu của độc giả.
Xuất bản là hoạt động nhân bản hàng loạt tác phẩm đã được gia công
-> để được độc giả sử dụng.
Xuất bản là hoạt động truyền bá rộng rãi các sản phẩm xuất bản đã
hoàn thành sau quá trình sản xuất, nhân bản.
* Xuất bản phẩm
Theo định nghĩa thơng thưịng, xuất bản phẩm là sản phẩm của hoạt
động xuất bản. Hay, xuất bản phẩm là các tác phẩm sau khi gia công biên tập,
qua chế bản, nhân bản đã phát hành tới công chúng.
Luật xuất bản 2004 đã định nghĩa xuất bản phẩm:

“Xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thậut được
xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài
và cịn được thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh từ các vật liệu, phương tiện kỹ
thuật khác nhau.
Tài liệu theo quy định của luật này bao gồm tài liệu tuyên truyền, cổ
động, hướng dẫn học tập, thi hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, hưóng dẫn kỹ thuật sản xuất, phòng chống thiên tai, dịch
bệnh, kỷ yếu hội thảo”
Trong điều 1 nghị định của Chính phủ năm 2005; xuất bản phẩm quy
định tại điều 4 luật Xuất bản được thể hiện dưới các hình thức sau:
(1). Sách, kể cả sách cho người khiếm thị, sách điện tử, sách trên mạng,
thơng tin máy tính (internet)
(2). Tranh ảnh, bản đồ, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, câu đối, cuốn thư
(3). Lịch tờ, lịch blốc, lịch bàn, lịch túi, lịch số, lịch bướm.


(4). Băng rơn thanh, băng, đĩa hình do nhà xuất bản có nội dung thay
sách hoặc minh hoạ cho sách.
2. Vai trò của hoạt động xuất bản trong lĩnh vực kinh tế.
Công tác xuất bản là công cụ truyền bá thơng tin, cơng cụ giáo dục có
tác động to lớn đối với sự phát triển kinh tế trên nhiều phương tiện. Và nhất là
hiện nay trong thời đại kinh tế tri thức, nền khoa học – công nghẹ hiện đại,
vấn đề truyền thơng đang rất được chú ý và đóng góp phần quan trọng vào
việc phát triển và vận dụng tri thức ấy.
Xuất bản ra đời do nhu cầu kinh tế, từ xa xưa, sự phát triển của lao
động sản xuất làm cho xã hội loài người phát triển về trí tuệ, phát triển ngơn
ngữ, chữ viết… nhu cầu giao lưu xã hội, nhu cầu lưu giữ và truyền hoá thơng
tin bằng văn bản xuất hiện.
Có thể nói, hoạt động xuất bản từ khi xuất hiện, có tác động to lớn đối

với các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2.1. Tác động của xuất bản với lực lượng sản xuất.
Thứ nhất, xuất bản có tác động mạnh mẽ đến nguồn lao động, chủ yếu
là đào tạo, nâng cao kỹ năng. Ta đã biết, con người là nhân tố cơ bản quyết
định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người trực tiếp tiếp thu và vận
dụng những kiến thức, tiến bộ của khoa học công nghệ để đưa vào sản xuất,
phát triển nền kinh tế, tạo ra hàng hoá, phát triển xã hội và đáp ứng nhu cầu
xã hội.
Vì lẽ đó, cơng tác xuất bản góp phần nâng cao dân trí, dào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, tạo ra phẩm chất cao đẹp của người lao động, phát huy
nhân tố con người để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngày nay, nền kinh tế nước ta đang bước vào nền kinh tế tri thức, nên
tri thức khoa học đến với mọi ngơìư là rất cần thiết. Xuất bản dần đáp ứng
được đầy đủ tri thức cho mọi người ở hầu hết các lĩnh vực. Từ nông nghiệp,
các nhà xuất bản đã xuất bản được những cuốn sách, tài liệu cho việc phát
triển của nhà riêng. Đưa tri thức đến với những người nông dân, giúp họ hiểu


biết và nâng cao trình độ. Nhất là trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Không những cung cấp những kiến thức đơn giản về khoa học kỹ thuật mà
việc chuyển giao công nghệ là một vấn đề rất quan trọng trong việc phát triển,
đào tạo và nâng cao kỹ năng của người lao động.
Thông qua xuất bản phẩm, con người nhận thức được mọi hiện tượng
tự nhiên, xã hội, kinh tế đã và đang diễn ra, trên cơ sở đó, người lao động sẽ
có thái độ và hoạt động đung đắn theo quy luật nhằm phù hợp với phát triển
kinh tế và cải tạo thế giới.
2.2. Tác động của xuất bản đối với quan hệ sản xuất.
Đối với quan hệ sản xuất, hoạt động xuất bản góp phần xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Biểu
hiện rõ nhất vai trò của xuất bản đối với quan hệ sản xuất được thể hiện ở tác

động của nó với việc bảo vệ và thực hiện quan hệ sở hữu trí tuệ và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế.
Nhất là đối với nước ta hiện nay, nền kinh tế đang phát triển, việc đưa
khoa học kỹ thuật, công nghệ vào để thay đổi nền sản xuất kinh tế là cần thiết.
Để làm được công việc đấy một cách có hiệu quả, trước tiên việc bảo vệ và sở
hữu những tri thức khoa học đã được ghi nhận và từ đó phát triển thành nội
dung của từng ngành kinh tế.
Bởi vậy mà xuất bản là công cụ quan trọng dể thực hiện và bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ – quyền sở hữu cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức.
Hoạt động xuất bản còn là nơi bẩo vệ quyền tác giả, nơi thựchiện quyền
tác giả khi thành tựu trí tuệ của họ được truyền bá. Từ đó, phát huy được
nguồn lực trí tuệ vào sản xuất, bảo vệ lợi ích của người sản xuất.
Trong thời đại cơng nghệ thông tin ngày nay, xuất bản là công cụ thơng
tin quan trọng, góp phần xây dựng, tạo nên hệ thống thông tin thông suốt
nhiều chiều: ngang, dọc, xuôi, ngược giữa chủ thể và đối tượng quản lý kinh
tế, góp phần vào việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả lq kinh tế cả ở tầm cỡ vĩ


mô - quản lý Nhà nước về kinh tế, cả ở tầm vĩ mô - quản lý sản xuất, kinh
doanh của các chủ thể quản lý kinh tế.
Có thể nói, hoạt động xuất bản có tác động lớn đến kinh tế, việc xuất
bản sách báo khoa học kỹ thuật đã cung cáp cơ sở khoa học và thực tế cho
việc xây dựng chiến lược kinh tế, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các đơn
vị kinh tế. Xuất bản còn là công cụ makerting, phương tiện quảng cáo và giới
thiệu sản phẩm. Hoạt động xuất bản đang ngày càng phát triển và hiện đại để
phù hợp với nền kinh tế thị trường và kinh tế tri thức.
3. Ảnh hưởng của đời sống kinh tế đối với công tác xuất bản.
Kinh tế là nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nói
đến đời sống kinh tế tác là nói đến mối quan hệ của con người với thiên nhiên
và mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội.

Quan hệ kinh tế, suy đến cùng, là nhân tố quyết định mọi mối quan hệ xã hội.
Bởi vậy, công tác xuất bản phụ thuộc rất nhiều đến các yếu tố của đời sống
xã hội và nhất là kinh tế.
Đối với ngành xuất bản, kinh tế có ảnh hưởng và mối quan hệ chặt chẽ.
Có thể nói, nhu cầu phát triển kinh tế quyết định sự ra đời của hoạt động xuất
bản. Sự phát triển của lao động sản xuất làm cho xã hội lồi người phát triển
về trí tuệ, ngơn ngữ, chữ viết và văn tự. Từ đấy, nhu cầu lưu giữ và truyền bá
thông tin bằng văn bản xuất hiện. Và hoạt động xuất bản đã ra đời để thực
hiện sứ mệnh của mình.
Hoạt động xuất bản từng bước phát triển, gắn liền với việc tìm kiếm,
sản xuất của vật liệu và nguyên liệu làm sách. Tuỳ từng thời kỳ và từng quốc
gia, có những vật liệu làm sách khác nhau. Như ở Trung Quốc, họ biết dùng
tre, lụa; người Ai Cập dùng vỏ cây Papirus bên bờ sông Nil, dùng mai rùa…
sau đó là nghề làm giấy ra đời, giấy được xem là vàng tráng của xuất bản.
Cho đến ngày nay, khi nền kinh tế có sự thay đổi, nền kinh tế thị trường
tác động đến các ngành khoa học, hoạt động xuất bản cũng có nhiều thay đổi.
Xuất hiện máy tính điện tử, cơng nghệ thơng tin đang đưa xuất bản trở thành


một bộ phận của ngành cơng nghiệp trí tuệ, ngành sản xuất và phân phối tài
sản trí tuệ, làm cho nó trở thành ngành mũi nhọn trong nền kinh tế tri thức.
Trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế xã hội chi phối quy mô và tốc
độ phát triển của hoạt động xuất bản.
Bởi hoạt động xuất bản phát triển, xuất bản được nhiều thể loại sách, ở
nhiều lĩnh vực, nhu cầu về sách của con người được nâng cao và cần phải sở
hữu trí tuệ ấy. Con người phải bỏ tiền của mình đi mua sách, báo, các loại ấn
phẩm. Sức mua của con người phụ thuộc vào trình độ kinh tế. Quy mơ và tốc
đ phát triển của ngành xuất bản do quy mô tiêu dùng của thị trường quyết
định. Đời sống kinh tế phát triển thì mọi người mới giàu có, nhu cầu mua sách
cao hơn, làm cho thị trường xuất bản được mở rộng.

Sự phát triển đời sống kinh tế xã hội tạo động lực kinh tế, thúc đẩy xuất
bản phát triển. Từ khi hàng hoá ra đời, kéo theo việc xuất bản trở thành một
hàng hố, sinh lợi nhuận trong kinh doanh. Ta có thể thấy ngay trong quá
trình sản xuất xuất bản phẩm, là q trình làm biến hố các hình thức giá trị
của tư bản, q trình tích tụ giá của của lao động như mọi q trình sản xuất
hàng hố khác; quá trình chế bản, nhân bản xuất bản phẩm giống như mọi q
trình sản xuất tạo ra hàng hố, chịu sự chi phối của quy luật sản xuất vật chất,
ràng buộc của chỉ tiêu, định mức kinh tế - kỹ thuật, có lãi trong sản xuất xuất
bản phẩm. Q trình lưu thơng xuất bản phẩm là q trình phổ biến, truyền bá
các giá trị văn hố song cịn mục đích là để thực hiện giá trị của hàng hố.
Tóm lại, kinh tế xã hội có ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc phát triển
hoạt động xuất bản. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về
sách báo và các loại xuất bản phẩm rát cao. Họ cần để thu thập thông tin tri
thức bởi vậy mà hoạt động xuất bản cần được phát triển hơn nữa để đáp ứng
nhu cầu. Ở các nước kinh tế phát triển như Nhật, Pháp nhu cầu về sách của họ
rất lớn. Nhất là Pháp là một trong bảy nước phát triển nhất thế giới, số lượng
đầu sách được xuất bản rất lớn.


Có thể nói, kinh tế và xuất bản có mối quan hệ chặt chẽ, nó có tác động
qua lại, cùng tồn tại và song song phát triển. Kinh tế có phát triển thì xuất bản
mới phát triển và xuất bản có phát triển là tiền đề tạo nên sự thơng suốt, hệ
thống thơng tin nhiều chiều, góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu lực và
hiệu quả kinh tế.
II. Hiện trạng vai trò của xuất bản Việt Nam đối với việc phát triển
kinh tế nước ta hiện nay.
1. Vai trò của xuất bản Việt Nam trong việc phát triển kinh tế hiện
nay.
Trong những năm qua, sự nghiệp xuất bản in, phát hành sách đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc, thực sự là phương tiện quan tọng

trong việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, làm động lựck để thúc đẩy kinh tế phát triển, xây dựng một nền kinh tế
vững chắc.
Nếu như năm 2004, cả nước mới có 47 nhà xuất bản thì đến nay, số nhà
xuất bản đã tăng lên 57 và dự báo sẽ còn tăng tiếp. Số lượng đầu sách tăng
dần theo từng năm và giữ ở mức tăng trưởng khoảng 10% trong năm gần đây.
Cũng trong năm 2008, Bộ Thông tin và truyền thông đã ban hành “quy chế
liên kết trong hoạt động xuất bản”. Nhìn một cách tổng quát, hoạt động xuất
bản phát triển đã kéo theo rất nhiều lĩnh vực phát triển đó là văn hoá, kinh tế
- xã hội.
Nhờ xuất bản, các chủ tương, chính sách của Đảng nhanh chóng đến
được với người dân, vậy mà công tác quản lý kinh tế cũng đơn giản và dễ
dàng hơn. Về số lượng và chất lượng, xuất bản dã phát hành hàng trăm đầu
sách về khoa học kỹ thuật, về công nghệ thông tin, phục vụ cho nhu cầu và kế
hoạch phát triển kinh tế. Các nhà xuất bản đã bán sát và phục vụ có hiệu quả
trong việc bảo vệ bản quyền và chuyển giao công nghệ.
Nhất là đối với nước ta hiện nay là một nước đang phát triển và đang
trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Cơng tác xuất bản


càng trở lên quan trọng và cầieọt nam được phát triển đồng bộ. Như trên đã
nói, nền vươn trong thời đại cơng nghiệp hố - hiện đại hố, việc tiếp thu các
khoa học công nghệ là rất cần thiết. Các nhà xuất bản như nhà xuất bản văn
hố, thơng tin, nhà xuất bản khoa học… đã xuất bản những đầu sách thiên về
khoa học, kỹ thuật, sản xuất.. để đáp ứng đầy đủ tri thức cho lực lượng sản
xuất, đội ngũ lao động, để họ vận dụng đúng đắn vào quá trình sản xuất và
phát triển kinh tế.
Hoạt động xuất bản có vai trị rất lớn trong việc chuỷen giao công nghệ
của nước ta. Nước ta đang rất cần những tri thức về khoa học, công nghệ từ
các nước tiên tiến trến thế giới. Các tác giả, các nhà xuất bản đã tìnm tịi,

nghêin cứu để đưa những khoa học công nghệ đến với người dân một cách
nhanh nhất và dễ hiểu nhất. Đó là những quyển sách về việc phát triển nông
nghiệp và nhất là công nghiệp và dịch vụ, việc chế tạo và phát triển máy
móc..
Hiện nay, nước ta gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO, việc bắt tay
với các nước phát triển đang diễn ra thường xuyên và liên tục. Các nhà xuất
bản trong nước cũng đã và đang bắt tay với một số nhà xuát bản nước ngoài
dể trao đổi và mua lại những bản quyền có giá trị về khoa học cơng nghệ.
Năm 2008 đã đạt được khá nhiều thành tựu về các mảng sách, sách
văn học – nghệ thuật, văn hoá - xã hội.. và sách khoa học – công nghệ, kinh
tế: xuất bản được 4271 cuốn với 10.600 triệu bản đạt 94% về cuốn, 114,3%
về bản so với năm 2007.
Sách khoa học kỹ thuật được xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu của
nhiều đối tượng trong xã hội. Bên cạnh các loại sách nghiên cứu khoa học có
giá trị cao như “Tuỷen tập cơng trình khoa học – 4 tập”, Nxb Đại học Bách
khoa, “Công nghệ sinh học”, “Công nghệ sinh học”, “Phát triển cây trồgn
chuyển gen ở Việt Nam, Nxb Khoa học tự nhiên và cơng nghệ, “Khí thải động
cơ và ô nhiễm môi trường”, Nxb Khoa học Kỹ thuật.. cịn có loại sách tun
truyền phổ biến kiến thức, hướng dẫn thực hiện an toàn lao động, an toàn vệ


sinh thực phẩm, chế biến món ăn, kỹ thuật ni trồng cho chất lượng tốt, năng
suất cao…
Bên cạnh sách về thi công kỹ thuật xây dựng nhà ở, cầu, đường, móng
tiếp tục được xuất bản. Các nhà xuất bản Giao thông vận tải, Nxb xây dựng,
Nxb khoa học và kỹ thuật còn xuất bản các loại sách chuyên về kiến trúc, quy
hoạch và mỹ thuật, đáp ứng được nhu cầu của nhiều bạn đọc và giới chuyên
môn.
Sách kinh tế, quản lý kinh tế, tài chính thuộc nhiều lĩnh vực của các
chuyên gia kinh tế trong nwocs và nước ngoài được một số nhà xuất bản đầu

tư xuất bản như các cuốn “Tư duy kinh tế chặng đường gian nan và ngoại
mục”, “Tư tưởng kinh tế kể từ Kcynes” – Nxb tri thức, “Kinh nghiệm quản lý
dịch vụ viễn thông công ích của một số quốc gia và sổ tay dịch vụ viễn thông
phổ cập Asian – Trung Quốc” – Nxb Thơng tin và truyền thơng…
Đây là một số cơng trình nghiên cứu có giá trị và là tài liệu tham khảo
cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý kinh tế.
Qua các chỉ tiêu kinh tế đạt được, nhìn chung các nhà xuất bản đã nỗ
lực rất lớn vượt qua khó khăn để giữ vững, duy trì hoạt động và thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
* Bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành xuất bản vẫn cịn những
hạn chế cần khắc phục.
Quy mơ, năng lực hoạt động xuất bản ở nước ta còn chưa đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao của xã hội, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng của
mình để góp phần xây dựng xã hội ổn định với một nền văn hố và kinh tế
phát triển mạnh.
Có nhiều sách, nội dung còn sơ sài, nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu
chuyên sâu chưa được chú trọng. Về hình thức trình bày bài và maket sách
của một số nhà xuất bản cịn tuỳ tiện, chưa đảm bảo đủ thơng tin theo quy
định tại Điều 26 luật xuất bản.


Xu hướng thương mại hoá chạy theo lợi nhuận thuần tuỳ có tác động
xấu tới hoạt động xuất bản, chất lượng xuất bản phẩm mặt hàng chung chưa
cao. Mạng lưới sách phân phối chưa đồng dều giữa các vùng.
Đội ngũ biên tập viên cịn hạn chế về trình độ, nhiều người vẫn chưa
quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ và bảo vệ quyền tác giả.
Các nhà xuất bản tư nhân là “lũng đoạn” công tác quản lý của các cơ
quan xuất bản Nhà nước – vì lợi nhuận – vì lợi ích kinh tế, lực lượng phát
thành sách tư nhân chỉ tập trung in – phát hành những loại sách dễ bán, có lãi,
ít quan tâm đến các loại sách khoa học, kỹ thuật.

III. Phương hướng, biện pháp khắc phục.
Sự ra đời của Luật xuất bản đã tạo ra hành lang pháp lý hết sức quan
trọng cho hoạt động xuất bản trong những năm đều chuyển đổi từ cơ chế bao
cấp sang kinh tế thị trường, và cho đến nay, Luật xuất bản vẫn được duy trì và
ngày một chặt chẽ và nghiêm minh hơn.
Đầu 3 chương I (luật xuất bản năm 2004): Vị trí, mục đích của hoạt
động xuất bản.
Hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hoá, tư tưởng thông qua việc
sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người nhằm giới thiệu tri
thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hoá dân tộc và tinh
hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng
cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở
rộng giao l ưu văn hoá với các nước, phát triển kinh tế xã hội, đấu tranh chống
mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
- Điều 5 chương II (Luật xuất bản năm 2004): bảo đảm quyền phổ biến
tác phẩm và bảo vệ quyền tác giả.
(1) Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất
bản phẩm thơng qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả.
(2) Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản.


(3) Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được lợi dụng quyuền
phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức cá nhân.
Điều 8 chương I (Luật xuất bản năm 2004): Nội dung quản lý Nhà
nước về hoạt động xuất bản.
(1) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp xuất
bản, ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách
về hoạt động xuất bản.

(2) Quản lý cơng tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ
trong hoạt động xuất bản, đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về
hoạt động xuất bản.
(3) Quản lý hợp tác quốc tế trong hoạt động xuất bản.
(4) Tổ chức được xuất bản phẩm lưu chiếu.
(5) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động xuất bản.
(6) Thực hiện công tác khen thưởng kỷ luật hoạt động xuất bản: tuyên
chọn và trao giải thưởng với xuất bản phẩm có giá trị cao.
Có thể nói sự nghiệp xuất bản dược Đảng và Nhà nước rất quan tâm và
chú trọng. Nhà nước ta đã đưa ra những điều luật chặt chẽ trong vệic phát
triển và duy trì hoạt động xuất bản. Có thể xuất bản mới phát triển và kéo theo
đó là sự phát triển nhân lực, góp phần bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế.
IV. Phương hướng, biện pháp thực hiện cho ngành xuất bản trong
việc thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta ln quan tâm đến mọi lĩnh vực,
chính trị, xã hội, văn hố. Hoạt động xuất bản là một ngành văn hố tồn diện
và được quan tâm sâu sắc. Trong hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện chỉ thị 42CT/TW ngày 25/5/2004: “Về nâng cao chất lượng toàn diện cảu hoạt động
xuất bản”, Đảng ta khẳng định:


“… Sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của
kinh tế, Nhà nước và nhân dân, là một bộ phận quan trọng của nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có nhiệm vụ tích luỹ và truyền bá
các giá trị tinh thần, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hoá, xây dựng
nền tảng tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng và khoa học xã
hội, xây dựng đạo đức, lối sống và phát triển toàn diện nhân cách con người
Việt Nam”.
Trên cơ sở định hướng trên, giúp cho hoạt động xuất bản phát triển
trong xu thế hiện nay – xu thế tồn cầu hố kinh tế, Nhà nước và các nhà xuất

bản cần có những phương hướng và biện pháp đúng đắn nhằm xây dựng một
nền xuất bản vững chắc, là động lực để phát triển kinh tế.
1. Phương hướng:
- Sau khi gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta vừa có
những thời cơ, vận hội mới, vừa phải đương đầu với những thử thách khó
khăn. Trong đó, lĩnh vực tư tưởng văn hố báo chí phải đối mặt với những
thách thức khó khăn. Sự cạnh tranh trong nước và quốc tế trên các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động xuất bản gia tăng. Vì vậy yêu cầu của xã hội ngày
càng cao đối với xuất bản phẩm cả về nội dung, hình thức, số lượng và chất
lượng.
- Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn nữa chỉ thị
của Nhà nước, nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản. Tập
trung xây dựng, bổ sung điều chỉnh các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện
thuận lơi về nhân lực, vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho hoạt động
xuất bản phát triển.
- Thống nhất mơ hình trong hoạt động của các nhà xuất bản. Hiện nay
đã có xu hướng thành lập tập đồn xuất bản như ông Nguyễn Văn Cừ – Giám
đốc Nxb Văn học đã nói. Cần đầu tư của Nhà nước vào một nhà xuất bản
trọng điểm nào đó để nhà xuất bản này có đầy đủ hệ thống thơng tin, nhà in,
cơ quan thông tin phát hành…


- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dỡng và phát triển nhân lực, đội ngũ
cán bộ của ngành để có thểm những tri thức, cập nhật được khoa học, kĩ thuật,
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất ước, nhất là trong thời kỳ này
– thời kỳ của nền kinh tế tri thức.
2. Biện pháp.
- Các nhà xuất bản cần phối hợp với các cơ quan chức năng chuyên
môn để khai thác các đề tài trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố,
xã hội để có nhiều xuất bản phẩm có giá trị thiết thực.

- Đa dạng hoá kinh doanh nhiều mặt hàng, dịch vụ, tận dụng cơ sở vật
chất để trưng bày và bán nhiều loịa xuất bản phẩm. Củng cố và phát triển
mạng lưới các công ty và các doanh nghiệp kinh tế trong cả nước nhàm cung
cấp thông tin kỹ thuật, thơng tin kinh tế, ngồi ra cịn nâng cao doanh số và
lợi nhuận cho nhà xuất bản.
Trong thời đại cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay, ngồi việc chú
trọng đến vấn đề chuyển giao công nghệ, ngành xuất bản cần tăng cường hơn
nữa trong công tác đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho các ngành
kinh tế trọng điểm.
- Tại điểm 6, Luật xuất bản quy định về chính sách phát triển sự nghệp
xuất bản (trích)
(1) Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện xây dựng
ngành xuất bản trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển toàn diện.
(2) Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng
thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế, hỗ trợ
mua bản quyền đối với tác phẩm trong nwocs và ngồi nước, có gía trị phục
vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Tại điều 3, quy định chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sự
nghiệp xuất bản.


(1) Ưu tiên đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong lĩnhv ực
xuất bản, đầu tư cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, quốc phòng an ninh
và cơ sở in trên địa bàn thuộc diện ưu tiên trên đầu tư của Nhà nước…
(2) Hỗ trợ kinh phí cho việc xây dựng, hồn thiện giáo trình, đào tạo
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ ở trong và ngoài nước cho độingũ
biên tập viên nhà xuất bản…
Trong những năm sắp tới, lượt xuất bản Việt Nam cho phép các nhà
xuất bản nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam để giao dịch đây là một cơ hội mở cho các nhà xuất bản trong khu vực và trên thế giới nói
chung.

- Ngành xuất bản cần được nhìn nhận là một ngành sản xuất rất đặc biệt
về sản phẩm của nó là sự kết tinh tri thức, trí tuệ lồi người. Lợi nhuận của nó
nhiều khi khơng thể tính bằng tiền mà phải nhìn vào tác động của nó đói với
bạn đọc và đối với xã hội.


C. KẾT LUẬN
Hoạt động xuất bản luôn được xã hội quan tâm, là một trong những
hoạt động hàng đầu của đời sống xã hội. Phải nói rằng ngành xuất bản có
đóng góp rất lớn cho lực lượng tri thức của xã hội. Đối với văn hoá, xuất bản
là một bộ phận thiết yếu, bởi lẽ trong tổng thể các hoạt động văn hố, cơng tác
xuất bản có khả năng thực hiện có hiệu quả hầu hết các nhiệm vụ cơ bản của
văn hoá. Một nhiệm vụ song song tồn tại và khơng kém phần quan trọng dó là
xuất bản là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Công tác xuất bản là
công cụ truyền bá thông tin, công cụ giáo dục, nên có tác động to lớn đối với
sự phát triển kinh tế trên nhiều phương diện nhất là đối với lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Hiện nay nền kinh tế tri thức đang phát triển diễn ra ở
khắpc các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vậy nên lượng thơng
tin trong xã hội tăng lên nhanh chóng, sự giao lưu quốc tế về thơng tin ngày
càng rộng, và vai trị của hoạt động xuất bản hiện đại cũng tăng lên.
Nhận thức được vấn đề này, tác giả đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Xuất bản Việt Nam với việc phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện
nay”
Đây là một đề tài khá rộng và cần phải nghiên cứu sâu sắc. Do phạm vi
một bài tiểu luận, trìnhd dộ hiểu biết và thời gian có hạn nên tác giả không đi
sâu hơn để nghiên cứu và giải quyết vấn đề một cách triệt để. Dù đã cố gắng
rất nhiều, song tiểu luận vẫn cịn những thiếu sót trong trình bày và chưa đề
cập đến một số vấn đề liên quan khác.
Kính mong các thầy, cơ giáo đánh giá, sửa chữa, đóng góp và giúp đỡ
để đề tài hồn thiện và tốt hơn.

Tác giả đề tài
Xin chân thành cảm ơn !


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý luận nghiệp vụ xuất bản – PGS.TS Trần Văn Hải – Học viện Báo
chí và Tun truyền – Nxb Văn hố Thơng tin – tập 1.
2. Tạp chí Xuất bản Việt Nam số 5/2008
3. Tạp chí Văn hố thơng tin.
4. Luật xuất bản năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành – Nxb
Chính trị quốc gia - Hà Nội.
5. Tạp chí Tuyên giáo.



×