Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Kim Ngao tân thoại trong bối cảnh truyền kỳ Đông Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.42 KB, 6 trang )

Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018

Kỷ yếu khoa học

KIM NGAO TÂN THOẠI TRONG BỐI CẢNH TRUYỀN KỲ ĐƠNG Á
Đinh Lê Minh Thơng*
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
*Tác giả liên lạc:
TĨM TẮT
Đề tài tập trung tìm hiểu một “thế giới kỳ ảo” của văn học Korea, đó là tác phẩm
Kim Ngao tân thoại do Kim Thời Tập (Kim Si-seup, 1435-1493), một nhà văn
sống vào thời Choson viết nên. Tác phẩm được nghiên cứu chuyên sâu, nêu lên
được những đặc trưng về thi pháp thể loại, quan niệm nghệ thuật và lý tưởng
sống của nhà văn Kim đặt trong bức tranh văn học Korea thời trung đại. Đồng
thời, so sánh, đối chiếu với những sáng tác cùng loại từ các nước “đồng văn”
như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu – Trung Quốc, Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ – Việt Nam và Vũ nguyệt vật ngữ của nhà văn người Nhật Ueda
Akinari dưới góc nhìn đặc trưng thể loại; kết hợp điểm nhìn phân tích tác phẩm
ở góc độ văn hóa truyền thống (văn hóa Korea) nhằm đánh giá sự tương đồng và
khác biệt của các tác phẩm cùng loại hình, đặc biệt là Kim Ngao tiểu thuyết. Từ
đấy, chứng minh cá tính sáng tạo độc đáo của Kim Thời Tập trong dịng chảy
truyền kỳ Đơng Á.
Từ khóa: Kim Ngao tân thoại, Kim Thời Tập, truyền kỳ Đông Á, Tiễn đăng tân
thoại, Truyền kỳ mạn lục, Vũ nguyệt vật ngữ, văn hóa Korea.
GEUMO SINHWA NOVEL IN LEGENDARY BACKGROUND
OF EAST ASIAN
Dinh Le Minh Thong*
The University Da Nang – University of Science and Education
*Corresponding Author:
ABSTRACT
This research involves discovering a “fantasy world” literature of Korea, which


is Geumo Sinhwa written by Kim Si-Seup (1435-1493), a Korean Author who
lived in the dynasty of Choson. With the in-depth research, the work indicates the
characteristics of genre poetics, artistic perception and life ideals of Kim Si-seup
literary picture set in medieval Korea. Simultaneously, compared with the
composition of the same kind from the countries such as Jiandeng Xinhhua of Qu
You (1341-1427) – China, Truyen ky man luc of Nguyen Du - Vietnam and Ugetsu
Monogatari of the Japanese Author Ueda Akinari with the perspective of
characterized genre, incorporating point of works analysis in a cultural tradition
(cultural Korea) to assess similarities and differences of the works of the same
type, especially Geumo Sinhwa novel. From there, it will prove innovative and
unique personality of Kim Si-seup in East Asian context.
Keywords: Geumo Sinhwa, Kim Si-seup, Lengd of East Asian, Jiandeng Xinhua,
Truyen ky man luc, Ugetsu Monogatari, Korean Culture.
TỔNG QUAN
Văn hóa – văn học nhìn từ bối cảnh khu
vực đang trở thành xu hướng mới của

nghiên cứu hiện nay, đặc biệt là văn
học các nước khu vực Á Đơng. Tại
Việt Nam, ngồi những thành tựu

721


Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018

nghiên cứu đáng ghi nhận về văn học
Trung Quốc, Nhật Bản thì những năm
trở lại đây, nhiều gương mặt nhà văn,
tác phẩm nổi tiếng của bán đảo Korea

xuất hiện và đón nhận sự khích lệ từ
bạn đọc, trở thành đối tượng thu hút
của nhiều nhà nghiên cứu trong nước.
Tiếp xúc văn chương Korea bắt đầu từ
việc tìm hiểu nền văn học cổ điển nhiều
sắc thái, cụ thể là dịng tiểu thuyết
truyền kỳ, khởi nguồn của thành tựu
văn xi xứ kim chi. Tác phẩm nổi
tiếng với những đóng góp khởi sắc cho
nền văn học Korea đó là Kim Ngao tân
thoại của nhà văn, học giả Kim Thời
Tập.
Từ quá trình đọc và chiêm nghiệm Kim
Ngao tân thoại, đề tài đã làm tỏ tường
những nét đẹp vốn có từ nội dung đến
nghệ thuật biểu hiện của cuốn tiểu
thuyết này. Song song với đó, tác phẩm
được hịa chung vào dịng chảy văn học
truyền kỳ Đơng Á để lọc tìm những nét
hấp dẫn lẫn khuất của một văn phong
từng bị xem là “phó bản”.
Với ba chương, trước hết, chúng tôi
tiếp cận khái quát nền văn học Korea
để nhận biết đặc trưng, vai trò của tiểu
thuyết cổ điển (truyền kỳ) trong hệ
thống thể loại, từ đấy nhận diện sự có
mặt của một cây bút tài năng Kim Thời
Tập với danh tác bất hủ xứ Hàn mang
tên ngọn núi Kim Ngao. Sau đó, bằng
việc áp dụng những phương pháp loại

hình, so sánh để chỉ ra những đặc trưng
riêng chỉ có trong Kim Ngao tân thoại,
sự khác biệt đến từ một ý thức luôn
cách tân, sáng tạo. Kết quả ghi nhận
một số đặc điểm về thể loại và cốt
truyện, tư tưởng chủ đạo, các kiểu
nhân vật, cách xây dựng về mặt lồng
ghép thể loại/thể văn, … Từ những
điểm riêng thu thập được, hoàn thành
bước đầu nghiên cứu độc lập sáng tác
của Kim Thời Tập, bài viết tiếp tục
khẳng định thêm cá tính sáng tạo của
nhà văn bằng việc nghiên cứu tác phẩm

Kỷ yếu khoa học

đặt vào viễn cảnh Đông Á, so sánh trực
tiếp với 3 tác phẩm Tiễn đăng tân thoại
(Trung Quốc), Truyền kỳ mạn lục (Việt
Nam), Vũ nguyệt vật ngữ (Nhật Bản)
dưới góc nhìn loại hình, cụ thể so sánh
trên các phương diện đề tài, motif nhân
vật, …, có lập bảng so sánh đại diện hai
kiểu truyện trong các sáng tác truyền
kỳ Đông Á (Kiểu truyện ma nữ, kiểu
truyện đi vào thế giới khác) để làm rõ
thêm. Qua các bước so sánh, đối chiếu
gần như tồn diện về các mặt biểu hiện,
chúng tơi mở ra hướng nghiên cứu mới
thế giới tiểu thuyết của Kim Thời Tập

theo con đường văn hóa dân tộc, phát
hiện một đất nước Korea thu nhỏ nhiều
bản sắc. Từ đấy, nhằm kết luận sự
thành công của một cá nhân đầy sáng
tạo – Kim Thời Tập khi viết một tác
phẩm chịu ảnh hưởng từ Tiễn đăng tân
thoại của tiểu thuyết gia người Hoa –
Cù Hựu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những
điểm nổi bật trong thế giới tư tưởng và
nghệ thuật sáng tác truyện truyền kỳ
Kim Ngao tân thoại đậm “cá tính hóa ”
của Kim Thời Tập trong hệ thống
truyện truyền kỳ khu vực các nước
“đồng văn” – Trung Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình: Phương pháp
này đặt tác phẩm trong một loại hình
(tiểu thuyết truyền kỳ cổ điển thời
trung đại), nhằm phân tích cấu trúc,
đặc điểm thi pháp thể loại, từ đó nêu
được những giá trị nổi bật của tiểu
thuyết cổ điển (truyền kỳ) trong Kim
Ngao tân thoại.
Phương pháp so sánh: Phương pháp
này được sử dụng tập trung ở chương

3 nhằm so sánh đối tượng nghiên cứu
với các tác phẩm cùng loại hình trong

722


Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018

khu vực Đông Á (Trung Quốc – Việt
Nam – Nhật Bản) nhằm đề cao giá trị
văn học và sự tiếp biến ảnh hưởng cũng
như tính độc lập sáng tạo của tiểu
thuyết Kim Ngao tân thoại.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
(văn hóa): Sử dụng điểm nhìn từ văn
hóa, chúng tơi muốn giải mã thêm tính
sáng tạo của nhà văn trong tác phẩm
qua một số yếu tố như bối cảnh lịch sử,
khơng gian văn hóa tín ngưỡng bản địa
đậm đà màu sắc dân tộc; góp phần
khẳng định tác phẩm của Kim Thời
Tập mang những “nét riêng” giữa
“nguồn chung”
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu trên các
văn bản sau: (1) Kim Ngao tân thoại do
Kim Thời Tập sáng tác qua bản dịch
của Toàn Tuệ Khanh – Lý Xuân
Chung, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2004; (2) Tiễn đăng tân thoại

– Truyền kỳ mạn lục do Cù Hựu –
Nguyễn Dữ sáng tác qua bản dịch của
Phạm Tú Châu, NXB Văn học, năm
1999; (3) Vũ nguyệt vật ngữ do Ueda
Akinari sáng tác qua “Hẹn mùa hoa
cúc” của Nguyễn Trọng Định dịch,
NXB Kim Đồng, năm 2017.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tiểu thuyết truyền kỳ Korea và
những vấn đề về tác giả, tác phẩm
Bức tranh văn học Hàn Quốc (Korea)
thời trung đại được quan sát ở góc độ
tồn cảnh. Đi từ những biến cố lịch sử
đất nước, văn học Korea cũng được
phân chia thành nhiều giai đoạn, phản
ánh rõ nét sự hình thành, đặc điểm của
nhiều thể loại văn học, trong đó có tiểu
thuyết cổ điển truyền kỳ.
Thời trung đại, cụ thể vào triều đại
Choson, dòng văn học chữ hán phát
triển rực rỡ với nhiều thành tựu đáng
ghi nhận. Đặc biệt là văn xuôi chữ Hán
với thành công của thể loại tiểu thuyết
truyền kỳ (giai đoạn trung kỳ trung

Kỷ yếu khoa học

đại), đỉnh điểm là sự xuất hiện Kim
Ngao tân thoại do Kim Thời Tập sáng
tác.

Kim Si-seup tức Kim Thời Tập (14351493) là một nhà văn, học giả nổi tiếng
thời Choson, một nghệ sĩ có cá tính
mãnh liệt từ quan điểm sống đến tư duy
về nghệ thuật. Ông được biết đến với
tiểu thuyết Geumo Sinhwa (Kim Ngao
tân thoại), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của
văn học Korea. Tác phẩm được xem là
“nhân vật dân lối” cho văn xuôi cả bán
đảo Triều Tiên – Hàn Quốc về sau.
Kim Ngao tân thoại (Geumo Sinhwa)
là một sáng tác khuyết về dung lượng
(5 đoản thiên tiểu thuyết) nhưng chứa
đựng một khối lượng lớn của tiếng nói
nhân sinh. Giá trị của tác phẩm không
chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà còn
lan toả, ảnh hưởng khi truyền sang
Nhật Bản (giai đoạn thất lạc vì chiến
tranh) thúc đẩy sự ra đời của hai tác
phẩm thuộc hàng kinh điển là Ngự già
tì tử của Asai Ryoi (xuất bản năm
1660) và Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda
Akinari (viết năm 1768).
Đọc tác phẩm, ta sẽ bắt gặp nhiều “kẻ
lạ mặt” đang đối thoại cùng nhau, đây
là phương thức đối thoại ẩn mặt, điểm
phát hiện đặc biệt từ lối viết của nhà
văn Kim. Nguyên tắc đối thoại trong
Kim Ngao tân thoại sẽ được mơ hình
hóa bằng sơ đồ phân vai cho từng nhân
vật cụ thể. Các lớp đối thoại sẽ được

diễn thuyết ngầm dưới các vai nhân
vật. Mỗi nhân vật ở vị trí (1) – người
chủ động sẽ luôn phiên, đại diện cho
một tiếng nói, toạ đàm với đối tượng
giao tiếp cịn lại (2) – người bị động.
Có khi, một nhân vật đảm nhiệm cả hai
vai chủ động và bị động. Nhân vật giữ
vai trị chủ động chính là “kẻ lạ mặt”
khuất sau nhân vật. “Kẻ lạ mặt” được
nói đến trước hết là nhà văn, tiếp đó là
các tầng lớp người trong xã hội,…
Nguyên tắc trên cuối cùng nhằm mục
đích: đối thoại với hiện thực.

723


Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018

Kim Ngao tân thoại trong mối tương
giao với các sáng tác truyền kỳ Đông Á
Trên tinh thần giao lưu văn học – văn
hóa khu vực Đơng Á, sáng tác Kim
Ngao tân thoại được so sánh trực tiếp
với ba tác phẩm đồng dạng là: Tiễn
đăng tân thoại (Trung Quốc), Truyền
kỳ mạn lục (Việt Nam), Vũ nguyệt vật
ngữ (Nhật Bản); với mong muốn đóng
góp thêm sự sáng tạo trong cá tính Kim
Thời Tập so với các nhà văn khác. Bốn

tác phẩm được đối chiếu qua lại dựa
trên một số tiêu chí đề tài, motif nhân
vật, chất liệu “văn hóa dân gian”, …
Tưởng chừng gặp nhau, khó chia tách
ở bộ tứ truyền kỳ (Trung-Hàn-ViệtNhật) nhưng Kim Thời Tập đã có cách
xử lý tinh tế hịng thóa t khỏi sự rập
khn mà vẫn đạt hiệu quả nghệ thuật
cao. Chẳng hạn, về đề tài, cùng sử
dụng một mơ hình chung là tình người
dun ma, dụng đạo răn đời, “cảm thời
thương sự” nhưng Cù Hựu, Nguyễn
Dữ, Ueda Akinari hay Kim Thời Tập
đều nói tiếng nói của riêng mình. Nhà
văn kể những câu chuyện theo đề tài
giống nhau nhưng ý nghĩa hướng đến
hoàn toàn khác nhau vì nó chịu sự quy
định của đời sống xã hội các nước và
cảm quan nghệ thuật của mỗi người.
Để so sánh thêm phần thuyết phục,
chúng tôi đã lập bảng so sánh đại diện
hai kiểu truyện tiêu biểu của cả bốn
nước từ các motif thường gặp.
Tư duy cải biên của Kim Thời Tập còn
được thể hiện rõ qua việc tri nhận các
trầm tích văn hóa trong Kim Ngao tân
thoại. Từ lối tiếp nhận chung một
nguồn văn hóa – văn học phương Đơng
với đặc thù văn hóa nơng nghiệp tạo
nên yếu tố hòa nhập thiên nhiên, lấy
con người làm gốc, lấy xã hội làm

trung tâm, bày tỏ khát vọng lứa đôi từ
căn nguyên phồn thực, … các văn nhân
Đông Á chọn lựa một phương thức
biểu hiện rất khác qua nét riêng về văn
hóa. Thao tác so sánh dưới góc nhìn

Kỷ yếu khoa học

văn hóa dẫn đến kết luận: Tiễn đăng
tân thoại thiên về vay mượn các trước
tác, tư tưởng Nho học, …; Truyền kỳ
mạn lục và Vũ nguyệt vật ngữ đa phần
là chọn lựa chất liệu văn học dân gian
trong văn hóa dân gian làm điểm tựa,
khởi hứng sáng tác cịn Kim Thời Tập
lại có xu hướng nghiêng về văn hóa
bản địa nhiều hơn thông qua việc lấy
các không gian, bối cảnh văn hóa tín
ngưỡng kết hợp với tư tưởng chủ đạo
để tạo nên tác phẩm. Chiếu theo thời
gian ra đời tác phẩm, sau Tiễn đăng tân
thoại là Kim Ngao tân thoại của Kim
Thời Tập, vậy nên việc đưa các yếu tố
dân gian (bao gồm nhiều phương diện)
là một biểu hiện thay đổi đáng khích lệ
so với tác phẩm truyền kỳ của Trung
Hoa.
Bức tranh văn hóa Korea thể hiện ở
“nhân dáng” lịch sử và khơng gian
thiên nhiên, văn hóa tín ngưỡng. Lịch

sử Korea đưa vào trong tác phẩm chính
là các thời đoạn hưng vong của vương
triều, đậm nét là hai cuộc chiến tranh
khốc liệt từ hai ngả Đông – Bắc ào ạt
xâm lăng (Trung Quốc, Nhật Bản) –
Thời vua Gongmin (1351 – 1374). Tác
phẩm nhắc đến hai cuộc chiến tranh
trong lịch sử Korea là sự kiện loạn giặc
Oa của quân Nhật Bản và loạn giặc
khăn đỏ vào khoảng năm 1335.
Văn hóa Korea với nhiều bản sắc,
được nhà văn lấy cảm hứng từ bối cảnh
địa chất tự nhiên, để dung hợp hài hồ,
tạo nên một chỉnh thể văn hóa dân tộc
trong sáng tác. Những địa chỉ cảnh
quan mang nhiều thông tin văn hóa
độc đáo, những “địa chỉ” tạo hứng thú
ngay từ ban đầu về một hình dung văn
hóa bản địa. Ngay nhan đề Kim Ngao
tân thoại đã nhắc đến địa danh núi Kim
Ngao, vốn là nơi Kim Thời Tập ở ẩn
thời gian dài. Núi Kim Ngao (Geumo
Mountain) chính là tên núi Namsan
ngày nay. Lúc ấy, Kim Thời Tập ở tại
đền Yongjangsa núi Namsan từ 1465

724


Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018


đến 1470. Núi Namsan thuộc
Gyeongju vốn là kinh đô của vương
quốc Shilla cổ, nơi tập trung đậm nét
di sản văn hóa xứ kim chi. Gyeongju
đồng thời cũng là xứ Phật, rất có nhiều
chùa chiền và các sinh hoạt tâm linh
Phật giáo của người Hàn. Vào trong
từng truyện của Kim Ngao tân thoại,
tác giả lại chọn lựa các bối cảnh gợi
liên tưởng đến bức tranh khung cảnh
và đời sống văn hóa của con người thời
cổ. Nhà văn lấy bối cảnh địa lý Nam
Nguyên (Namsan) với hàng loạt các
tên chùa như Vạn Phúc, Bảo Liên,
Khai Ninh ... đều là những địa danh
thuộc phủ Namwon, Jeolla nằm ở phía
Bắc Hàn Quốc ngày nay. Mở đầu T
du Phù Bích đình ký, tác giả liệt kê
hàng loạt các điểm di tích văn hóa cổ
xưa của Korea như: “núi Cẩm Tú
(Geumsusan), đài Phượng Hoàng
(Bonghwangdae-Gyeongju), đảo Lăng
La (Reungnado-Pyongyang), động Kỳ
Lân,
tảng
đá
Triều
Thiên
(Jocheonseok), động Thu Nam ... đình

Phù Bích, chùa Vĩnh Minh
(Yeongmyeongsa) – cung Cửu Thê” để
mở ra bối cảnh lịch sử, khơng gian văn
hóa của Korea, đặt những câu chuyện
vay mượn trong hình dung quen thuộc
của người đọc bản xứ v.v. Những địa
danh chùa chiền Phật giáo, cảnh đẹp
bốn phương trong các câu chuyện của
Kim Thời Tập vừa khắc họa bối cảnh
Korea trong cái nhìn sáng tạo của tác
giả, đồng thời cũng cho thấy tư tưởng
Phật giáo khá phát triển trong giai đoạn
này. Đi kèm trong không gian truyện
kể của Kim Ngao tân thoại, các sinh
hoạt lễ nghi liên quan đến tín ngưỡng
Phật giáo xuất hiện khá đậm nét. Các
nhân vật nương nhờ cửa Phật sau khi
thác sinh, thân quàn tạm ở chùa, chùa
cũng là nơi gặp gỡ, kết dun của các
đơi nam nữ... Ngồi bối cảnh chùa
chiền, không gian nhà cửa truyền
thống của Korea cũng thấp thóa ng

Kỷ yếu khoa học

hiện lên qua những câu chuyện qua
những miêu tả trong Lý sinh khuy
tường truyện.
Trong tiểu thuyết truyền kỳ Kim Ngao
tân thoại, các chi tiết liên quan đến

phong tục tập quán, sinh hoạt cộng
đồng của con người cũng phần nào cho
thấy bức tranh khơng gian văn hóa dân
tộc Korea qua một số lễ hội. Trò chơi
dân gian truyền thống có tên là Hu bồ
xuất hiện ngay từ nhan đề như một tín
hiệu cho bạn đọc (trị chơi Yut Nori sau
này – được xem là trò chơi truyền
thống nổi tiếng vào dịp lễ tết của người
dân Hàn Quốc). Phong tục của người
Hàn còn được phản ánh rõ nét qua ẩm
thực truyền thống. Đặc biệt là Rượu –
một thức uống trở thành nét văn hóa
độc đáo trong truyền thống Korea; trở
thành “văn hóa uống rượu”, mang
những hình thức có tính quy tắc khi
thưởng thức của người dân xứ kim chi.
Hôn nhân lứa đôi cũng gặp gỡ tương
đồng đôi nét với các nước đồng văn
hóa thời xưa.
Sự nghiêm ngặt của trật tự xã hội cũng
được tỏ rõ qua ý thức luân lý gia đình,
các phép tắc... chặt chẽ cho thấy ranh
giới ngăn cách của lễ giáo đương thời,
tạo ra một hình dung văn hóa thể hiện
sự phân tầng giai cấp xã hội tại Korea.
Với cơ tầng văn hóa nơng nghiệp gắn
chặt với triết lý sống nhân bản, hiền
hòa trong điều kiện địa lý tự nhiên
chung của khu vực, cư dân bản địa có

nếp sống, lối sống thuần chất Á Đơng.
Tính cách Korea coi trọng chữ tình,
chung thuỷ với người thương (chất
nhân văn trọng tình) là một yếu tố nổi
bật của tinh thần phương Đơng. Kim
Si-seup phần nào cho thấy tính cách
văn hóa trọng tình của con người nơi
đây qua những chuỗi phát ngơn từ nhân
vật (truyện “diễm tình”), khiến người
đọc có cảm giác gần gũi khi tiếp xúc
với các sáng tác thuộc các quốc gia
khác nhau trong khu vực. Từ những

725


Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 20 năm 2018

tính cách trội văn hóa đó, người Korea
cũng mang những nhược điểm trong
tính cách. Bắt nguồn từ “chủ nghĩa gia
đình” (familism) đã phát sinh ra những
tiểu tính cách như cực đoan, độc đóa n,
nhu nhược, hèn nhát, ... Biểu hiện rõ
nhất trong Kim Ngao tân thoại là thái
độ phản đối tồn bộ lý thuyết của Phật
giáo, ln bảo thủ, đề cao quan điểm
của trường phái học thuyết mà Phác
sinh theo đuổi [Nam Viêm Phù châu
chí].

Để bảo chứng cho giá trị khoa học của
đề tài, vấn đề văn hóa được nói đến
trong tác phẩm, chúng tơi đã tìm kiếm
và tập hợp một số thông tin cần thiết về
các địa danh văn hóa được nhắc đến ở
phần phục lục (sau mục 1. Thông tin về
tác giả, tác phẩm trong phạm vi nghiên
cứu).
KẾT LUẬN
Đề tài của chúng tôi tuy không phải là
lần đầu nhắc đến Kim Ngao tân thoại,
song đây là đề tài có hướng tiếp cận
trực diện từ tác phẩm bên cạnh hướng
nghiên cứu đặt trong trường văn hóa Á
Đơng, đem lại một ý nghĩa thiết thực

Kỷ yếu khoa học

trong bối cảnh hiện nay:
Thứ nhất, trào lưu văn hóa – văn học
Korea đang quay trở lại. Nghiên cứu
văn học Korea từ bước đầu tiếp cận văn
học truyền kỳ với một góc nhìn mới có
thể đóng góp nhiều hướng mở quan
trọng.
Thứ hai, việc nghiên cứu một tác phẩm
truyền kỳ đặt trong góc nhìn so sánh
tồn khu vực (Trung – Việt – Nhật) để
tìm ra những nét độc đáo rất riêng của
nhà văn qua lối xây dựng cốt truyện,

nhân vật, không – thời gian, … kết hợp
áp dụng những phương pháp nghiên
cứu liên ngành (văn hóa) giúp việc
khẳng định tư duy nghệ thuật của Kim
Thời Tập trong Kim Ngao tân thoại rõ
ràng hơn rất nhiều. Đó là sự khảo sát
và phân tích gần như đầy đủ sáng tác
của nhà văn Kim, cũng như các nhà
văn Trung Quốc, Việt Nam và Nhật
Bản.
Thứ ba, đề tài của chúng tơi có hướng
mở về sau trong việc tìm ra cá tính sáng
tạo của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam,
Nhật Bản so với trước tác Tiễn đăng
tân thoại của Trung Hoa bằng con
đường nghiên cứu từ văn hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHAN THỊ THU HIỀN (CHỦ BIÊN) VÀ NHIỀU TÁC GIẢ, (2017), Chuyện tình ma
nữ trong truyền kỳ Đông Á (Trung Quốc – Korea – Việt Nam – Nhật Bản), NXB
Văn hóa, văn nghệ.
PHAN THỊ THU HIỀN (CHỦ BIÊN) VÀ NHIỀU TÁC GIẢ, (2017), Hợp tuyển
văn học cổ điển Hàn Quốc, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
KIM VĂN HỌC (BIÊN SOẠN), (2004), DƯƠNG THU ÁI – NGUYỄN KIM
HANH (BIÊN DỊCH), Tìm hiểu văn hóa người Trung Quốc – Nhật Bản –
Hàn Quốc, NXB Văn hóa thông tin.
CÙ HỰU (NGƯỜI GIỚI THIỆU VÀ DỊCH: PHẠM TÚ CHÂU), (1999), Tiễn
Đăng tân thoại – Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội.
CHO DONG-IL VÀ NHÓM TÁC GIẢ, (2010), Những bài giảng văn học Hàn
Quốc, NXB Văn học.

JEON HYE KYUNG (TOÀN TUỆ KHANH), (2004), Nghiên cứu so sánh tiểu
thuyết truyền kỳ Hàn Quốc – Trung Quốc – Việt Nam thông qua Kim Ngao
Tân Thoại, Tiễn Đăng Tân Thoại, Truyền Kỳ Mạn Lục, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
726



×