Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM. LIÊN HỆ TRONG QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.76 KB, 27 trang )

1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là
yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được Ðảng ta lựa chọn ngay từ khi thành
lập và ln khẳng định đó là mục tiêu, lý tưởng cao cả của mình, mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện ngay trong các Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 90 năm qua, ngọn cờ độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Đảng ta giương cao đã đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với những thành tựu gần 35 năm
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân Việt
Nam vững vàng, tự tin hướng tới tương lai, khẳng định: “chủ nghĩa Mác vẫn
giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới hiện đại”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng nhân loại khỏi áp
bức bất công, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc sự tự do, bình
đẳng, bác ái. Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn con đường tất yếu ấy.


2
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC LỰA CHỌN, KIÊN ĐỊNH MỤC
TIÊU, CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi ra đời đến nay hơn 100 năm qua, tư
tưởng của các nhà kinh điển đã vượt qua thử thách của thời đại cũng như sự
phê phán, cơng kích của các thế lực đối lập, thù địch. Cách mạng khoa học cơng nghệ, tồn cầu hóa và kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Các thế lực thù địch dựa vào những khó khăn, thách


thức trong quá trình phát triển đất nước để xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin,
cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, khơng cịn phù hợp với
thời đại ngày nay, địi hỏi phải xố bỏ hồn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, bất chấp sự cơng kích, bơi nhọ, phê phán, chủ nghĩa
Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai trị trong thời đại ngày nay. Càng
trải qua khó khăn, chủ nghĩa Mác - Lênin lại càng bộc lộ tính sáng tạo, tính
thực tiễn cùng những giá trị tự thân. Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, con đường phát triển của dân tộc
Việt Nam đến đầu thế kỷ XX đánh dấu một bước chuyển quan trọng, với sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930), đưa dân tộc phát triển theo một
con đường phát triển mới - con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngay trong Cương lĩnh thành lập Đảng
đã xác định rõ: Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Đứng trên lập trường của Chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con đường
phát triển mang tính đặc thù – con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách
thức phát triển này cho phép giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân tộc và
mâu thuẫn giai cấp của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Như vậy, con
đường quá độ với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phản ánh sự


3
lựa chọn khách quan của chính thực tiễn – lịch sử dân tộc mang đậm tính đặc
thù của Việt Nam đã được khẳng định. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (hay bỏ qua giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản) ở Việt Nam là một trong những nội dung chủ yếu
hợp thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đất nước ta chịu hậu quả nặng nề từ sự xâm lược của các nước mạnh

trên thế giới về kinh tế, quân sự đã làm cho cơ sở vật chất, kinh tế nước ta gặp
vơ cùng khó khăn khi Đảng ta giành được chính quyền. Trong điều kiện quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì ở nước ta phải
xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? Đây chính là vấn đề đặc điểm nước
ta khi bước vào thời kỳ quá độ, về xác định những điều kiện, biện pháp, cách
làm và bước đi, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là hết sức quan trọng, đòi hỏi
nhiều nỗ lực sáng tạo. Theo Người, đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ
quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm bao trùm này
quy định loại hình phát triển của nước ta lên chủ nghĩa xã hội là loại hình
“phát triển rút ngắn” theo phương thức quá độ gián tiếp. Ở đây, đáng lưu ý
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Điều đó có nghĩa là, chỉ bỏ qua việc xác
lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, hay nói cách khác là bỏ qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, còn tất
cả những thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ, khoa học quản
lý... của nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản phải kế thừa, vận dụng
trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, ở đây có hai điểm nhấn:
Một là, Việt Nam đã phải trải qua hơn 1000 năm chống Bắc thuộc, gần
100 năm chống đế quốc, thực dân, đối với Việt Nam, tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một tất yếu. Không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi đó là một chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch
con người. Song, không qua tư bản chủ nghĩa khơng có nghĩa là vứt bỏ, là
phủ định sạch trơn mọi thành tựu của văn hóa và văn minh, mọi tiến bộ khoa
học - kỹ thuật mà loài người đã đạt được trong tư bản chủ nghĩa. Việt Nam ở


4
điểm xuất phát thấp, từ xã hội thuộc địa, nửa phong kiến đi lên càng phải chú
trọng khai thác, vận dụng những tri thức, những thành tựu đó trong thực tiễn
xây dựng chế độ mới.

Hai là, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội chỉ với nghĩa là bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Với hoàn cảnh, điều kiện và trình độ của Việt Nam, “tiến
thẳng” lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tiến dần, từ từ, từng bước một, cố
gắng đi nhanh cho kịp với thế giới, nhưng phải đúng quy luật, khơng thể chủ
quan, duy ý chí, không thể đốt cháy giai đoạn, phải đưa đất nước phát triển
bền vững.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã hình dung tính chất phức tạp và lâu
dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì việc cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới khơng chỉ là về vật chất mà cịn là cải tạo tư tưởng,
gạt bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu, lổi thời kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Người xác định toàn diện các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa (bao gồm cả đạo đức, tư tưởng, tinh thần, lối
sống), đào tạo cán bộ, phát triển khoa học - kỹ thuật, phát triển giáo dục, xây
dựng con người mới. Mấu chốt của vấn đề kinh tế là phát triển lực lượng sản
xuất. Mấu chốt của vấn đề chính trị là giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách
mạng, thực hành và phát huy dân chủ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Mấu chốt của vấn
đề xã hội là bảo đảm công bằng xã hội, hướng vào sự phát triển con người và
xã hội. Mấu chốt của vấn đề văn hóa là xây dựng con người mới, đạo đức, và
lối sống mới.
Việt Nam đã trải qua chế độ quân chủ phong kiến hàng nghìn năm và từ
cuối thế kỷ XIX là thuộc địa của đế quốc Pháp. Khát vọng độc lập, tự do và
dân chủ là lớn lao và bức thiết. Mục tiêu cách mạng mà Đảng đề ra trước hết
là giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã xóa bỏ
chế độ thuộc địa, chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra thời đại mới của dân tộc


5
Việt Nam, thời đại dân tộc độc lập, nhân dân được làm chủ xã hội và cuộc

sống, xây dựng xã hội tốt đẹp vì “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975) đã bước
đầu tạo dựng một xã hội mới với bản chất tốt đẹp và sức mạnh về mọi mặt
bảo đảm giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Đó là điều khơng thể phủ nhận. Khi miền Nam giải
phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), Đảng ta vẫn nhất quán lựa chọn con
đường cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV (năm 1976) của Đảng
đã thông qua đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới ở nước ta là: Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng - văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ
quá độ.
Tại Đại hội V của Đảng (năm 1982), Đảng ta khẳng định tiếp tục
khẳng định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV của Đảng xác định. Nhưng Đại hội
V đã đề ra những mục tiêu và chính sách lớn để thực hiện đường lối của Đại
hội IV và cụ thể hóa đường lối mà Đại hội IV đã đưa ra, đặc biệt là đã xác
định chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của q trình cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đại hội V dự đốn rằng, q trình cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua hai chặng đường dài là chặng
đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo. Như vậy, Đại hội V đã nhận thấy
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam phải trải qua quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường phải tranh thủ
nắm bắt thời cơ và có sức đề kháng tốt với khơng ít thách thức.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đề ra đường lối đổi mới tồn diện dựa
trên phân tích thấu đáo điều kiện, hoàn cảnh đất nước và nhận thức rõ hơn
những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những luận điểm của



6
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh. Đại hội VI đã tổng kết những bài học lớn có giá trị
lý luận và chỉ đạo thực tiễn, trong đó nhấn mạnh bài học: “Đảng phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng”.
Thực tế điều kiện, hồn cảnh đất nước là gì? Là điểm xuất phát cịn ở
trình độ rất thấp, vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Là hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh giải phóng và lại phải tiến hành chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, thực hiện nghĩa vụ quốc
tế giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và giúp bạn hồi sinh đất nước.
Các thế lực đế quốc, phản động siết chặt cấm vận và phá hoại chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Đất nước khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát
năm 1986 ở mức cao nhất (774,7%), là một trong những nước nghèo nhất thế
giới, năm 1986 bình qn thu nhập đầu người có 150 USD. Trong hoàn cảnh
như thế, đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề sống còn.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII đề ra (6-1991)
và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 là quá trình khơng ngừng phát
triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường chủ nghĩa xã hội dựa trên
cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của Việt Nam. Sự sụp đổ của mơ hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do những hạn chế, yếu kém
kéo dài không được khắc phục, do sai lầm trong nhận thức và lãnh đạo, quản
lý không được sửa chữa và nhất là do sự tấn công trực diện của các thế lực thù
địch và phản bội. Cũng chính từ thất bại và tổn thất to lớn đó là bài học để các
Đảng Cộng sản, các nước kiên định con đường chủ nghĩa xã hội, trong đó có
Việt Nam phải khơng ngừng đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn để
tìm ra quy luật phát triển riêng. Kiên định, trung thành với lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng phải khơng ngừng đổi mới và phát triển
sáng tạo mới thành công. Bài học lịch sử là: nếu không trung thành, kiên định

lý luận, tư tưởng cộng sản sẽ phạm vào chủ nghĩa xét lại, nhưng nếu không


7
đổi mới, phát triển sáng tạo sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ và
đất nước khơng thể phát triển. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) nêu mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị,
tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội
chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2. Cơ sở thực tiễn
- Thực tiễn Việt Nam:
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản nổi lên: mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn
giai cấp. Hai mâu thuẫn này đã khiến nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ
cực và nảy sinh nhu cầu bức thiết phải tìm ra con đường giải quyết đồng thời
cả hai mâu thuẫn một cách triệt để. Chứng kiến sự thất bại của các phong trào
yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, từ phong trào yêu nước theo lập
trường phong kiến, đến phong trào cứu nước theo lập trường tư sản, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đi khắp thế giới với mong muốn
tìm cho được con đường cứu nước, cứu dân. Trong hành trình đó, với những
tìm tịi, trải nghiệm, đặc biệt là sự soi sáng của cuộc cách mạng tháng Mười
Nga, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc - đó là con đường cách
mạng vơ sản và thực tiễn đã chứng minh cách mạng vô sản là con đường cách
mạng phù hợp nhất với dân tộc Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu thế của
thời đại mới -thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
- Thực tiễn cách mạng thế giới:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho chủ
nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực, đồng thời mở ra thời đại mới –

thời đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Điều này đã tác động
mạnh mẽ đến nhận thức của những người cộng sản Việt Nam và con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội càng có thêm cơ sở thực tiễn để
lựa chọn.


8
II. NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỰC
TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ
TRƯỚC ĐỔI MỚI
1. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ trước
đổi mới.
- Xác định rõ lý tưởng, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, trên con đường cứu nước, được Chủ
nghĩa Mác – Lênin soi rọi, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã khẳng định
mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc để tiến lên chủ
nghĩa cộng sản. Đây là nhận thức lý luận vơ cùng quan trọng và có ý nghĩa
chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam.
- Phác thảo những lý luận cơ bản về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa,
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trước đổi mới, ta tiếp thu, vận dụng mơ hình của chủ nghĩa xã hội
Xôviết với đặc trưng là nền kinh tế kế hoạch tập trung dưới sự lãnh đạo của
Đảng; cơng nghiệp hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm; hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động cách mạng Việt Nam.
Tại Đại hội II (2-1951), Đảng ta nêu ra quan niệm về ba giai đoạn,
trong đó giai đoạn thứ ba của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được coi
là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây dựng, củng cố và hoàn thiện chế độ dân
chủ nhân dân.
Sau Đại hội II, với thực tiễn của cách mạng lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ

Chí Minh cũng đã nêu ra một số lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, chủ quan, những tư tưởng chỉ
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng được kiên trì thực hiện.
Đến Đại hội III (1960), nhiều vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bước đầu được đặt ra như lý luận phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ


9
nghĩa xã hội, những mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất….
Đến Đại hội V (3-1982), tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội
đã có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở sự điều
chỉnh trong nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và khái niệm
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được sử dụng
trong văn kiện: đây là thời kỳ tạo những tiền đề cho quá trình cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
2. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ trước
đổi mới
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta trước đổi mới có những
đặc trưng cơ bản như: Xác định những nét căn bản về đặc điểm và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Từng bước triển khai xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đối
ngoại…
Mặc dù có những kết quả đã đạt được, nhưng do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm. Trước đổi mới, chúng ta áp dụng máy móc mơ hình chủ nghĩa xã hội
Xô - Viết để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Hậu
quả là đất nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng vào cuối

những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Bối cảnh này đặt ra yêu
cầu bức thiết là phải đổi mới.
III. NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI
1. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn


10
với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi mới, nhận
thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong các
văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ
này, chúng ta chưa xác định được mơ hình và những đặc trưng cụ thể của xã
hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1986) đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của
hạn chế, yếu kém trong nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên
trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mô hình xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội
gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ cơng hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau

cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới. Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu
trong Cương lĩnh năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ
nghĩa xã hội. Những đặc trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ
động lực và mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức
mới sâu sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác
định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ
bản. Có thể nói, so với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu
chung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác
định là đặc trưng thứ nhất trong 8 đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội


11
được xác định rõ nét, cụ thể hơn. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù
có những thay đổi về mặt ngôn từ (chẳng hạn: không đề cập đến chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu ở đặc trưng về quan hệ sản xuất; cụm từ các
dân tộc trong nước được thay bằng các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam…),
nhưng về bản chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung thêm một đặc
trưng mới (có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Đây là một bổ sung
quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta xây dựng. So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ
hơn, toàn diện hơn.
Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
nhiều vấn đề được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu
bức thiết do thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ

phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất; vấn đề an sinh xã hội, phân hóa giàu
nghèo; vấn đề xây dựng văn hóa, con người trong xã hội văn minh, tiến bộ;
vấn đề chống suy thoái, tham nhũng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, sớm trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khi kết thúc thời kỳ quá độ, xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp. Đến giữa thế kỷ XXI,
Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là mục tiêu, định hướng phát triển với tầm nhìn chiến lược kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (2045). Từ đó, đã làm rõ một số vấn đề về nội dung xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


12
Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công
bằng, văn minh.
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất cơng
chỉ là giải pháp để đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước
trong thời kỳ đổi mới: Thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước tồn
diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh,
đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là

then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh thần; tăng cường
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật là: Văn
kiện Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn hóa là nền tảng
tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính là mục
tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.
Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu tổng kết lý luận và thực
tiễn để tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận là yêu cầu bức thiết của cách mạng
Việt Nam trong bối cảnh mới. Khẳng định điều này, Đảng ta chỉ rõ “Qua 35
năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa”.
2. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đổi mới
đến nay
Trên cơ sở nhận thức lý luận về đường lối đổi mới; về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã và đang cụ thể


13
hóa, triển khai tổ chức thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát
triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng
trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở
rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư
trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức
3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm
2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không
những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát

triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm
2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD.
Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước
ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu
nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập
thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh
em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nơng thơn. Phát triển kinh tế đã giúp đất
nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải
thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm
khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn
nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu
chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết
các xã nơng thơn đều có đường ơ tơ đến trung tâm, có điện lưới quốc gia,
trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có
điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt


14
Nam tập trung hồn thành xố mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao
đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người
lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp
dịch vụ y tế miễn phí cho tồn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y
tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hồn cảnh
khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành
công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y

tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm
gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7
tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều
kiện để chăm sóc tốt hơn những người có cơng, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt
Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.
Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển
phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet,
là một trong những nước có tốc độ phát triển cơng nghệ tin học cao nhất thế
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu
trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI
cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
IV. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những thời cơ
1.1. Thời cơ bên ngoài
Thực tiễn vận động, phát triển của những xu thế lớn trên thế giới, đặc
biệt là xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho
Việt Nam giữ vững ổn định để phát triển đất nước.
Bối cảnh mới làm xuất hiện nhiều xu thế mới đan xen nhau và có tác
động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội thế giới. Có thể thấy, những xu
thế đó là: Xu thế hồ bình, hợp tác, hội nhập quốc tế lôi cuốn nhiều nước


15
tham gia; Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh
tế tri thức ở nhiều quốc gia, khu vực; Xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế và khu vực; Những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài
nguyên biển, đảo ngày càng phức tạp; Xu thế dân chủ hoá rộng rãi đời sống

xã hội thế giới; Sự tồn tại và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại; Sự
nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa nước lớn, chiến
tranh thương mại…; Xu thế nêu cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân tộc của
các nước; Sự xuất hiện đa dạng, phong phú các mơ hình xã hội xã hội chủ
nghĩa như là xu thế tất yếu khách quan, tạo ra dấu hiệu khôi phục của xã hội
xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia, khu vực.
Trong những xu thế trên thì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hợp tác,
tập hợp lực lượng tiến bộ vì hịa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xu thế
hướng đến hịa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau,
cùng nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm sốt, kiềm chế xung
đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay
chính là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những thời cơ ấy
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững hịa bình và
ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ
vì hịa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành
tựu khoa học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế
Do tác động mang tính hai mặt, nên tồn cầu hóa khơng chỉ đặt ra
những thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để các nước xã hội
chủ nghĩa thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới, qua đó,
một mặt, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; mặt khác,
thông qua hợp tác quốc tế mà tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học
công nghệ và quản lý từ các nước phát triển.


16
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng
những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ

ràng là lợi thế của những nước đi sau. Tồn cầu hóa làm cho thị trường thế
giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hồn thiện về cơ chế hoạt động.
Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh
nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát
triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua đó,
chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân cơng lao động quốc tế.
- Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu
những giá trị tinh hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền
thống của dân tộc trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
1.2. Thời cơ bên trong
- Những thành tựu đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã tạo nên điều
kiện nền tảng và vận hội quan trọng cho đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành quả quan
trọng, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào
chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được
nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và trong năm qua, chúng ta đạt
và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của nước ta tiếp tục được
nâng cao trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng có và đã góp
phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Đó chính là một trong những nguồn lực nội sinh bảo đảm điều kiện, tạo cơ sở
cho Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn. Điển hình là sự


17

kiện Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc sau phiên bỏ phiếu vào ngày 7-6-2019, với số phiếu rất cao
(192/193 phiếu). Kết quả này phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế
dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là thành quả xứng đáng của Việt Nam sau
những nỗ lực đóng góp vào hịa bình, an ninh thế giới.
2. Những thách thức
2.1. Thách thức bên ngoài
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
Tồn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước
đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì
tồn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là tồn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc
quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực
đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây
là cuộc cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong
bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối
tồn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự
chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế đang diễn ra
hết sức quyết liệt hiện nay.
Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định
trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: Xét về số tuyệt
đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất
nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới
hơn GDP của Việt Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói
cách khác, dù Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước
ngắn, nên vẫn tụt hâu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm,
nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực
sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng
thể, dài hạn để khắc phục.



18
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện
nay, ngoài phân phối theo lao động cịn phân phối theo vốn đóng góp, theo
hiệu quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng,
bất cơng xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng
thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới
chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ
nghĩa xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội
nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng
sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc;...
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm
chống phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước
Thơng thường, “diễn biến hịa bình” được coi là chiến lược của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương
thức, thủ đoạn mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội trên thế giới.
Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hịa bình” hiện nay là hoạt
động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước
có chế độ chính trị mà họ coi là khơng phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng
hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an
ninh… để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi
cho họ(4). Hiện nay, “diễn biến hịa bình” đã có những biểu hiện mới cả về

chủ thể tiến hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh
cao, đến mức có thể coi là một “cơng nghệ”, đó là “cơng nghệ lật đổ”, với rất
nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các


19
trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết tận dụng
triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ khơng thể xem thường, thực tế
đó địi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc
chế cho phù hợp, khơng để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
Đất nước ta đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ ràng, muốn cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước thành cơng thì phải đặt con người vào vị trí trung tâm,
phải có con người đạo đức, trí tuệ với đầy đủ các phẩm chất cần có của con
người xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt
đến con người, coi con người là trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát
triển và định hướng sự nghiệp xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải gắn liền với xây dựng nhân cách phát triển hài hoà, kế thừa truyền thống
và hiện đại, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Giá trị truyền thống có vai trị rất quan trọng đối với việc xây dựng và
phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện
nay trên nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu
cực của tồn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới,
gắn lý tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là
thế hệ trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá
trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại
trong xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát triển.
2.2. Thách thức bên trong
- Nguy cơ từ tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn
chặn triệt để.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
“Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt được


20
và ưu điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ như sau: Đa số cán bộ có lập
trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị,
gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, ln tu dưỡng, rèn luyện, trình độ,
năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa số cán
bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản
lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị
chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười
học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, địi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức
hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút
về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, nói khơng
đi đơi với làm, xa rời ngun tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình;
thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi,
quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào
“lợi ích nhóm”.
Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình

thức mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong
công tác cán bộ… Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, gây ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế chính trị - xã hội của đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường
quốc tế. Do vậy, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang là
một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, nhưng cũng là một nhiệm vụ
rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp.


21
Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi có hiệu quả những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ:
Sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn
lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản
bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mịn những giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế .
Tồn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội
thông tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các
dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng
q trình tồn cầu hóa để tìm cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngơn ngữ, tập
qn, lối sống của mình ra khắp thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công
cụ, phương tiện truyền thông đa nền tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn
hóa” của mình, làm phai nhạt các giá trị truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá

trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá
trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày
một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới
tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm, khó lường. Bởi lẽ,
giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trị quan trọng đối
với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh
tồn cầu hóa hiện nay. Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải kết hợp giữa
bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với việc
tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài
hòa giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt
Nam, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.


22
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng.
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới
từ trước đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh rằng, bất cứ khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong
giải quyết mối quan hệ này thì khi đó phong trào cách mạng của mỗi nước
cũng như của thế giới đều vấp phải khó khăn, thậm chí là thất bại với những
tổn thất hết sức nặng nề.
Trong bối cảnh tồn cầu hố ngày nay, hầu hết các chính phủ trên thế
giới đều cơng khai tuyên bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Mối quan hệ giữa
giai cấp và dân tộc, giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc sẽ lại nổi lên,
làm phân hố các lực lượng chính trị thành nhiều đội ngũ, đặc biệt là làm
phân liệt phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, làm giảm sút tinh thần và
sức mạnh chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, gây ảnh

hưởng tiêu cực tới phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cùng với đó, chủ
nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, biệt phái cũng đang có
xu hướng ngày càng gia tăng, tác động phức tạp đến đường lối, chính sách đối
nội và đối ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm tê liệt truyền thống, chủ
nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân trên phạm vi thế giới.
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ
vững hịa bình, ổn định để phát triển.
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh
kinh tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay.
Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, cịn cách thức bảo đảm những ngun
tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển.


23
Thêm vào đó, q trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hịa nhập nhưng
khơng hịa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông
qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hịa bình” đối với Việt Nam.


24
V. LIÊN HỆ TRONG QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH VÀ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI XÃ PHẠM VĂN CỘI, HUYỆN CỦ CHI
Trong bối cảnh đất nước đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc
nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Trong công cuộc xây
dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đất nước ta đang ở chặng đường “đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” và phấn đấu trở thành “nước phát triển, thu nhập cao”,
thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Đó vừa là tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù của q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có điểm xuất phát thấp từ nền sản
xuất lạc hậu như Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, nông dân là đại đa số dân tộc, do
đó, vấn đề nơng dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Đối với Người, nông dân
Việt Nam là những người bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất. Và, dân chúng
công nông là gốc của cách mạng.
Như vậy, nơng dân là một lực lượng được hình thành tất yếu trong tiến
trình lịch sử, cho đến nay nông dân vẫn là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội, nông dân sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp, làm ra các sản phẩm
nơng nghiệp. Nơng dân có vai trị quan trọng trong chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của các quốc gia.
Do đặc thù của Việt Nam nên vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế. Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: Phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển tồn diện kinh tế nơng thơn
và xây dựng nơng thơn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội.
Đối với xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi: Đảng ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ


25
Chí Minh và vận dụng trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế, xã hội, giữ

vững quốc phòng – an ninh của địa phương, đặc biệt là trong việc xây dựng,
nâng chất nơng thơn mới trên địa bàn góp phần vào chặng đường đẩy mạng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như Quyết định số 800/QĐ-TTg
ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 đã
nêu lên mục tiêu đó là Xây dựng nơng thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; mơi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật
tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng
được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với chủ trương đúng đắn, được nhân dân đồng thuận và sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Thành phố, huyện; kế thừa thành tựu phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, chăm lo nông dân của các nhiệm kỳ
trước. Việc xây dựng nông thôn mới được quan tâm thực hiện sâu rộng, làm
khơi dậy tính tích cực trong nhân dân, được nhân dân ủng hộ, đồng tình tham
gia hiến hơn 1.000 m2 đất thực hiện cơng trình, đầu tư phát triển sản xuất,
tham gia các công tác khác giúp thực hiện tốt mục tiêu của chương trình. Ban
Quản chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới xã Phạm Văn
Cội nhận thức đầy đủ về quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước trong xây dựng nơng thơn mới, có sự tập trung trong chỉ đạo các ngành,
bộ phận thực hiện các nhiệm vụ được giao, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm,
thường xuyên kiểm tra, đánh giá tiến độ thực hiện, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc đã giúp các đơn vị thực hiện hồn thành tốt cơng việc.
Trên cơ sở những kết quả đạt được vừa qua, cấp ủy đảng, chính quyền
và nhân dân xã Phạm Văn Cội sẽ tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung tay thực
hiện thành công nâng chất nông thôn mới tại xã giai đoạn 2021-2025. Trong
q trình tổ chức thực hiện ln ln quán triệt nội dung cốt lỗi trong xây



×