Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN học PHẦN PHÁP LUẬT đại CƯƠNG CHỦ đề VI PHẠM PHÁP LUẬT của SINH VIÊN HIỆN NAY NHỮNG vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.74 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
CHỦ ĐỀ: VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Họ và tên: Nguyễn Hà Anh Lân
MSSV: 47.01.301.056
Mã lớp HP: 2111POLI190323
Giảng viên giảng dạy: CN. Nguyễn Ngọc Hoa Đăng

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan tiểu luận này là bài làm của tơi.
Kết quả trình bày trong tiểu luận là trung thực. Các trích dẫn về bảng biểu, kết
quả nghiên cứu của những tác giả khác; tài liệu tham khảo trong tiểu luận đều có
nguồn gốc rõ ràng và theo đúng quy định.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 01 năm 202
SINH VIÊN THỰC HIỆN

Nguyễn Hà Anh Lân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Những vấn đề chung về vi phạm pháp luật...................................................1


1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật.................................................................1
1.2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật.......................................................2
1.3. Các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật....................................5
2. Thực trạng.....................................................................................................7
3. Nguyên nhân.................................................................................................9
3.1. Nguyên nhân chủ quan...........................................................................9
3.2. Nguyên nhân khách quan.....................................................................10
4. Giải pháp.....................................................................................................12
KẾT LUẬN....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................15


1

MỞ ĐẦU
Đại học là một môi trường xã hội thu nhỏ, các bạn sinh viên là những đối
tượng lần đầu tiếp xúc với những vấn đề mới, chưa đầy đủ nhận thức và kinh
nghiệm để giái quyết những vấn đề của bản thân. Ở lứa tuổi này, tuy đã đủ tuổi chịu
trách nhiệm về những hành vi của mình nhưng kiến thức về pháp luật của các bạn
còn nhiều thiếu sót nên khơng tránh khỏi những trường hợp phạm luật nhưng không
hay biết hay nhận ra. Công tác giáo dục pháp luật vì nhiều lý do mà chưa đem lại
hiệu quả thực sự, đã để lại những sự việc đau lịng cho gia đình, nhà trường và cả xã
hội. Do đó, vấn đề vi phạm pháp luật ở sinh viên cần được tìm hiểu và nghiên cứu
một cách kĩ càng, từ đó hình thành nên nhận thức cũng như bài học kinh nghiệm
cho mỗi cá nhân và cộng đồng.
1. Những vấn đề chung về vi phạm pháp luật
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người trái với quy định của
pháp luật, có lỗi do chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại
hoặc đe doạ xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vi

phạm pháp luật là trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng những quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để bị coi là vi phạm pháp luật, cần
phải hội đủ các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật.
Căn cứ vào mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật,
chúng được chia thành tội phạm và các vi phạm pháp luật không phải là tội phạm.
Căn cứ vào đặc điểm khách thể vi phạm pháp luật, chúng được chia theo
Ngành Luật, chế định pháp luật. Có các loại vi phạm pháp luật:
- Vi phạm hình sự: là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự gây ra một cách vô
ý hoặc cố ý.
- Vi phạm dân sự: là những hành vi xâm hại đến quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân có liên quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được quy định trong


2

Bộ luật Dân sự. Vi phạm dân sự dẫn đến việc áp dụng các chế tài do những quy
phạm pháp luật Dân sự quy định.
- Vi phạm hành chính: là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính
do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện do cố ý hay vô ý.
- Vi phạm kỉ luật: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác
lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học… Vi phạm kỷ luật dẫn
đến việc áp dụng các biện pháp thi hành kỷ luật khác nhau như: khiển trách, cảnh
cáo, hạ bậc lương…
1.2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Hành vi xác định của cá nhân, pháp nhân cụ thể
Hoạt động của con người từ khi suy nghĩ đến khi thể hiện ra ngoài, trải qua
nhiều giai đoạn. Khoa học pháp lý không xem xét tất cả các giai đoạn đó mà chỉ
nghiên cứu giai đoạn thể hiện các hành vi. Hành vi là sự thể hiện ý chí ra bên ngồi

bằng hành động (hoặc khơng hành động) một cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi
hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Vì vậy, những gì cịn trong sự suy nghĩ của chủ thể
không bị chi phối bởi các quy phạm pháp luật.
Diễn giải cách khác, bất kỳ một sự việc nào của con người tạo nên bắt nguồn
từ những động cơ, nguyên nhân nào đó và được thực hiện, sự thực hiện thể hiện
bằng hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động nhằm đạt được mục đích
nào đó.
Ngun nhân
Động cơ

Hành vi xác định

Mục đích

Dấu hiệu pháp luật quan tâm nhất đến là hành vi và đưa nguyên nhân, động cơ
và mục đích xuống vị trí thứ yếu.
- Hành vi xác định phải trái pháp luật hiện hành
Theo quan niệm của hệ thống Sovietque Law, hành vi trái pháp luật là hành vi
không phù hợp với những quy định của pháp luật, tức là làm những điều pháp luật


3

cấm hoặc không làm những điều pháp luật bắt buộc. Hành vi bất hợp pháp ấy của
chủ thể có thể là của cá nhân hoặc tổ chức. Nói cách khác, hành vi trái pháp luật thì
phải có pháp luật điều chỉnh hành vi của chủ thể. Nếu khơng có quy định pháp luật
nào điều chỉnh hành vi của chủ thể thì hành vi ấy khơng vi phạm pháp luật.
Trong thực tế, luật pháp không thể dự liệu tất cả hành vi của các chủ thể được
làm và không được làm, nên các nước theo hệ thống Common Law, Continental
Law thường áp dụng quan điểm của John Locke “Chủ thể được phép làm những gì

mà luật khơng cấm”, cịn đối với những người nắm giữ quyền lực thì “ Cấm khơng
được làm những gì mà luật pháp khơng cho phép”, nên dấu hiệu vi phạm pháp luật
này thường được diễn giải là khi hành vi của chủ thể bị một bên cho là xâm hại đến
quyền và lợi ích của họ.
Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng:
+ Làm một việc (hành động) mà pháp luật cấm không được làm;
+ Không làm một việc (không hành động) mà pháp luật đòi hỏi;
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá quy định của pháp luật.
Do đó, chỉ xem là hành vi trái pháp luật khi vi phạm những quy định mà luật
pháp cấm hoặc khơng làm những gì mà pháp luật bắt buộc phải làm.
- Hành vi trái pháp luật đó phải có lỗi của chủ thể
Hành vi trái pháp luật này phải thể hiện ý chí của chủ thể tức là mặt chủ quan
của hành vi, hay lỗi của chủ thể. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định
hành vi vi phạm pháp luật.
Do đó, có những hành vi trái pháp luật nhưng thực hiện trong những hoàn
cảnh, điều kiện mà chủ thể không thể lựa chọn cách xử sự khác, thì hành vi trái
pháp luật đó khơng có lỗi nên khơng thể xem là hành vi vi phạm pháp luật.
Thí dụ: Trường hợp phịng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết.
- Chủ thể vi phạm pháp luật phải có đủ năng lực chủ thể
Nghĩa là chủ thể có khả năng lựa chọn cách xử sự, có khả năng nhận thức
được hậu quả hành vi của mình mà vẫn thực hiện thì mới xem là hành vi vi phạm
pháp luật. Do đó, những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những người


4

khơng có năng lực hành vi (mất trí, tâm thần hoặc dưới tuổi luật định) thì khơng thể
xem là hành vi vi phạm pháp luật.
Chủ thể vi phạm hình sự: cá nhân, pháp nhân.
Chủ thể vi phạm hình sự: cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác.

Chủ thể vi phạm hành chính: cá nhân hoặc có thể là tổ chức
Chủ thể vi phạm kỷ luật: cán bộ - công chức Nhà nước, học sinh – sinh viên…
- Xâm hại đến khách thể mà pháp luật bảo vệ
Nghĩa là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ như lại bị hành vi vi
phạm pháp luật xâm hại. Việc xác định khách thể có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định tính chất nguy hiểm của hành vi.
Khách thể của vi phạm hình sự: xâm hại đến độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ Nhà nước; tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Khách thể của vi phạm dân sự: xâm hại đến quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân
có liên quan đến tài sản hoặc khơng liên quan đến tài sản được quy định trong Bộ
luật Dân sự.
+ Quan hệ tài sản: là quan hệ giữa người với người về những lợi ích vật
chất được tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất của xã hội như: quan hệ sở hữu,
quan hệ thừa kế… Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản.
+ Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa người với người về những lợi ích phi
vật chất, khơng có giá trị kinh tế, khơng tính ra được thành tiền và khơng thể
chuyển giao vì nó gắn liền với một cá nhân, tổ chức nhất định. Nó ghi nhận đặc tính
riêng biệt và sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân hay tổ chức đó. Quan hệ nhân
thân thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật dân sự gồm quan hệ nhân thân liên
quan đến tài sản (như: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp…) và quan hệ nhân
thân không liên quan đến tài sản (như: danh dự, nhân phẩm, tên gọi…).
Khách thể của vi phạm hành chính: xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước.
Quy tắc quản lý Nhà nước rất đa dạng: Quản lý trật tự an toàn xã hội; quản lý trật tự
văn hố, giáo dục, đất đai, tài ngun mơi trường; trật tự an tồn giao thơng…


5

Khách thể của vi phạm kỷ luật: những hành vi có lỗi, trái với những quy chế,

quy tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…
1.3. Các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật
Trong khoa học pháp lý, về mặt cấu trúc vi phạm pháp luật thường được xem
xét trên những yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, mặt chủ thể và mặt khách thể.
- Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những dấu hiệu biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi
trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
a. Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành
vi trái với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
b. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc
những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã
hội.
c. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là
giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã
chứa đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của
hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả
phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một
nguyên nhân khác.
d. Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp
luật.
e. Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
f. Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện
hành vi trái pháp luật của mình.
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật
ln ln là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp



6

luật, cịn các yếu tốt khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng trường
hợp vi phạm. Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác
định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.
- Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là thái độ tâm lý của chủ thể, là diễn biến
bên trong của con người mà giác quan người khác khơng thể cảm giác chính xác
được. Các dấu hiệu của mặt chủ quan bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của chủ thể
đối với hành vi và hậu quả của sự vi phạm pháp luật.
+ Lỗi: là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi có hành vi vi phạm
pháp luật. Căn cứ vào dấu hiệu ý chí và lý trí, lỗi gồm hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
o Lỗi cố ý: gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
 Lỗi cố ý trực tiếp: người vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi và mong muốn điều đó xảy ra.
 Lỗi cố ý gián tiếp: Người vi phạm nhận thức được hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, tuy không muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy
ra.
o Lỗi vô ý: gồm lỗi vơ ý vì q tự tin và lỗi vơ ý do cẩu thả.
 Lỗi vơ ý vì q tự tin: Người vi phạm thấy trước được hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng khơng xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được.
 Lỗi vô ý do cẩu thả: Người vi phạm không nhận thức được hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
+ Động cơ vi phạm pháp luật: là những nguyên nhân bên trong (các nhu cầu
cần thoả mãn) thúc đẩy chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Mục đích vi phạm pháp luật: là những mục tiêu mà chủ thể cần đạt tới khi
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Chủ thể:



7

Mặt chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức phải có năng lực chịu
trách nhiệm pháp lý căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức điều khiển hành vi, và
tuỳ thuộc vào khách thể được pháp luật bảo vệ mà quy định năng lực chịu trách
nhiệm pháp lý trong các ngành Luật.
- Khách thể:
Mặt khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng lại bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Việc xác định khách thể có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất nguy hiểm của hành vi.
Ví dụ: hành vi xâm hại trật tự an tồn gia thơng thì ít nguy hiểm hơn hành vi
xâm hại đến các quan hệ về tính mạng, tài sản của cơng dân.
2. Thực trạng
Thống kê của Bộ Công an cho thấy trong giai đoạn 2018 - 2020, cả nước đã
ghi nhận 10.786 vụ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, với 16.583 đối tượng
có liên quan. Trong đó, nữ giới chiếm 5%, nam giới chiếm đến 95%. Riêng năm
2020, đã ra 4.262 vụ, với hơn 6.500 đối tượng phạm pháp.
Công an Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết: Từ năm 2018 đến hết quý I-2021,
thành phố ghi nhận 516 vụ phạm pháp hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện, các
cơ quan chức năng đã truy bắt 884 đối tượng. Trong đó, đã khám phá 474 trong số
516 vụ, xử lý 775 đối tượng, gồm: Xử lý hình sự 336 vụ với 554 đối tượng, xử phạt
hành chính 108 vụ/221 đối tượng, đang tiếp tục điều tra 42 vụ và 109 đối tượng.
Trong các vụ việc đã xử lý, cơ quan chức năng ghi nhận các đối tượng phạm tội đều
còn rất trẻ, trong đó, độ tuổi dưới 14 chiếm 3,62%, từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là
27,26% và dưới 18 tuổi là 69,12%. Về trình độ văn hóa, khơng biết chữ là 3,75%;
tiểu học 29,33%, THCS 46,51% và THPT là 20,41%. Trong số 884 đối tượng có
553 đối tượng đã bỏ học, chiếm 71,44%.
Năm năm có gần 8000 vụ học sinh, sinh viên vi phạm hình sự. Đó là thơng tin

được đưa ra tại hội thảo tổng kết năm năm thực hiện thông tư liên tịch về công tác
đảm bảo an ninh trật tự tại các cơ sở giáo dục (2009-2014) do Bộ Giáo dục và Đào
tạo cùng Bộ công an tổ chức ngày 05/08/2014 tại Hà Nội. Cụ thể, trong số hơn 8000


8

vụ việc trên liên quan đến gây rối trật tự công cộng là 935 vụ, tội phạm ma túy 357
vụ, giết người 37 vụ, cướp trộm tài sản trên 6.000 vụ.
Theo nhận định của các cơ quan chức năng, tình trạng thanh thiếu niên phạm
tội có chiều hướng gia tăng, cùng với việc tăng về số vụ thì tính chất phức tạp và
mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này cũng gia tăng. Nhất là hiện nay, khi mà
dịch bệnh Covid – 19 vẫn còn đang diễn biến phức tạp, tình trạng thất nghiệp khơng
có việc làm, khơng có thu nhập. Vì vậy, để có tiền ăn chơi, tiêu xài, một số khơng ít
các đối tượng thanh thiếu niên đã sa vào con đường trộm cướp, vi phạm pháp luật.
Khơng ít những vụ việc đau lịng, gây rúng động xã hội mà kẻ thủ ác lại là
những sinh viên trẻ tuổi. Những vụ việc này ít nhiều gây ảnh hưởng xấu đến trị an,
gây hoang mang dư luận và bức xúc sâu rộng trong nhân dân.
Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18 tháng 10 năm 2018, người dân tại toà nhà
HH2A Linh Đàm (quận Hoàng Mai, Hà Nội) đã hết sức bàng hoàng khi phát hiện
một cháu bé mới sinh tử vong tại khu vực đường đi nội bộ của toà nhà. Các lực
lượng chức năng đã nhanh chóng tiếp cận hiện trường và xác minh làm rõ vụ việc.
Qua rà sốt, cơ quan điều tra đã tìm ra hung thủ là Đinh Thị Vân Anh (21 tuổi, ở
n Hố, Minh Hố, Quảng Bình), sinh viên trường Đại học Văn hố. Qua lời khai,
Vân Anh thừa nhận có quan hệ tình cảm với nhiều người, sau đó cơ có thai khoảng
8 tháng. Khoảng 20 giờ ngày 18 tháng 10, Vân Anh đi vào buồng vệ sinh thì sinh
được một cháu bé. Do hoảng sợ nên không biết thai nhi còn sống hay chết, là trai
hay gái, Vân Anh dùng kéo trong nhà vệ sinh cắt dây rốn, bỏ cháu bé vào túi ny
lông đen, đặt cháu bé lên cửa sổ nhà vệ sinh rồi dùng tay đẩy xuống cửa sổ. Vân
Anh xác nhận cháu bé là con của một trong số những người đàn ông cô đã qua lại.

Hành vi của Đinh Thị Vân Anh đã vi phạm pháp luật hình sự, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội, gây dư luận xấu trong xã hội.
Hay vụ án khiến dư luận bàng hoàng, phẫn nộ vì hành vi tội ác quá dã man do
nam sinh viên tên là Hoàng Tuấn An (sinh năm 2002, trú tại xã Dương Liễu, huyện
Hoài Đức, Hà Nội), hiện là sinh viên một trường đại học trên địa bàn. Q trình làm
việc với cơ quan cơng an, An đã thừa nhận hành vi sát hại chị H.T.N.H (sinh năm


9

2002, cư trú ở huyện Hoài Đức, Hà Nội), sinh viên năm 2 Học viện Ngân hàng.
Theo đó, An khai nhận bản thân và chị H. có mối quan hệ tình cảm với nhau. Quá
trình yêu đương, giữa hai người nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Tối ngày 22 tháng 12,
sau khi mua một con dao inox, An điều khiển xe máy tới trước cửa nghĩa trang thôn
Cao Trung, xã Đức Giang, huyện Hoài Đức để đợi chị H. đi làm về qua. Khoảng 22
giờ 30 phút thấy chị H. đi xe máy về An lao xe lên chặn lại. Tại đây, hai bên xảy ra
mâu thuẫn, lời qua tiếng lại. Bất ngờ, An rút dao trong túi quần ra và đâm nhiều
nhát khiến chị H. gục xuống, tử vong tại chỗ. Sau đó, An lấy dao đâm vào cổ mình
với ý định tự sát nhưng bất thành do bị người dân phát hiện. Lực lượng cơng an
cũng có mặt ngay sau đó để khống chế Hồng Tuấn An, đưa về trụ sở làm việc. Đây
là một vụ việc rất nghiêm trọng, gây bức xúc mạnh mẽ trong xã hội, kẻ thủ ác phải
bị trừng trị thích đáng cho hành vi dã man và mất nhân tính của mình.
Gần đây nhất, một vụ việc gây rúng động xã hội bởi hành vi tàn bạo, một nữ
sinh viên chỉ vì mâu thuẫn trong sinh hoạt hằng ngày mà đã ra tay sát hại cha ruột
của mình. Cơ quan điều tra đã bắt tạm giam Tống Thị Tùng Linh (sinh năm 2001,
ngụ thành phố Bà Rịa) để điều tra nguyên nhân cái chết của ông Tống Hồng Đ.
(sinh năm 1968, cha ruột của Linh). Để thực hiện hành vi của mình, ngày 18 tháng
1, Linh bắt xe lên Thành phố Hồ Chí Minh mua chất độc Xyanua mang về nhà hòa
vào 3 chai nước để trong tủ lạnh. Ông Đ. mở tủ lạnh lấy nước uống đã trúng độc tử
vong. Sáng hôm sau, Linh kéo thi thể cha ra phía sau tường rào rồi mua gạch, xi

măng bịt kín nhằm che giấu hành vi phạm tội. Đồng thời, Linh dùng xăng đốt nhà
mình rồi chạy qua nhà ông nội đưa ra thông tin gian dối về việc có một nam thanh
niên (chưa rõ thân nhân lai lịch) đột nhập vào nhà tấn công Linh và báo đã giết ông
Đ. để trả thù, sau đó đốt nhà. Nhận tin báo, Cơng an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và triệu tập, lấy lời khai của Linh và những
người liên quan. Làm việc với công an, Linh khai báo bất nhất, có nhiều điểm nghi
vấn. Sau q trình đấu tranh, Linh đã cúi đầu khai nhận hành vi giết cha ruột, rồi
dựng hiện trường giả. Thật đáng tiếc cho sự ra đi của người cha và càng phẫn nộ với
hành vi máu lạnh, tàn bạo của cô nữ sinh chỉ mới hai mươi tuổi này.


10

3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân chủ quan
Sinh viên ở trong độ tuổi từ 18 đến 24, do chưa có nhận thức đúng đắn về
pháp luật cũng như còn trẻ người non dạ trong cách hành xử nên thường gây ra
nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày. Đây là độ tuổi lưng chừng giữa người
lớn và trẻ con, xảy ra nhiều sự thay đổi về tâm sinh lý, thể chất và tinh thần có nhiều
sự biến đổi cũng như tiếp xúc được với những điều mới mẻ từ cuộc sống xa gia đình
khi lên thành phố học, cùng với mơi trường đại học nhiều tự do, cởi mở. Nhiều sinh
viên nảy sinh tâm lý thích thể hiện, dễ bi kích động, rủ rê, lôi kéo làm những hành
vi bốc đồng, khó kiểm sốt và khi đi q giới hạn, dễ gây nên những hậu quả đáng
tiếc. Ở lứa tuổi này, do vừa học vừa làm, dễ gây nên tâm lý căng thẳng, stress và
nhu cầu kinh tế chưa thể đáp ứng đủ, vì vậy xuất hiện những suy nghĩ ích kỉ, tiêu
cực sẽ đẫn đến những việc làm vượt ngoài những quy chuẩn đạo đức, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng. Thơng thường, sinh viên ít được dạy đầy dủ các kiến thức về
pháp luật cũng như những kiến thức bảo vệ bản thân trước tác động của đời sống xã
hội, khi đột ngột xa rời vịng tay gia đình, tâm lý thường hoang mang, lo sợ hoặc bất
cần, ngông cuồng, và khi thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật thì khơng nhận

ra, hoặc khơng hề biết rằng mình đã phạm tội, phạm luật.
3.2. Nguyên nhân khách quan
- Nguyên nhân từ phía gia đình
Cuộc sống ngày càng phát triển khiến cho áp lực kinh tế ở nhiều gia đình tăng
cao. Nhiều bậc cha mẹ chỉ mải mê làm ăn, bon chen trong cuộc sống mưu sinh mà
không dành thời gian, sức lực để quan tâm, giáo dục con em của mình. Nhiều gia
đình bng lỏng quản lý con cái, chỉ chu cấp về mặt vật chất mà quên đi sự yêu
thương và dạy dỗ, làm cho các bạn sinh viên vừa mới tập tễnh bước vào đời có
những suy nghĩ lệch lạc, dễ bị rủ rê, sai khiến, lôi kéo vào những tệ nạn xã hội cũng
như con đường phạm tội.
Truyền thống gia dình và sự gắn kết thế hệ bị rạn nứt, các chuẩn mực đạo đức
bị xem nhẹ đã ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và hành động của một bộ phận giới


11

trẻ hiện nay. Nhiều bạn trẻ bị bỏ rơi về mặt cảm xúc cũng như dưỡng dục từ các bậc
phụ huynh khiến cho họ mất phương hướng, lạc lõng trong những xơ bồ tất bật của
cuộc sống. Đau lịng hơn cả là có nhiều gia đình xúi giục, cổ vũ, bao che những
hành động sai trái, đi ngược với những quy chuẩn đạo đức cũng như vi phạm
nghiêm trọng pháp luật của con em mình.
- Ngun nhân từ phía nhà trường
Các bậc phụ huynh bận bịu mưu sinh mà đã trao hết sự giáo dục con em mình
cho nhà trường, tuy nhiên, sự giáo dục của một số đơn vị chưa đáp ứng đầy đủ yêu
cầu phát triển nhân cách và tâm lý của giới trẻ. Do tính chất thương mại hố giáo
dục, thầy cơ trở thành những người “thợ dạy”, khiến cho mối quan hệ thầy – trò mất
đi sự kết nối, yêu thương, cảm thông và sẻ chia. Nhà trường chỉ chú tâm vào công
cuộc dạy chữ, dạy kiến thức mà xem nhẹ vấn dạy đề đạo đức cũng như những kĩ
năng sống cơ bản cho học sinh, sinh viên. Một khi các bạn không thể phân biệt phải
trái, đúng sai, tôn sùng cái ác, giải quyết vấn đề bằng bản năng và bạo lực là lúc các

bạn dễ đi vào con đường vi phạm pháp luật và trở thành tội phạm.
Công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường được triển khai rộng khắp nhưng
phần lớn mang tính hình thức, nên hiệu quả mang lại khơng cao, các em học sinh,
sinh viên không nhận thức được nhiều về pháp luật. Việc xử lý học sinh, sinh viên
vi phạm nội quy nhà trường cũng như vi phạm pháp luật còn chưa thường xuyên,
kiên quyết và triệt để. Điều này đã tác động khơng ít tới nhận thức về đạo đức cũng
như tinh thần thượng tôn pháp luật của các bạn trẻ trong cuộc sống hiện đại.
Sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình cịn lỏng lẻo, chưa kịp thời,
chưa đáp ứng được tính hiệu quả cao và yêu cầu cấp thiết. Dẫn đến nhiều sự vụ đau
lòng đã xảy ra, để lại những hậu quả không thể khắc phục cũng như mất mát cho cả
hai phía.
- Nguyên nhân từ xã hội
Sự phát triển quá nhanh của xã hội, cùng với công nghệ thông tin đã làm cho
việc quản lý con em của mình từ phía gia đình và nhà trường gặp nhiều khó khăn,
thử thách. Các bạn sinh viên dễ tiếp cận với những thông tin xấu độc, bạo lực mà


12

thiếu đi sự tỉnh táo, nhận thức đúng đắn dễ dẫn đến hình thành những tâm lý méo
mó, khiếm khuyết về nhân cách. Môi trường sống đầy rẫy cám dỗ, thiếu lành mạnh
làm cho các bạn trẻ dễ sa vào các tệ nạn và dẫn đến con đường phạm tội.
Sự quan tâm, hỗ trợ từ các tổ chức đoàn thể cịn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp
giữa gia đình, nhà trường và các cơ quan, chính quyền sở tại. Chúng ta chỉ tập trung
vào việc nghiêm trị các hành vi phạm pháp mà thiếu đi sự phòng, chống những việc
làm này từ xa, để đến khi sự vụ đau lòng xảy ra thì đã q muộn màng.
Cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật chưa được chú trọng, không thu hút
được sự quan tâm từ phía giới trẻ. Các chương trình pháp luật đi theo lối mịn, thiếu
sự linh hoạt, đổi mới cũng như tính ứng dụng trong đời sống xã hội nên chưa thực
sự đem lại hiệu quả. Phải đem pháp luật vào đời sống, đem đời sống vào khuôn

thước của pháp luật, giáo dục pháp luật từ sớm để hình thành nên nhận thức thượng
tơn pháp luật ở giới trẻ.
4. Giải pháp
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, tổ chức đồn thể và
chính quyền địa phương. Gia đình là chủ thể quan tâm, giáo dục đạo đức, lối sống;
nhà trường là mắt xích quan trọng trong việc quản lý hình thành, phát triển tâm lý,
nhân cách và nhận thức pháp luật; các cấp uỷ, chính quyền, tổ chức xã hội là nơi
giám sát, nắm bắt tình hình để kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ các bạn trẻ khi gặp những trở
ngại trong các vấn đề xã hội.
Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, tăng cường các biện pháp quản lý
xã hội, đặc biệt là quản lý trên không gian mạng. Điều này có tác dụng ngăn ngừa,
chủ động phịng, chống tội phạm. Để thu hút được nhiều sự quan tâm cũng như đi
sâu sát hơn đời sống của giới trẻ, để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, chúng ta
cần thay đổi hình thức giáo dục, tuyên truyền, đối mới phương pháp cũng như linh
hoạt hơn trong công tác này. Nhà trường cần chú trọng việc dạy kĩ năng sống cũng
như phổ biến pháp luật cho học sinh, sinh viên, để hình thành ý thức tơn trọng, biết
sẻ chia, sống có đạo lý, thượng tơn pháp luật thì tỉ lệ phạm tội ở giới trẻ sẽ giảm đi
rất nhiều. Chính quyền cần mạnh tay trong việc quản lý những nội dung số trên các


13

nền tảng mạng xã hội, loại bỏ những thông tin xấu, độc, để trả lại môi trường an
ninh mạng trong sạch và lành mạnh.
Xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật để răn đe, giáo dục ý thức, tinh
thần tự giác của giới trẻ. Sinh viên là lứa tuổi chưa đủ chín chắn nên thường có
những hành vi bốc đồng, sốc nổi nên cần có sự cảnh tỉnh, nhắc nhở thường xuyên từ
chính quyền, nhà trường và gia đình.
Cần quan tâm sâu sắc tới đời sống và nhu cầu thực tiễn của sinh viên. Các bạn
sinh viên thường gặp nhiều khó khăn trong đời sống khi mới bước vào mơi trường

đại học. Những khó khăn về kinh tế, gia đình… thường gây áp lực nặng nề, khiến
các bạn dễ lâm vào bế tắc, dấn thân vào các con đường tệ nạn, phạm tội. Chú ý quan
tâm những đối tượng có nguy cơ cao vi phạm pháp luật cao như những trường hợp
sống trong gia đình có trình độ văn hố thấp, bố mẹ ly hơn hay phạm tội, thanh niên
sống trong những khu vực dễ bị tác động bởi tệ nạn… Đoàn Thanh niên và Hội
Sinh viên cần đẩy mạnh công tác, tạo những sân chơi lành mạnh, tổ chức hội nhóm
sinh hoạt, trao đổi để sẻ chia cùng các bạn sinh viên và nắm bắt kịp thời tình hình
các bạn sinh viên sinh hoạt ở đơn vị để đưa ra sự hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp.
Vấn đề giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho
người dân. Khi những nhu cầu cơ bản được đáp ứng, các bạn sinh viên sẽ có đủ
điều kiện để phát triển và thể hiện bản thân. Bởi vậy, để có một mơi trường tốt thì
gia đình phải đảm bảo về điều kiện kinh tế, văn hóa. Các giải pháp về kinh tế, hỗ trợ
việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân sẽ góp phần tạo ra một
mơi trường an toàn, lành mạnh cho học sinh, sinh viên. Việc xây dựng một cộng
đồng xã hội có nền tảng văn hóa, kinh tế phát triển, con người có tri thức và hiểu
biết sẽ tạo ra mơi trường an tồn, lành mạnh để các bạn phát triển và hình thành
nhân cách tốt, nâng cao nhận thức và tinh thần thượng tôn pháp luật.
KẾT LUẬN
Vi phạm pháp luật ở sinh viên không quá xa lạ với chúng ta, tuy nhiên cịn
nhiều khía cạnh chưa thể phân tích kĩ càng. Càng tìm hiểu về vấn đề này, ta lại càng
hiểu thêm nguyên nhân và từ đó hình thành nên những giải pháp cho bản thân và xã


14

hội. Đây không chỉ là một chủ đề đáng được quan tâm ở một địa phương hay chính
quyền, mà cần sự chung tay giúp sức của gia đình, cộng đồng và xã hội. Phòng,
chống vi phạm pháp luật ở sinh viên khơng chỉ đem lại bình n cho đất nước mà
cịn là niềm vui của gia đình và mỗi cá nhân. Bớt đi một sự việc đau lòng, chúng ta
đã cứu được thêm rất nhiều cuộc đời khỏi sự tăm tối của tệ nạn và phạm tội. Do đó,

ngay từ những ngày đầu ngồi trên ghế giảng đường, sinh viên cần tự trang bị cho
mình những kiến thức cơ bản về pháp luật, tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật để bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội.


15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
(2020), Tập bài giảng Pháp luật đại cương, TP. HCM.
Báo điện tử: Nhân dân (2021), Chủ động ngăn ngừa hành vi phạm tội ở thanh,
thiếu niên. Khai thác ngày 20/01/2022. Nguồn: />Báo điện tử: Đại biểu nhân dân (2021), Báo động tình trạng vi phạm pháp luật
trong

thanh,

thiếu

niên.

Khai

thác

ngày

20/01/2022.

Nguồn:


/>Báo điện tử: Công an Nhân dân (2018), Lời khai kinh hoàng của nữ sinh ném
con từ tầng 31 chung cư Linh Đàm. Khai thác ngày 21/01/2022. Nguồn:
/>Báo điện tử: VOV (2021), Bắt được nghi phạm sát hại nữ sinh Học viện Ngân
hàng



mâu

thuẫn

tình

cảm.

Khai

thác

ngày

21/01/2022.

Nguồn:

/>Báo điện tử: VOV (2022), Con gái giết cha ruột bằng thuốc độc rồi đốt nhà
tạo

hiện


trường

giả.

Khai

thác

ngày

21/01/2022.

Nguồn:

/>Báo điện tử: Giáo dục Việt Nam (2014), Nhức nhối tội phạm hình sự ở học
sinh, sinh viên. Khai thác ngày 21/01/2022. Nguồn: />TS. Phạm Minh Tuyên (2015), Phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên
của Tịa án thơng qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự - Kết quả, những bất cập
hạn

chế



nguyên

nhân.

Khai

thác


ngày

25/01/2022.

/>
Nguồn:


16

p_page_id=27677461&pers_id=28346379&folder_id=&item_id=96168833&p_det
ails=1
Cổng thông tin điện tử: Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (2021), Nguyên nhân
tội phạm ngày càng trẻ hóa và các giải pháp phòng ngừa. Khai thác ngày
25/01/2022. Nguồn: />


×