Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tài liệu Đề tài "VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐANG THAY ĐỔI" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.46 KB, 12 trang )





Đề tài "VAI TRÒ NHÀ
NƯỚC ĐANG THAY ĐỔI"


VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐANG THAY ĐỔI
KIM CHI (Dịch theo IMF, R. Al-Mashat)
A. Dẫn nhập
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường từ khi đất nước bước vào những cuộc cải cách kinh tế vào cuối thập niên 80.
Việc bắt đầu quá trình chuyển đổi (đổi mới), từng lót đường cho những cuộc cải cách sâu
rộng hơn, là nhằm mục đích xoá bỏ tình trạng phi hiệu quả của hệ thống kế hoạch tập
trung. Đã có những tiến bộ đáng kể trong bối cảnh tự do hoá giá cả, thống nhất tỷ giá hối
đoái, cải cách thuế, và tự do hoá cơ chế ngoại thương. Ngoài ra, luật pháp và những thể
chế cần thiết để hỗ trợ một nền kinh tế dựa trên thị trường cũng dần dần được hình thành.
Phương pháp chuyển đổi của Việt Nam liên quan đến sự chuyển biến dần dần cơ cấu sở
hữu trong nền kinh tế phi nông nghiệp. Những doanh nghiệp qui mô vừa và lớn do nhà
nước sở hữu vẫn còn thuộc sở hữu của chính phủ, nhưng kế hoạch cải cách doanh nghiệp
nhà nước đã chuẩn bị cho việc cổ phần hoá, thanh lý, và sáp nhập một số đáng kể các
doanh nghiệp nhà nước có qui mô vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân (thuờng dựa
trên cơ sở hộ gia đình) bắt đầu phát triển trong những khu vực khác nhau của nền kinh tế,
và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (thường là các công ty liên doanh giữa một đối
tác nước ngoài và một doanh nghiệp nhà nước) tăng trưởng nhanh chóng trong thập niên
90. Gần đây hơn, việc thông qua Luật Doanh nghiệp và sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài
vào năm 2000 đã dẫn đến hơn 50.000 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập.
Trong chương này, chúng tôi tìm cách định lượng vai trò đang thay đổi của các doanh
nghiệp sở hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc gia, và so sánh những phát triển chính của
đất nước với kinh nghiệm của Trung Quốc.2 Trong các chương, chúng tôi xem xét


chương trình cải cách đang được tiến hành dành cho các doanh nghiệp nhà nước không
thuộc lĩnh vực tài chính (chương 5), và hệ thống tài chính do nhà nước chi phối (chương
6).
B. Thay đổi sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế mạnh từ khi bắt đầu chương trình cải cách; sản
lượng tăng trưởng với tỷ lệ bình quân hàng năm là 6½ phần trăm trong giai đoạn 1988-
2002. Tăng trưởng đi kèm với sự chuyển dịch đáng kể trong thành phần sản lượng theo
khu vực, cũng như tại các quốc gia đang phát triển khác, với đóng góp của nông nghiệp
cho GDP giảm gần một nửa và đóng góp của nông nghiệp tăng mạnh trong thời kỳ này.
Khu vực quốc doanh hiện chiếm khoảng hai phần năm GDP, tăng khoảng 9 phần trăm
điểm từ năm 1990. Tỷ trọng của khu vực quốc doanh gia tăng chủ yếu phản ánh sự
chuyển dịch thành phần cơ cấu của sản lượng, từ nông nghiệp, với tỷ trọng thấp của khu
vực quốc doanh chính thức, sang công nghiệp và dịch vụ, trong đó tỷ trọng quốc doanh
vẫn tiếp tục có qui mô đáng kể.[3]
Việt Nam: GDP theo khu vực và sở hữu, 1990-20011

1990 1995 2001
Tổng số
100 100 100
Nông nghiệp 32 26 22
Công nghiệp 25 30 37
Dịch vụ 43 44 41
Quốc doanh
29 40 38
Ngoài quốc doanh
70 60 62
Nguồn: Tổng cục thống kê.
1 Theo giá hiện hành.
Việt Nam: Các khu vực chính của GDP theo sở hữu, 1990-20001
1991 1996 1998 2000

Nông nghiệp
Quốc doanh
4 4 4 4
Khu vực ngoài quốc doanh
96 96 96 96
Công nghiệp & xây dựng
Quốc doanh
45 51 47 45
Khu vực ngoài quốc doanh
55 49 53 55
Dịch vụ
Quốc doanh 48 55 56 55
(không kể quản lý nhà nước)2
29 47 49 48
Khu vực ngoài quốc doanh
52 45 44 45
Nguồn: Tổng cục thống kê.
1 Theo giá hiện hành.
2 Quản lý nhà nước bao gồm hành chính công, quốc phòng và an sinh xã hội bắt buộc.
Việt Nam: Giá trị sản lượng công nghiệp theo sở hữu, 1990-20001
1991 1996 1998 2000
Tổng số
100 100 100 100
Quốc doanh 48 50 45 36
Khu vực ngoài quốc doanh 52 50 55 64

Hợp tác xã … 1 1 1
Tư nhân … 2 2 2
Hộ gia đình
… 15 12 11

Hỗn hợp … 5 7 9
Doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài
… 26 33 41

Nguồn: Tổng cục thống kê.
1 Theo giá hiện hành; một vài số liệu có thể không khớp với tổng số do được làm tròn số.
Tỷ trọng của khu vực quốc doanh trong tổng sản lượng công nghiệp ít nhiều đã giảm
xuống trong những năm gần đây, trong khi tỷ trọng của các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tăng lên đáng kể.4, 5 Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm khoảng hai phần
năm sản lượng công nghiệp vào năm 2000, một phần phản ánh vai trò của họ trong ngành
khai thác khoáng sản.6 Từ năm 1997 đến 2000, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm của
sản lượng công nghiệp được tạo ra bởi khu vực ngoài quốc doanh là 26 phần trăm, hơn
gấp đôi của khu vực quốc doanh.

C. Sở hữu nhà nước ở Trung Quốc: So sánh
Trung Quốc ở vào tình trạng công nghiệp hoá nhiều hơn so với Việt Nam khi đất
nướcnày bắt đầu quá trình chuyển đổi; công nghiệp của Trung Quốc chiếm gần một nửa
GDP, so với công nghiệp Việt Nam chỉ vào khoảng một phần năm GDP.
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong khu vực công nghiệp Trung Quốc giảm dần
suốt thập niên 80 và giảm nhanh hơn trong thập niên 90. Phần lớn tăng trưởng công
nghiệp trong thập niên 80 là do các doanh nghiệp hợp tác xã;7 tổng tỷ trọng của các
doanh nghiệp sở hữu cá thể và doanh nghiệp sở hữu nước ngoài chiếm một tỷ lệ khiêm
tốn là 8 phần trăm sản lượng năm 1990. Cơ cấu động này đã thay đổi trong thập niên 90,
được hỗ trợ bởi tỷ lệ tăng trưởng cao, những nỗ lực tự do hoá và sự tiến hoá của môi
trường pháp lý và chính trị. Từ năm 1990 đến năm 2000, tỷ trọng khu vực tư nhân trong
sản lượng công nghiệp tăng từ 5 phần trăm tổng sản lượng lên 17 phần trăm, trong khi tỷ
trọng của khu vực sở hữu nước ngoài tăng vọt từ 3 phần trăm lên đến 24 phần trăm.
So với kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam đã dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước
ngoài ngay từ đầu quá trình chuyển đổi. Ứng với mức độ có hạn của công nghiệp hoá vào

buổi đầu chuyển đổi, Việt Nam có một nhu cầu to lớn hơn về công nghệ và vốn nước
ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua vào đầu thập niên 90 khuyến khích sự
thành lập các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; những doanh nghiệp này đã tăng trưởng
nhanh trong lĩnh vực khai thác khoáng sản (khai thác dầu khí) và công nghiệp chế tạo. Ở
Trung Quốc, các doanh nghiệp hợp tác xã ra đời sau những cuộc cải cách nông nghiệp
chiếm đại đa số hoạt động ngoài quốc doanh vào buổi đầu quá trình chuyển đổi, và trong
nhiều năm của hai mươi năm tiếp theo sau, một đặc điểm mà người ta không quan sát
thấy ở Việt Nam.
Trung Quốc: GDP theo khu vực, 1980-20011
1980 1990 1995 2001
Tổng số 100 100 100 100
Nông nghiệp 30 28 27 19
Công nghiệp 49 43 42 49

Dịch vụ 21 29 31 32
Nguồn: Cơ sở dữ liệu CEIC.
1 Theo giá hiện hành.
Trung Quốc: Tổng sản lượng công nghiệp theo sở hữu, 1980-20001
1980 1990 1995 2000

Tổng số 100 100 100 100
Sở hữu tập thể 21 36 38 33
Sở hữu cá thể 0 5 10 17
Sở hữu khác3 1 3 15 24
Nguồn: Cơ sở dữ liệu CEIC.
1 Theo giá hiện hành.
2 Sở hữu nhà nước hay nhà nước nằm cổ phần kiểm soát.
3 Công ty cổ phần và vốn nước ngoài.
Trung Quốc: Tỷ trọng việc làm, 1980-20011
1980 1990 1995 2001

Tổng số 100 100 100 100
Quốc doanh 76 61 59 32
Khu vực ngoài quốc doanh 24 39 41 68

Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc và Cơ sở dữ liệu CEIC.
1 Bao gồm tổng việc làm ở thành thị và nông thôn.
Ở Trung Quốc, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động ngoại thương giảm
đáng kể từ khi bắt đầu quá trình chuyển đổi. Trước đó, hoạt động ngoại thương của Trung
Quốc chỉ được thực hiện thông qua mười hai công ty thương mại thuộc sở hữu nhà nước.
Các công ty thương mại quốc doanh này được trao nhiều quyền tự chủ với một số lượng
ngày càng nhiều những doanh nghiệp khác được phép đại diện cho họ thực hiện các hoạt
động ngoại thương. Ở Việt Nam, độc quyền ngoại thương được trao cho những công ty
thương mại nhà nước đã giới hạn sự tham gia của những doanh nghiệp khác trong một số
hoạt động ngoại thương.
Một đặc điểm đáng kể của quá trình chuyển đổi ở Trung Quốc là sự chi phối của nhà
nước trong khu vực ngân hàng, một đặc điểm đã được lặp lại ở Việt Nam. Ở Trung Quốc,
bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn chiếm khoảng ba phần tư tài sản của hệ thống
ngân hàng, cũng giống như ở Việt Nam.
So với Trung Quốc, Việt Nam có thể ở vào vị thế tốt hơn để giải quyết tình trạng
dư thừa lao động. Ngay từ đầu quá trình cải cách, việc làm ở khu vực công nghiệp của
các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng khá lớn ở Trung Quốc do trình độ công nghiệp
hoá cao. Hệ quả là, những cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước được thực hiện vào cuối
thập niên 90 đã dẫn đến mức độ dư thừa lao động đáng kể. Ở Việt Nam, tỷ trọng khu vực
quốc doanh trong tổng việc làm tương đối thấp hơn, và tác động chung của tình trạng dư
thừa lao động của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường lao động có thể khá vừa phải,
giúp cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước được dễ dàng hơn.
D. Kết luận
Việt Nam đã đi theo một tiến trình chuyển đổi dần dần cơ cấu sở hữu của đất nước, một
chiều hướng có thể tiếp tục trong những năm sắp đến. Quá trình chuyển đổi này có thể
tăng tốc, cũng giống như Trung Quốc trong thập niên thứ hai của quá trình chuyển đổi,

nếu việc thực hiện các biện pháp đẩy mạnh phát triển khu vực tư nhân được tiến hành.
Những biện pháp đó bao gồm việc tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân được tiếp
cận với đất đai và vốn, và bãi bỏ những thủ tục hành chính và cấp giấy phép phức tạp.
—————–
1 Do Rania Al-Mashat thực hiện.
2 Phần lớn các con số sử dụng ở đây được suy ra từ số liệu do Tổng cục thống kê Việt
Nam cung cấp. Số liệu có những hạn chế đáng kể, đặc biệt là những số liệu liên quan đến
những năm trước đây.
3 Tình trạng số liệu khiến chúng tôi không thể phân tích chi tiết hơn về vai trò của sản
xuất quốc doanh trong nông nghiệp. Trước khi có chương trình cải cách, nông nghiệp
nhìn chung được hợp tác hoá; hiện nay sản xuất nông nghiệp chủ yếu nằm trong tay các
hộ gia đình cá thể.
4 Tỷ trọng của nhà nước trong GDP khu vực công nghiệp nhìn chung vẫn không thay đổi
từ năm 1900 đến 2000, trong khi tỷ trọng của nhà nước trong sản lượng công nghiệp lại
giảm xuống. Những chiều hướng khác biệt nhau này có thể được giải thích một phần
bằng những định nghĩa khác nhau về khu vực công nghiệp.
5 Luật Đầu tư nước ngoài (1987) qui định ba hình thức đầu tư cơ bản: công ty liên doanh
(thường bao gồm một đối tác là doanh nghiệp nhà nước), doanh nghiệp sở hữu nước
ngoài hoàn toàn, và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đối tác nước ngoài trong một công ty
liên doanh phải góp ít nhất 30 phần trăm vốn pháp định.

6 Nếu không tính đến khai thác khoáng sản trong sản lượng công nghiệp (chủ yếu là khai
thác dầu thô và khí thiên nhiên) sẽ làm giảm tỷ trọng của doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài còn 28 phần trăm năm 2000.
7 Vào đầu quá trình chuyển đổi, sự phân biệt giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp hợp tác xã ở Trung Quốc rất mập mờ. Doanh nghiệp hợp tác xã không do Nhà
nước quản lý, mà thuộc sở hữu chung của hợp tác xã, do đó được xem là thuộc sở hữu
tập thể (IMF 1993).


×