Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.86 KB, 28 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1.1. Những vấn đề chung về thị trường sức lao động.
1.1.1. Thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành thị trường sức
lao động.
1.1.1.1. Thị trường sức lao động.
Có rất nhiều khái niệm về thị trường sức lao động, mỗi khái niệm có
những đặc điểm riêng phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh, vị trí nhất
định của các tổ chức hoặc các nhà khoa học đưa ra.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường sức lao động là thị
trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình
để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”.
Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua
việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “ Thị trường mà đảm bảo việc làm cho
người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm thì được gọi là thị
trường sức lao động”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường sức lao động
được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội
(trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng
lao động”.
Theo một số nhà khoa học kinh tế Việt Nam thì khái niệm trên được phát
biểu: “Thị trường sức lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập
trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản
nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã
hội, tranh chấp lao động), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là
người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động”.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường sức lao động, do
cách tiếp cận khác nhau, song các quan điểm trên đều thống nhất với nhau về
nội dung cơ bản để tạo nên thị trường sức lao động đó là: không gian, địa điểm,
người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động và những


ràng buộc giữa các bên tham gia thị trường này.
Thực tế cho thấy, các quốc gia phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường có những xuất phát điểm khác nhau; có những đặc điểm về kinh tế,
chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, khác nhau về trình độ phát triển thị trường
sức lao động.
Mỗi nhà kinh tế có thể nghiên cứu thị trường sức lao động dưới những
góc độ riêng, nên nhận thức về thị trường sức lao động không đồng nhất. Vì
vậy, việc tồn tại những quan điểm khác nhau trong quá trình khám phá các quy
luật vận động của thị trường sức lao động là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, để hiểu thị trường sức lao động dưới góc độ bao quát nhất, cần
xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác. Theo C.Mác :‘‘ . . . Tư bản chỉ
phát sinh ở nơi nào mà người chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy
được người lao động tù do với tư cách là bán sức lao động của mình trên thị
trường’’.
‘‘Anh ta và những chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau
với tư cách là những người chủ hàng hóa bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở
chỗ người thì mua, còn người kia thì bán và vì thế cả hai đều là những người
bình đẳng về pháp lý’’.
‘‘Lĩnh vực lưu thông hàng hóa hay trao đổi hàng hóa, trong đó việc mua
và bán sức lao động được thực hiện là các địa đàng thực sự của những quyền tự
nhiên của con người. Ngự trị ở đây chỉ có quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu
...’’.
Như vậy, từ sự chỉ dẫn của C.Mác có thể rút ra một số luận điểm quan
trọng về thị trường sức lao động như sau :
- Thị trường sức lao động là thị trường đặc biệt của thị trường hàng hóa vì
hàng hóa đem ra trao đổi không phải là hàng hóa thông thường mà là hàng hóa
sức lao động.
- Quan hệ trao đổi không phải là quan hệ ‘‘mua đứt bán đoạn’’ mà được
thực hiện thông qua ký kết một văn bản hợp đồng.
- Nguyên tắc trao đổi và những quy luật chi phối trên thị trường sức lao

động không khác gì thị trường hàng hóa thông thường, đó là: tự do, bình đẳng
và ngang giá. Tự do vì người mua và người bán chỉ phục tùng ý chí của mình;
bình đẳng vì họ quan hệ với nhau như ‘‘những chủ sở hữu hàng hóa và trao đổi
vật ngang giá lấy vật ngang giá’’.
Từ đó có thể rút ra : Thị trường sức lao động là một thị trường hàng hoá,
là nơi diễn ra việc trao đổi mua bán hàng hoá sức lao động, người sử dụng và
người sở hữu sức lao động trao đổi với nhau thông qua một bản hợp đồng, trong
đó xác định quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể sở hữu và theo nguyên tắc
trao đổi ngang giá. Ở đây, giá cả của hàng hoá sức lao động biểu hiện dưới hình
thái tiền công và tiền công chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, trong đó
quan hệ cung và cầu lao động là cơ chế tác động trực tiếp tới sưc thay đổi của
tiền công.
Như vậy, trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ về việc làm, nó xác
định nội dung đích thực của thị trường sức lao động như thị trường việc làm.
Tóm lại, có thể quan niệm một cách chung nhất về thị trường sức lao
động như sau : ‘‘Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị
trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do
(người bán sức lao động) và một bên là người có nhu cầu sử dụng sức lao động
(người mua sức lao động). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở các mối
quan hệ như: tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội, ...
thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng’’.
1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến mối quan hệ giữa người có sức
lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng sức lao
động có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản xuất-kinh
doanh. Trên thị trường sức lao động, mức cung, cầu về sức lao động ảnh hưởng
tới tiền công lao động. Đối tượng tham gia thị trường sức lao động bao gồm:
những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng sức lao động và
những người có nhu cầu bán sức lao động có thể có việc làm và thu nhập.
Từ đó ta thấy: Thị trường sức lao động được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ

bản : cung, cầu và giá cả sức lao động. Ba yếu tố này có mối quan hệ tác động
lẫn nhau. Nói tới sự vận động, phát triển của thị trường sức lao động tức là nói
tới sự vận động, phát triển của các yếu tố cung, cầu, giá cả sức lao động và quan
hệ giữa chúng cả về quy mô, trình độ, cơ cấu và tính chất hoạt động .
*. Cung sức lao động.
Cung về sức lao động chính là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ
những người có khả năng lao động và có nhu cầu về việc làm, bao gồm cả
những người trong và ngoài độ tuổi lao động.
Cung sức lao động cần phải xem xét về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
- Về số lượng : Cung sức lao động thường được phân biệt thành 2 phạm
trù :
+ Cung thực tế về sức lao động : Gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi
trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung thực tế sức lao động
chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
+ Cung tiềm năng sức lao động : Bao gồm tất cả những người từ đủ 15
tuổi trở lên đang làm việc và những người đang thất nghiệp, những người trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc
nội trợ trong gia đình mình hoặc không có nhu cầu lao động và tình trạng khác.
- Về chất lượng : Cung sức lao động được thể hiện ở tình trạng sức khỏe,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, phẩm chất đạo
đức của người cung sức lao động trên thị trường.
- Về cơ cấu : Cung sức lao động thể hiện ở cơ cấu của người cung sức lao
động trên thị trường sức lao động xét theo độ tuổi, giới tính, trình độ nghề
nghiệp, khu vực, ngành, nghề, thành phần kinh tế.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến cung sức lao động :
+ Một là : Quy mô và tốc độ tăng dân số: Quy mô dân số là lượng tuyệt
đối về dân số trong phạm vi một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Khi quy mô
dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Hai là : Tỷ lệ dân số tham gia thị trường sức lao động, tức là tỷ lệ dân
số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường sức lao động. Khi tỷ lệ này tăng thì

cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Ba là, sự di cư lao động, đây là yếu tố có tác động tức thì đến cung sức
lao đông. Nó có thể làm tăng hoặc làm giảm đột ngột đối với cung sức lao động
ở vùng nhập cư và vùng xuất cư.
*. Cầu về sức lao động:
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một
địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp với những mức tiền công khác
nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng
thuê mướn lao động trên thị trường sức lao động.
Cầu về sức lao động được chia làm hai loại :
+ Cầu thực tế về sức lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng sức lao
động tại một thời điểm nhất định.
+ Cầu tiềm năng về sức lao động: là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ
làm việc có thể có sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo
việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và các
điều kiện khác.
Cầu tiềm năng về sức lao động = cầu thực tế về sức lao động + số chỗ
làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Giống như cung về sức lao đông, cầu về sức lao động cũng được xem xét
cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu:
- Về số lượng: Cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc
độ phát triển sản xuất, nếu năng xuất lao động xã hội không đổi và nó tỷ lệ
nghịch với năng xuất lao động xã hội, nếu quy mô sản xuất không đổi.
- Về chất lượng: Cầu về chất lượng lao động ngày một nâng cao trước sự
đòi hỏi của việc nâng cao năng xuất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng
khả năng cạnh tranh . . .
- Về cơ cấu: Cầu lao động cũng được xem xét theo các tiêu chí: lứa tuổi,
giới tính, ngành, nghề, thành phần kinh tế . . .
- Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu sức lao động:
+ Một là, phương thức tăng trưởng kinh tế được lựa chọn: nếu chính phủ

lựa chọn phương thức tăng trưởng kinh tế nhanh, nhờ vào vốn là chủ yếu thì cầu
lao động sẽ giảm và vốn khi được ưu tiên đầu tư vào ngành nào, vùng nào thì
ngành đó, vùng đó sẽ thu hút nhiều lao động hơn. Nếu chính phủ lựa chọn
phương thức tăng trưởng kinh tế dựa vào lao động là chủ yếu thì cầu lao động
sẽ tăng lên.
+ Hai là, Mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ: Việc làm là một vấn đề
luôn được chính phủ ở hầu hết các nước quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến
vấn đề an sinh xã hội. Việc làm luôn là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô
của các Chính phủ. Chính vì vậy, việc làm là vấn đề kinh tế xã hội có tính bức
xúc, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính tri-xã hội và
người lao động.
+ Ba là, kiểu và mức độ công nghiệp hoá lựa chọn: Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia. Dưới góc độ việc làm,
kiểu và mức độ công nghiệp hoá được lựa chọn có ảnh hưởng không nhỏ.
+ Bốn là, mục tiêu chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ: Ở các nước đang phát triển, thị trường sức lao động có đặc
điểm là lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn và tình trạng người
nông dân thiếu việc làm là phổ biến do thất nghiệp . . . Do đó, để tăng cầu lao
động ở khu vực nông thôn, Chính phủ cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ.
+ Năm là, cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và khuynh hướng tiêu
dùng của dân cư: Khi cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng thì cầu về sức lao động
để sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ đó cũng tăng lên và ngược lại.
Đồng thời, nếu khuynh hướng tiêu dùng của dân cư là sử dụng sản phẩm
làm từ công nghệ nhiều lao động thì cầu về sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
Ngoài ra, cầu về sức lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác
như: tình hình kinh tế, chính tri, xã hội (ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu
hẹp sản xuất, khuyến khích hay hạn chế đầu tư ...) ; yếu tố tiền công lao động
(khi tiền công lao động tăng lên cầu về sức lao động có xu hướng giảm và

ngược lại), và các yếu tố tạo ra việc làm như: đất đai, vốn, trình độ tổ chức quản
lý, tôn giáo, phong tục tập quán...
*. Giá cả sức lao động:
Tiền công là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức
lao động; cũng như các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động không
chỉ bị quy định bởi giá trị của nó, mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ cung -cầu
sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả sức lao động sẽ thấp hơn giá trị
sức lao động và ngược lại. Mối quan hệ cung-cầu trên thị trường sức lao động
sẽ dẫn đến việc xác định giá cả sức lao động.
*. Mối quan hệ giữa giá cả và cung -cầu trên thị trường sức lao động.
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động được thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa giữa giá cả và cung, cầu trên thị trường sức lao động.
Cung, cầu và giá cả sức lao động có mối quan hệ qua lại với nhau trên thị
trường sức lao động. Nếu cung phù hợp với cầu và cung-cầu điều chỉnh linh
hoạt theo tiền công thì thị trường sức lao động vận hành có hiệu quả, thất
nghiệp không xảy ra. Nếu mức cung cao hơn mức cầu thì lao động sẽ thừa, tiền
công giảm xuống và ngược lại. Mặt khác, quan hệ cung cầu về sức lao động
cũng được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Việc hạ giá hay tăng giá hàng
hoá sức lao động cũng tác động đến cung và cầu. Giá cả của sức lao động cũng
như ‘cái van’ điều chỉnh quan hệ cung, cầu sức lao động.
Cơ sở khách quan của những biến động trong mối quan hệ cung cầu và
giá cả sức lao động là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và giá trị hàng
hoá sức lao động. Ngoài ra, chúng còn chịu sự tác động của nhà nước thông qua
các chính sách kinh tế vĩ mô, như luật lao động, luật thuế thu nhập, chính sách
bảo hiểm xã hội, lương tối thiểu ...
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động tạo ra cạnh tranh mạnh mẽ
trên thị trường này : Đó là sự cạnh tranh giữa người mua (người thuê mướn sức
lao động) và người bán (người cung ứng sức lao động); giữa người mua với
người mua ... từ đó tác động đến việc hình thành giá cả sức lao động. Vì:
Thông qua tín hiệu giá cả, cả người mua và người bán đều theo đuổi tối

đa lợi ích kinh tế của mình, từ đó tác động đến giá cả, làm cho giá cả chuyển
động về vị trí cân bằng.
Cạnh tranh giữa người mua và người bán sức lao động diễn ra theo biến
động của cung cầu sức lao động trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu thì người
mua trả tiền công thấp hơn cho người lao động và họ dễ dàng thuê mướn được
nhân công. Ngược lại, khi cung nhỏ hơn cầu thì người bán đòi hỏi được trả mức
tiền công cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.
Cạnh tranh giữa người mua với người mua thường được diễn ra khi cung
sức lao động nhỏ hơn cầu sức lao động hoặc chất lượng cung sức lao động thấp
hơn chất lượng cầu sức lao động. Những người mua thường trả tiền công cao
hơn cho người lao động để thu hút, lôi kéo lao động về phía mình, nên dễ gây ra
sự biến động mạnh về di chuyển nhân công trên thị trường sức lao động.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh
tế thị trường.
1.1.2.1. Đặc điểm của thị trường sức lao động.
Hàng hóa sức lao động có những thuộc tính chung như những hàng hóa
thông thường khác, song nó cũng có những thuộc tính riêng mà chỉ hàng hóa
sức lao động mới có. Xuất phát từ những thuộc tính riêng của hàng hóa này mà
thị trường sức lao động có những đặc điểm cơ bản sau :
- Hàng hóa sức lao động không tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng. Trên thị trường sức lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ
từng phần khả năng lao động-sức lao động của người lao động, mà hoạt động
trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giữa người bán và người mua sức lao động có trách nhiệm phối hợp
hành động tương đối dài với nhau. Người lao động như một cá thể, có thể tự
kiểm soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện
mức độ trung thực khác nhau với chủ sử dụng lao động đã thuê họ. Người thuê
phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một
cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động một cách phù
hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội

khác.
- Thị trường sức lao động tồn tại một số cấu trúc thể chế loại đặc biệt (hệ
thống pháp luật phân nhánh, những chương trình kinh tế - xã hội, dịch vụ việc
làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp, v.v..) sinh ra
đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường sức lao động. Vì vậy, cần phải
thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ.
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính,
tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm
việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ
chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức
lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng, trả công phù
hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Trong trao đổi hàng hóa sức lao động có nhiều điểm khác so với trao
đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa
vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả
năng lao động được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định
trong hợp đồng hay thoả ước lao động tập thể. Quá trình trao đổi được tiếp tục
trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động, lao động
thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật
chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh
nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và
kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và
tiền lương, mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm
việc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không
khí làm việc trong tập thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê lao
động v.v….
1.1.2.2. Vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
- Trước hết, thị trường sức lao động đảm bảo việc làm cho dân số tích cực
kinh tế, kết nối họ vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận

được những thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân
mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Thị trường sức lao động dễ dàng
chuyển đổi người lao động sang chỗ làm việc thích hợp hơn với họ, nơi mà
thành quả lao động của họ có năng suất hơn và có cơ hội nhận được thu nhập
cao hơn.
- Thứ hai, thông qua thị trường sức lao động sẽ cung cấp đầy đủ những
thông tin cho cả người lao động và người thuê lao động về ngành nghề nào đang
cần, nơi nào đang dư thừa sức lao động, những người đang đi tìm kiếm việc làm
cần phải trang bị và bồi dưỡng những chuyên môn nghiệp vụ gì, phải mở rộng
những kiến thức và kỹ năng theo hướng nào để có thể nhận được việc làm theo
mong muốn. Từ đó cho thấy, thị trường sức lao động là nguồn thông tin rất
quan trọng và nó quan hệ chặt chẽ với tất cả các thị trường. Thông tin trên thị
trường sức lao động đem lại cơ sở cho cả người thuê lao động cũng như người
lao động để xây dựng kế hoạch hoạt động trong tương lai của họ. Người lao
động biết rõ rằng, giới chủ đòi hỏi ngày càng cao với người làm thuê trên thị
trường sức lao động.
- Thứ ba, cạnh tranh giữa những người lao động sẽ thúc đẩy mở rộng
vùng thợ chuyên nghiệp làm thuê, nâng cao chuyên môn và khả năng tổng hợp
của họ. Sự cạnh tranh của các ông chủ trên thị trường sức lao động sẽ bắt buộc
họ không chỉ duy trì mức lương đã đặt ra, mà còn tạo ra những môi trường làm
việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn những nhu cầu cần
thiết và đảm bảo những quan hệ qua lại bình thường trong tập thể lao động giữa
những người lao động, cũng như giữa lãnh đạo và nhân viên.
- Thứ tư, khi ký kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc trên văn bản
giữa người thuê lao động với người lao động, vấn đề được xem xét không chỉ
thoả thuận về mức lương và thời gian làm việc, mà còn cả chế độ nghỉ phép, chế
độ nâng lương, chế độ khen thưởng, ốm đau và cả bảo hiểm xã hội cộng với
những ưu đãi khác.
- Thứ năm, thị trường sức lao động đảm bảo việc phân chia và sắp xếp lại
dân số tích cực kinh tế trong trường hợp cải cách cấu trúc nền kinh tế hiện nay

ở Việt Nam. Vấn đề này đặc biệt quan trọng và khó khăn khi đất nước bước vào
thời kỳ mới; các doanh nghiệp chịu sự sắp xếp lại theo chiều hướng khác nhau:
sáp nhập, giải thể, liên kết, liên doanh, cổ phần hoá, cho thuê hoặc bán doanh
nghiệp, đã làm cho số người mất việc làm trong các doanh nghiệp nhà nước tới
hàng triệu người. Bên cạnh đó, sự cho phép hình thành và phát triển đa dạng các
loại hình sở hữu, nhiều doanh nghiệp mới ra đời đã giải quyết nhiều chỗ làm
việc mới cho người lao động và cả những người dôi dư từ khu vực nhà nước
trong nhiều năm qua. Tỷ trọng lao động trong các thành phần kinh tế, các ngành
nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi theo cơ cấu ngày càng hợp lý, uyển
chuyển, thích ứng và phù hợp với cấu trúc mới của nền kinh tế.
- Thứ sáu, thị trường sức lao động làm tăng tính cơ động của lao động
giữa các doanh nghiệp trong một ngành, giữa các ngành và các khu vực với
nhau. Trong thời kỳ đầu của cải cách kinh tế ở Việt Nam, dòng chuyển động
này vẫn chưa mang tính cơ động cao vì hàng loạt những nguyên nhân như tính ỷ
lại và trông chờ vào sự sắp xếp công việc của nhà nước là thói quen đã ăn sâu

×