Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.79 KB, 40 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG
CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG
SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
3.1. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.1. Những căn cứ xác định phương hướng phát triển thị trường
sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.1.1. Một số chủ trương, đường lối của Đảng.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ đường
lối về phát triển thị trường sức lao động như sau:
- Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn
kết cung-cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm:
+ Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là
ở khu vực nông thôn.
+ Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua
đào tạo nghề, lao động nông nghiệp.
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong
khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy công quyền.
+ Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống
thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới.
+ Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực
công nghệ và quản lý ở những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
+ Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động
nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động;
thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người
lao động và người sử dụng lao động.
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức:
+ Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực
với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỷ lệ lao động khu vực nông nghiệp còn
dưới 50% lực lượng lao động xã hội.


+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và
lãnh thổ. Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
+ Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở vùng
sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao
thông, các khu đô thị mới.
- Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao:
+ Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào
tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu vực công nghiệp, các vùng kinh
tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động.
+ Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các hình thức dạy nghề đa dạng,
linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề…
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, lập nghiệp.
+ Tổ chức dạy nghề, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ sản xuất phù hợp
cho nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động,
phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành.
3.1.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội thành phố Hải Phòng.
Căn cứ Văn kiện Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ
2006-2010, một số mục tiêu có liên quan tới vấn đề phát triển thị trường sức lao
động thành phố, giải quyết việc làm cho lao động thành phố được xác định như
sau:
- Phát triển kinh tế thành phố gắn với phát triển khoa học công nghệ, giáo
dục - đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh thực hiện “xã hội
hoá”, huy động mạnh mẽ các nguồn lực phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Nâng cao hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội trọng tâm, bảo đảm công bằng
xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo.
- Về lĩnh vực công nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng
tăng nhanh công nghiệp chế tác, nhất là các ngành công nghiệp, các sản phẩm

công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công
nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, tập trung vào các ngành công nghiệp
chủ lực có lợi thế, tiềm năng: đóng tàu, sản xuất thép, cơ khí, điện tử, hoá chất,
vật liệu xây dựng, chế biến thuỷ sản, dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng cao cấp.
Huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Phát triển các ngành
công nghiệp vừa và nhỏ, tạo được nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần giải
quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
- Về lĩnh vực dịch vụ: Phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm dịch vụ
hàng hải và vận tải biển lớn của Việt Nam; trung tâm giao dịch thông tin, bưu
chính viễn thông; trung tâm thương mại của vùng Bắc bộ và cả nước; trung tâm
đón nhận và phân phối khách quốc tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc
tiến du lịch. Bên cạnh đó, phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, ngân
hàng, kiểm toán; đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ
công.
- Về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: Phát triển sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá nông sản có chất lượng và hiệu
quả trên cơ sở phát triển nông nghiệp nhiệt đới, sinh thái và công nghệ cao với
sản xuất chuyên môn hoá quy mô lớn và trình độ ngày càng cao. Kinh tế nông
thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Hình thành các vùng sản xuất tập trung, thâm
canh gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm
thuỷ sản của vùng duyên hải Bắc bộ…
- Tiếp tục cải tiến cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư, tạo nhiều việc
làm cho người lao động, trong đó chú ý tăng lao động hoạt động trong các
ngành kinh tế biển, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực
nông thôn. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao
động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp. Đầu tư nâng cao cơ sở vật chất
và chất lượng giảng dạy của các cơ sở đào tạo nghề.
3.1.1.3. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác động của toàn cầu hoá đang tác động lên nhiều mặt của nền kinh tế-

xã hội nước ta, trong đó có tác động đến thị trường sức lao động. Do đó, cần
nhìn nhận rộng hơn, đặc biệt là những mặt khách quan, thuận lợi nhằm khai thác
và hạn chế các mặt tiêu cực, thách thức do tác động của toàn cầu hoá lên thị
trường sức lao động nước ta.
Những tác động của quá trình toàn cầu hoá đến thị trường sức lao động
Việt Nam, cụ thể là:
- Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta tăng. Các nhà kinh
tế, các chính trị gia đã khẳng định rằng, hội nhập kinh tế cho thấy quá trình này
thu hút nhiều lao động hơn so với mất việc làm.
- Đầu tư nước ngoài cũng có tác động đến sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước về thu hút lao động, tạo nên sự linh hoạt của thị trường sức
lao động.
- Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu đã phát huy được lợi thế của nước ta
trong những ngành nông nghiệp: nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, sản xuất và
chế biến lương thực, rau, hoa quả, hcăn nuôi, các loại cây công nghiệp… các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, dệt, da giầy, lắp ráp
xe máy, ti vi…
- Hội nhập cũng làm thay đổi cả tư duy và hành động của nước ta trong
hoạt động xuất khẩu lao động. Trước đây “hợp tác lao động” với các nước xã
hội chủ nghĩa được nhìn nhận và thay bằng cụm từ “xuất khẩu lao động” đã làm
chúng ta hiểu rõ cơ chế thị trường trong đó có hoạt động xuất khẩu lao động.
- Sự tham gia vào thị trường quốc tế đã bộc lộ những yếu kém của lao
động Việt Nam. Đó là thể lực, chất lượng lao động, trong đó kể cả văn hoá lao
động của người Việt Nam chưa cao. Quá trình trình toàn cầu hoá buộc Việt Nam
phải có một đội ngũ người lao động từ cán bộ quản lý, đến từng người công
nhân có trình độ, có năng lực, có phẩm chất trong việc làm. Phẩm chất của
người lao động không chỉ thuần tuý trong sản xuất kinh doanh mà còn phải hiểu
biết cả văn hoá, pháp luật trong làm việc và lối sống.
- Toàn cầu hoá kinh tế cũng tác động đến thị trường sức lao động do tạo
ra nhiều ngành nghề mới, nhưng đồng thời cũng tạo ra yếu tố tiêu cực trong đào

tạo nghề và “thị hiếu” không đúng “năng lực” của người lao động. Thương mại
hoá đào tạo, mất cân đối giữa các vùng, các ngành trong đào tạo. Phân bố lao
động không hợp lý giữa các ngành, các địa phương. Bố trí các nguồn lực, đặc
biệt là nguồn kinh phí từ ngân sách bình quân, hoặc tỷ lệ không hợp lý giữa các
cấp đào tạo, dẫn đến chất lượng đào tạo người lao động không cao.
3.1.2. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng
trong thời gian tới.
3.1.2.1. Những phương hướng chung để phát triển thị trường sức lao động ở
Hải Phòng:
*. Phát triển thị trường sức lao động dựa trên cơ sở tôn trọng sự vận
động theo quy luật khách quan của nó.
Thừa nhận nền kinh tế thị trường, tức là chúng ta phải thừa nhận có các
loại thị trường, đồng thời phải tôn trong những quy luật vận động của từng loại
thị trường, trong đó có thị trường sức lao động. Quán triệt phương hướng này,
trước hết là để thống nhất về mặt nhận thức. Do đó mọi tác động của nhà nước
đối với phát triển thị trường sức lao động là phải dựa trên quy luật của nó, tránh
hành động duy ý chí khi tác động vào thị trường này. Thực tế cho thấy, mặc dù
thị trường sức lao động ở Hải Phòng đã được thừa nhận về mặt pháp lý, song
những nhận thức cũ, những thành kiến và ảnh hưởng của tư duy cũ vẫn còn. Để
nhà nước tác động đẩy mạnh sự phát triển của thị trường sức lao động trên địa
bàn Hải Phòng trong thời gian tới thì cần phải tôn trọng sự vận hành khách quan
của loại thị trường này. Cụ thể là:
- Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thị trường sức lao động và thực sự
coi sức lao động là hàng hóa:
Thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng, Hải Phòng cùng với
cả nước chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển hướng này đã
làm cho các quan hệ lao động cũng chuyển hướng theo thị trường. Quan hệ thuê
mướn lao động tất yếu xuất hiện. Một số người có nhu cầu thuê mướn lao động
để sản xuất, đồng thời lại có một số người muốn bán sức lao động của mình. Có

người mua, có người bán. Người mua, người bán sức lao động gặp nhau. Sức
lao động trở thành hàng hóa. Ở nước ta, người lao động là người tự do, họ được
pháp luật thừa nhận quyền tự do về thân thể, quyền tự do học hành, đi lại, cư
trú, tự do lựa chọn công việc để làm, tự do sử dụng thành quả lao động của
mình, tự do thỏa thuận về tiền công, tiền lương với người sử dụng sức lao động
của mình. Chính những điều kiện trên đã tạo cho thị trường sức lao động ra đời
nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về sức lao động.
- Thừa nhận quy luật của thị trường sức lao động tức là thừa nhận các lực
lượng tham gia thị trường đó. Lực lượng tham gia thị trường sức lao động đó là
người bán sức lao động, người mua sức lao động, người môi giới và nhà nước
với tư cách là lực lượng quản lý, điều tiết thị trường sức lao động. Các lực
lượng này tham gia thị trường sức lao động dưới những giác độ khác nhau. Cụ
thể:
+ Lực lượng cung sức lao động: Là những người có khả năng lao động,
sẵn sàng tham gia vào thị trường sức lao động; luôn phải đáp ứng yêu cầu của
thị trường sức lao động về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đồng thời phải luôn chủ
động, linh hoạt thích nghi với quy luật vận động của thị trường sức lao động.
Đại diện cho lực lượng cung lao động là các tổ chức công đoàn. Đây là tổ
chức có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người
lao động; đại diện cho người lao động thương lượng với đại biểu của phía cầu
lao động trên thị trường sức lao động.
+ Lực lượng cầu sức lao động: Là những người cần thuê, mướn lao động.
Họ là lực lượng chủ động và tích cực nhất trên thị trường sức lao động, có vai
trò tạo việc làm và phát triển thị trường việc làm, không ngừng mở rộng cầu
lao động. Họ có quyền tự do tuyển chọn lao động, bố trí công việc và trả tiền
công; có quyền sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động theo
những quy định của pháp luật.
Đại diện cho lực lượng cầu lao động là các tổ chức do chính người sử
dụng lao động thành lập. Tổ chức này có nhiệm vụ bảo vệ quyền và những lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng lao động và thương lượng với đại

diện của lực lượng cung lao động là tổ chức công đoàn trên thị trường lao động.
+ Lực lượng môi giới trung gian: Là những người cung cấp thông tin, làm
cầu nối giữa cung và cầu lao động. Thông qua lực lượng này cung và cầu lao
động gặp nhau, từ đó phát sinh các quan hệ lao động, dịch chuyển cơ cấu, chất
lượng lao động.
+ Lực lượng quản lý, kiểm soát, điều tiết thị trường sức lao động: Đó
chính là nhà nước. Nhà nước có vai trò là người tạo khuôn khổ pháp lý, tạo
hành lang an toàn, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự vận hành của thị
trường sức lao động; quản lý, kiểm soát và điều tiết thị trường sức lao động cho
phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi địa phương cũng như toàn quốc. Đồng
thời nhà nước có vai trò giải quyết các khiếm khuyết của thị trường sức lao
động. Nhưng, sự can thiệp, điều tiết của nhà nước phải phù hợp với những quy
luật khách quan của thị trường, mặt khác phải rất linh hoạt, nhạy bén với sự
biến động của thị trường.
Như vậy, mỗi lực lượng tham gia thị trường sức lao động có vai trò, chức
năng và lợi ích riêng. Vấn đề là phải thừa nhận, tôn trọng và tạo điều kiện cho
các lực lượng đó tham gia thị trường sức lao động và thực hiện tốt vai trò, chức
năng của mình, không đề cao quá mức hoặc xem nhẹ một lực lượng nào.
- Phải thừa nhận và tôn trọng nguyên tắc trao đổi ngang giá trên thị
trường sức lao động, loại bỏ quan niệm lao động có nguy cơ bị bóc lột.
Theo ILO, bóc lột lao động chỉ có thể xuất hiện khi vị thế đàm phán của
hai bên tham gia thị trường (người mua và người bán sức lao động) không cân
xứng, thường là người lao động bị đặt vào thế yếu, thế bị động và họ không
được pháp luật bảo vệ.
Ở nước ta, Bộ luật lao động đã quy định rõ ràng và cụ thể về tính bình
đẳng và tự nguyện của hai lực lượng này (cung-cầu) khi tham gia đàm phán, ký
kết hợp đồng lao động. Quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên còn được các
luật hiện hành khác bảo vệ như Luật dân sự, Luật Công đoàn, Luật doanh
nghiệp. Ngoài ra, còn có sự điều tiết của nhà nước. Vì vậy, ở nước ta với hệ
thống luật pháp nhất quán, với vai trò điều tiết thị trường sức lao động của nhà

nước thì không thể xuất hiện tầng lớp người có đặc quyền bóc lột, cũng như
không thể có người cam chịu bị bóc lột.
Do đó, trên thị trường sức lao động, người bán và người mua bình đẳng
với nhau, việc mua bán được tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Nghĩa là
người mua không thể áp đặt mức tiền công và điều kiện làm việc buộc người
bán phải chấp thuận và ngược lại. Trên thị trường sức lao động, mức tiền công
được quy định bởi quan hệ cung-cầu và cạnh tranh về lao động tại thời điểm đó.
Nếu cung vượt quá cầu thì mức tiền công giảm và khi mức tiền công giảm thì
người sử dụng lao động lại muốn thuê thêm nhiều lao động hơn, tức là cầu lao
động tăng và do đó kéo theo mức tiền công tăng theo.
*. Phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng phải theo hướng
phục vụ việc xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là con đường hoàn toàn đúng đắn, mang tính khách quan đã được cả lý
luận và thực tiễn chứng minh.
Trên thị trường sức lao động, sức lao động đòi hỏi phải được coi là hàng
hóa thực sự, được mua bán với giá cả do giá trị sức lao động và cung-cầu sức
lao động trên thị trường quyết định. Nó thúc đẩy cạnh tranh tự do. Trước yêu
cầu của cạnh tranh, người lao động buộc phải không ngừng học tập, rèn luyện
để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, kỷ luật lao động, tác
phong công nghiệp, đồng thời buộc người mua phải sử dụng có hiệu quả sức lao
động.
Tuy nhiên, sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường thường dẫn tới
những hậu quả, những thất bại mà tự nó không thể khắc phục nổi. Cạnh tranh
bao giờ cũng có mặt trái. Nếu người lao động chạy theo những ngành nghề có
thu nhập cao trước mắt mà không hình dung được rằng, sau một chu kỳ, cung
lao động sẽ vượt cầu, khi đó tiền lương sẽ giảm xuống, hoặc người sử dụng lao
động vì mục tiêu lợi nhuận có thể gây sức ép về tiền công, điều kiện lao động và
thiếu tôn trọng nhân cách của người lao động. Bên cạnh đó còn có sự cạnh tranh
thiếu lành mạnh của các doanh nghiệp tranh giành lao động bằng những thủ

đoạn khác nhau …Cạnh tranh thiếu lành mạnh như vậy có thể dẫn tới sự vận
động kém hiệu quả của thị trường sức lao động. Do đó, để khắc phục tình trạng
này và để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường sức lao động, vấn đề tất
yếu phải có sự can thiệp của nhà nước.
Phát triển thị trường sức lao động theo hướng xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm công ăn việc làm bền
vững, giảm thất nghiệp và đói nghèo; phân bổ hợp lý nguồn lao động. Tạo điều
kiện để tái bố trí lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ, kích thích tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng lao động. Phát huy
tối đa năng lực của xã hội trong việc giải quyết việc làm, nhất là khu vực kinh tế
tư nhân, phát triển thị trường sức lao động theo vùng và phát triển hệ thống an
sinh xã hội để bảo vệ, che chắn người lao động khi gặp rủi ro trong cơ chế thị
trường.
*. Phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng theo hướng nhằm
khai thác, sử dụng hợp lý và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
thành phố nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển thị trường sức lao động phải góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng tích cực. Chuyển dịch cơ cấu lao động không thể tách rời việc
tối ưu hóa chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là hướng đi tất yếu của quá trình
chuyển từ một nền sản xuất nông nghiệp lên sản xuất lớn và là quy luật của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những nước có nền kinh tế lạc hậu, những
nước đang phát triển. Song, để tối ưu hóa chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn
với khai thác có hiệu quả mọi tiền năng về tự nhiên, con người, vốn …
Hải Phòng muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như
đã định thì đòi hỏi phải có hội tụ các điều kiện, tiền đề, trong đó điều kiện về
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng. Phải có đủ lực lượng cán bộ
khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Do đó, phát triển thị
trường sức lao động phải theo hướng khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh của thành phố, đặc biệt là tiềm năng lao động dồi dào nhằm đẩy
nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong quá trình khai thác, sử dụng và phát huy các tiềm năng, thế mạnh
của Hải Phòng cần phải phát triển toàn diện và bền vững. Phát triển toàn diện và
tăng trưởng bền vững với tốc độ cao nhưng phải đảm bảo giữ vững môi trường
sinh thái. Khắc phục tình trạng chạy theo tốc độ tăng trưởng nhanh trên cơ sở
khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội.
Như vậy, phát triển thị trường sức lao động phải hướng vào phục vụ đắc
lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phải gắn phát triển thị trường
sức lao động với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi đó là điều kiện đảm bảo
thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo phương hướng trên, việc phát triển thị trường sức lao động ở Hải
Phòng phải quan tâm cả hai phía cung và cầu lao động, phải giải quyết mối
quan hệ giữa cung và cầu về lao động với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Về phía cung: Quan tâm tăng quy mô và tốc độ đào tạo nghề hơn so với
đào tạo cao đẳng, đại học dưới nhiều hình thức. Tập trung nguồn lực để đào tạo
nghề cho người lao động, theo hướng tăng nhanh số lượng lao động có trình độ,
có tay nghề cao trong các ngành công nghiệp – dịch vụ. Tăng cường cho các
ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố, đồng thời nhanh chóng phổ cập
nghề nghiệp cho phần lớn lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn để có khả
năng đáp ứng yêu cầu của thị trường sức lao động và tự tạo việc làm. Áp dụng
mô hình đào tạo theo ba cấp độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề.
Mở rộng và đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề. Coi trọng việc nâng
cao chất lượng đào tạo nghề để người lao động có đủ năng lực và phẩm chất
nắm bắt và làm chủ công nghệ mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
- Về phía cầu: Phải đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo
điều kiện phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, trong đó chú trọng phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ; thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh để các doanh nghiệp
hiện đại hóa năng lực sản xuất kinh doanh. Qua đó, tăng thêm nhu cầu tuyển

dụng lao động.
Đồng thời, việc giải quyết mối quan hệ cung-cầu lao động không chỉ
nhằm thúc đẩy trực tiếp quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế mà còn phải
tính đến xuất khẩu ra nước ngoài. Phải coi trọng công tác xuất khẩu lao động,
nhất là vào các nước phát triển. Hướng này không chỉ nhằm giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập cho người lao động mà còn nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chuẩn bị lượng cung lao động cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
*. Phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng theo hướng gắn với
việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của kênh giao dịch trên thị
trường sức lao động.
Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của các kênh giao dịch trên thị
trường sức lao động (tổ chức giới thiệu việc làm, doanh nghiệp xuất khẩu lao
động, hệ thống thông tin thị trường sức lao động, sàn giao dịch việc làm) là làm
cầu nối trung gian giữa người sử dụng lao động và người lao động. Nó cung cấp
cho người lao động những yêu cầu của người sử dụng lao động về những lĩnh
vực cần tuyển lao động, những đòi hỏi về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, điều
kiện làm việc, mức tiền lương … Hơn nữa, trong các kênh giao dịch trên thị
trường sức lao động thì các trung tâm giới thiệu việc làm còn tham gia đào tạo
nghề cho người lao động. Do đó, nó có tác động nâng cao chất lượng cung lao
động. Khi chất lượng cung lao động tăng lên sẽ khuyến khích các nhà sản xuất
trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đòi hỏi về trình
độ chuyên môn, kỹ thuật đối với nhân công sẽ lại tăng lên. Điều đó tiếp tục thúc
đẩy nâng cao chất lượng cụng lao động nhưng đồng thời cho thấy sự thỏa mãn
về cầu lao động cũng tăng lên.
Vì vậy, chất lượng hoạt động của các kênh giao dịch trên thị trường sức
lao động càng được nâng cao thì càng góp phần làm cho thị trường sức lao động
vận hành thông suốt hơn và hoàn thiện hơn.
3.1.2.2. Phương hướng phát triển cho từng loại thị trường sức lao động cụ thể
của Hải Phòng:

*. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở khu vực nông
thôn.
Trên cơ sở xúc tiến công cuộc công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp
hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng mà thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá.
Thực hiện phương châm rời ruộng không rời làng, không làm nông
nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn; cần phát triển đa dạng công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp nông thôn trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận
dụng công nghệ truyền thống, chú trọng những công nghệ tạo nhiều việc làm.
Các cơ sở phục vụ xuất khẩu cần nhanh chóng áp dụng công nghệ hiện đại để
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Bảo đảm thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
hộ nông dân. Các hộ gia đình nông dân có ruộng đất được quyền sử dụng lâu
dài, được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp theo những
điều kiện cụ thể do pháp luật quy định nhằm khuyến khích sử dụng và phát triển
quỹ đất có hiệu quả, làm cho đất đai ngày càng màu mỡ, bảo đảm giữ ổn định
chính trị xã hội trong nông thôn, thực hiện công bằng xã hội, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đã định.
Chính sách kinh tế trong khu vực nông thôn cần gắn sự chuyển dịch cơ
cấu lao động với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn từng địa phương.
Để đạt được mục tiêu về kinh tế xã hội đã định có nhiều điểm cần phấn đấu.
Trong đó, có hai điểm chủ yếu nhất là đổi mới cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ cấu
lao động xã hội. Hai loại cơ cấu này có quan hệ mật thiết với nhau, cái nọ là tiền
đề, điều kiện của cái kia. Đòi hỏi khách quan là mỗi địa phương lập ra được bức
tranh tổng quát về xây dựng và phát triển nông thôn, mấu chốt là chuyển đổi cơ
cấu lao động nông nghiệp.
Phương hướng chính là cải biến cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản
phẩm trong nước do khu vực này tạo ra. Đó chính là con đường để mở mang cơ

cấu phát triển cầu về lao động một cách vững chắc. Chuyển dần lao động nông
nghiệp sang làm các hoạt động ngành nghề và dịch vụ mà chủ yếu là các hoạt
động sơ chế nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống,
sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa cơ khí nhỏ, dịch vụ một số khâu canh tác,
dịch vụ đầu vào đầu ra cho sản xuất nông nghiệp hộ gia đình, dịch vụ đời sống,
văn hoá… cho lao động nông thôn. Trong nội bộ ngành nông nghiệp phải cải
biến mạnh hơn cơ cấu sản xuất, chuyển một phần lao động trồng cây lương thực
sang chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản phát triển cây công nghiệp rau quả và
các cây khác có giá trị kinh tế cao.
Kết hợp chuyển dịch phân công lại lao động tại chỗ với việc di dân giữa
các vùng và tiểu vùng thông qua các dự án phát triển vùng kinh tế mới và sự
hình thành các cơ sở hoặc trung tâm chế biến công nghiệp, dịch vụ với quy mô
vừa trên địa bàn các huyện, xã để tạo nên sự phân công hợp lý trên phạm vi toàn
thành phố.
Trong nhiều khả năng phân công lại lao động nông thôn thì phân công lại
lao động tại chỗ là chủ yếu, thông qua đổi mới cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ
cấu trồng trọt, chăn nuôi, phát triển và mở rộng các hoạt động ngành nghề, sản
xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống và các hoạt động dịch vụ nông thôn phù
hợp với yêu cầu sản xuất, đời sống. Lấy đơn vị kinh tế hộ gia đình và doanh
nghiệp tư nhân làm hạt nhân nòng cốt trong việc tổ chức và phân công lại lao
động nông thôn đến năm 2010. Thay đổi cơ cấu quỹ thời gian lao động của từng
cá nhân, của các thành viên trong hộ gia đình, của từng thôn xóm, phát triển các
ngành nghề. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi về mặt
pháp chế, chính sách, vốn cũng như cơ sở hạ tầng cần thiết.
Sự chuyên môn hoá của các hộ gia đình nông thôn sẽ được thúc đẩy
nhanh chóng một khi nó hướng vào phục vụ ngay cho nhu cầu sản xuất và sinh
hoạt, trước hết là của người dân ở nông thôn.
Việc giải phóng lực lượng lao động cho các hộ nông dân cùng với sự
quan tâm, hỗ trợ về nhiều mặt của Nhà nước và các cấp, các ngành, các hiệp hội
cũng như của cộng đồng đã tác động tích cực đến việc khai thác tiềm năng lao

động, vốn liếng trong dân, đất đai… đã và đang mang lại cho nhiều gia đình và
xã hội những nguồn lợi kinh tế quan trọng, góp phần phát triển thị trường sức
lao động tại chỗ trong nông thôn.
*. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở khu vực thành
thị.
Quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường sức lao động thành thị ngày
càng căng thẳng, song lại luôn được điều chỉnh để thích nghi. Việc điều chỉnh
vừa có tính tự phát, vừa tự giác được thực hiện thông qua sự di chuyển của các
dòng lao động. Cùng với dòng lao động đang tìm kiếm việc làm (từ những
người dôi ra do sắp xếp lại tổ chức sản xuất và lao động, từ những thôi học, từ
lực lượng vũ trang hoàn thành nghĩa vụ…) là dòng thu hút lao động (nhất là lao
động có tay nghề cao) của các thành phần kinh tế trong nước và các đơn đặt
hàng thuê mướn lao động của nước ngoài.
Để làm cho hai dòng lao động nói trên thường xuyên gặp nhau, giải quyết
được quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường cần đặc biệt coi trọng phát
triển kinh tế nhiều thành phần và phát triển kinh tế đối ngoại bảo đảm cho mọi
người, mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu được tự do kinh tế
theo pháp luật, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi, đồng thời hướng dẫn, hỗ
trợ cho các nỗ lực đầu tư phát triển. Thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài để tăng
trưởng kinh tế, tạo ra động lực thúc đẩy từ bên trong là mục tiêu quan trọng và
chủ yếu của chính sách phát triển kinh tế.
So với nông thôn, các thành phần kinh tế ở thành thị có điều kiện phát
triển hơn. Cùng với việc tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư của nước ngoài, Hải
Phòng cần có những chính sách để động viên mạnh nguồn vốn trong dân. Nổi
bật là chính sách đầu tư, thuê mướn lao động, xuất khẩu lao động, phát triển
kinh tế quy mô nhỏ, khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, chính
sách tín dụng, tạo vốn, tư do kinh doanh, dịch vụ môi giới việc làm, chính sách
đô thị, bảo trợ để phát triển công nghệ mới, chính sách về thu, hải quan, đầu tư
cơ sở hạn tầng, cính sách di dân. Một vấn đề có tính nguyên tắc là chỉ có thể
phát triển được thị trường sức lao động ở khu vực thành thị khi sản xuất ở nông

thôn phát triển và người nông dân có thu nhập khá, nhu cầu tiêu dùng của người
nông dân tăng lên. Nếu chỉ chú trọng tới đầu tư phát triển đô thị, coi nhẹ nông
thôn thì sẽ dẫn tới nguy cơ đô thị hoá giả tạo, ồ ạt, phá hỏng các chương trình
phát triển kinh tế xã hội.
Việc lựa chọn, phát triển ngành kinh tế hơp lý có tác dụng tích cực đến
việc giải quyết mâu thuẫn về quan hệ cung cầu, giảm bớt sức ép cung lao động
ở thành thị. Ngoài công nghiệp, xây dựng ra cần chú ý phát triển dịch vụ, làm
cho các khu vực thành thị không phải chỉ là nơi sản xuất mà còn là thị trường
trao đổi hàng hoá, là nơi đáp ứng tốt các nhu cầu dịch vụ phục vụ sản xuất và
đời sống cho cả thành thị và các vùng nông thôn phụ cận.
Trong quản lý đô thị cần có các chính sách và biện pháp để biến kinh tế
ngầm thành kinh tế nổi (có đăng ký kinh doanh, có mặt bằng mở cửa hàng sản
xuất, buôn bán dịch vụ). Đặc biệt ở khu nội vực thành, nội thị cần có quy hoạch
hoàn chỉnh sao cho có thể tạo điều kiện tốt cho các loại hình sản xuất, dịch vụ
phát triển theo từng tuyến phố, tuyến đường.
Thực hiện chế độ đăng ký hộ khẩu linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội tạo điều kiện sử dụng lao động trong khu vực nội thành, nội thị được
tốt hơn. Việc quản lý hộ khẩu quá nghiêm ngặt, khắt khê nhiều lúc sẽ gây ảnh
hưởng kìm hãm phát triển kinh tế đô thị, làm giảm khả năng giải quyết việc làm
đầy đủ và có hiệu quả cho người lao động ở thành thị lẫn nông thôn.
Sự ra đời và phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm ở thành thị có tác
dụng to lớn, không chỉ là cầu nối giữa cung và cầu lao động mà còn là công cụ
để tổ chức thị trường sức lao động, làm cho cung và cầu lao động phù hơp hơn.
Việc đầu tư phát triển các hoạt động dịch vụ về việc làm, bằng việc đào
tạo nghề giúp người lao động tự tạo việc làm cũng cần được quan tâm kịp thời
của nhà nước từ cấp Trung ương đến địa phương. Để giải quyết quan hệ cung -
cầu lao động đang còn quá gay gắt hiện nay ở khu vực thành thị, Thành phố cần
coi trọng phát triển hơp lý các doanh nghiệp nhỏ (cơ khí, đồ gỗ, đồ da, chế biến
nông sản, trường hoa…); kinh doanh buôn bán (xe máy, đồ điện, vàng bạc, hàng
tạp phẩm…); dịch vụ (sửa chữa cơ khí, điện tử, điện lạnh, may mặc, dịch vụ ăn

uống, cắt tóc…).
Hải Phòng cần có sự tập trung nghiên cứu, đề ra các chính sách để ngày
càng hỗ trợ tốt hơn nhằm hướng các doanh nghiệp nhỏ phát triển đúng hướng và
tích cực như:
- Tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp được vay vốn theo hệ thống
ngân hàng Nhà nước với thủ tục đơn giản, lãi suất hợp lý.

×