Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại đội trong đảng bộ quân đội nhân dân việt nam giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.97 KB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành
lập ở các đại đội, có nhiệm vụ lãnh đạo mọi mặt hoạt động của đại đội, nhằm
xây dựng đại đội vững mạnh tồn diện, có sức chiến đấu cao. Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại đội quyết định đến kết quả thực hiện
nhiệm vụ của đại đội. Vì vậy, chi bộ đại đội có năng lực lãnh đạo tốt, có sức
chiến đấu cao thì mới lãnh đạo đại đội hồn thành tốt các nhiệm vụ được giao
và ngược lại, chi bộ có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu kém thì khơng thể
lãnh đạo đại đội hoàn thành thắng lợi được nhiệm vụ.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đặt dưới sự lãnh đạo “trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt” của Đảng cộng sản
Việt Nam, là lực lượng chính trị tin cậy, cơng cụ bạo lực sắc bén của Đảng và
Nhà nước có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững
ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm
mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù.
Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi
bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Vì vậy, muốn xây dựng Đảng bộ Quân đội trong
sạch, vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh tồn
diện, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó thì trước hết phải xây dựng các chi
bộ đại đội có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, sẵn sàng đáp ứng mọi
yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam được thành
lập ở các đại đội thuộc tiểu đoàn và các đại đội trực thuộc trung đoàn trong


2


tồn qn, có vị trí, vai trị hết sức quan trọng; là nơi quán triệt và lãnh đạo
thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, nhiệm vụ của Quân
đội, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; là nơi đề ra chủ trương, biện pháp lãnh
đạo sát đúng với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị; là nơi trực tiếp giáo dục, rèn
luyện đảng viên, phân công và kiểm tra công tác của đảng viên, làm công tác
phát triển đảng viên mới...,chất lượng của chi bộ đại đội có ảnh hưởng trực
tiếp tới nhiệm vụ của đại đội. Vì vậy, xây dựng các đảng bộ trung đồn, sư
đồn, quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng cho đến toàn quân trong sạch
vững mạnh, nhất thiết phải bắt đầu từ việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các chi bộ đại đội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với cách mạng nước ta hiện nay, vấn đề xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có việc rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư là rất quan trọng, vừa mang tính khoa học vừa là u
cầu của cuộc sống, vừa có tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài.
Hiện nay, cách mạng Việt Nam đang ở vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020, nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ năm 2007
đến nay, cả nước đang tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Vì vậy, Qn đội nhân dân Việt Nam hơn
lúc nào hết càng phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng
của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhận thức rõ hơn ý nghĩa của
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng
như tính chất khó khăn, phức tạp của cơng tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đứng trước tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức
tạp, chứa đựng cả thuận lợi và thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi
Quân đội nhân dân Việt Nam phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ



3
chức, có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao thì mới đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy, việc xây dựng chi bộ
đại đội trong sạch vững mạnh, làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề vừa có tính
cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài.
Trong những năm qua, Đảng ủy các cấp trong Quân đội đã rất quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ
đại đội trong toàn quân dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuyệt đại đa số
các chi bộ đều có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu tốt, đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong mọi tình huống, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
so với yêu cầu nhiệm vụ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ
đại đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh có mặt chưa đáp ứng, cịn có những yếu
kém bất cập cần phải khắc phục, nhất là công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam
giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài luận
văn thạc sĩ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở
đảng, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là vấn đề quan trọng
thu hút được nhiều người quan tâm, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều
góc độ khác nhau. Có những cơng trình nghiên cứu tồn bộ nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, về tổ chức cơ sở đảng, có cơng trình nghiên
cứu ở khía cạnh nhỏ của vấn đề về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi
bộ. Các cơng trình nghiên cứu đó đã đạt được kết quả khác nhau: có cơng
trình nghiên cứu đã được in thành sách, tài liệu để phục vụ cho nghiên cứu,
học tập, có cơng trình nghiên cứu dưới dạng chun đề, tạp chí, có một số



4
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài đăng trên kỷ yếu hội thảo khoa học.
Tất cả các cơng trình nghiên cứu của các tác giả dù đạt ở mức độ nào cũng
đều chứng tỏ rằng, vấn đề xây dựng Đảng, vấn đề về năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ đảng đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người và rất
cần sự tham gia đóng góp ý kiến quý báu của tất cả bạn đọc để giúp Đảng,
Nhà nước, Quân đội có được những chủ trương đúng đắn trong chỉ đạo xây
dựng chi bộ, xây dựng chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ của đất nước hiện nay.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu được in thành sách của một số nhà
khoa học trong nước như:
Đinh Xn Lý, Tìm hiểu vai trị lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
Mạch Quang Thắng, Đảng Cộng sản Việt Nam - Những vấn đề cơ bản
về xây dựng Đảng. Nxb Lao động, Hà Nội, 2007.
Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh, Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb Lao động. Hà Nội, 2001.
Đây là các cơng trình có tính chất lý luận cơ bản về xây dựng Đảng nói
chung và đã phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu học tập ở các nhà trường
trong và ngoài quân đội.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII
về Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội, phát
huy sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nền quốc phịng tồn dân vững
mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nghị quyết số 147 - NQ/ĐU (Ngày 4 - 4 - 2008) của Đảng ủy Quân
sự Trung ương về Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ



5
chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội
giai đoạn mới.
Đây là những cơng trình mang tầm cỡ chiến lược, chiến dịch để chỉ đạo
xây dựng Đảng bộ trong Quân đội, trên cơ sở đó các đơn vị thuộc quyền quán
triệt và thực hiện nghiêm túc. Các nghị quyết này chỉ đánh giá về năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội và tổ chức cơ sở đảng nói
chung trong Quân đội cũng như chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
Quân đội thời gian qua. Từ đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Qn đội thời gian tới.
Ngồi ra cịn một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ như:
Hoàng Bằng, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp quốc phòng trong giai đoạn hiện nay,
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2004.
Đàm Thiện Cầu, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ ở các
bản thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2006.
Mã Điền Cư, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã
có đồng bào Chăm ở các tỉnh Duyên Hải Miền Trung giai đoạn hiện nay, luận
văn thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2006.
Hoàng Văn Đồng, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ở Đồn biên phòng tuyến biên giới đất liền Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2005.
Nguyễn Minh Hạnh, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các đảng bộ phường ở Quận 11 Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay,
luận văn thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2005.
Nguyễn Hữu Nam, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ

sở đảng trong các cơng ty cổ phần trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2008.


6
Nguyễn Văn Nghĩa, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Trung đồn tên lửa phịng khơng trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ
chuyên ngành xây dựng Đảng, năm 2000.
Nguyễn Văn Quý, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức đảng trong doanh nghiệp ở các khu chế xuất và công nghiệp Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng, năm 2005.
Huỳnh Ngọc Thành, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các chi bộ ấp ở Huyện Hóc Mơn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực
trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, năm 2005.
Nguyễn Thị Thủy, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
vào xây dựng Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh
học, năm 2007.
Nguyễn Thị Lương Uyên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Bắc
Giang giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, năm 2007...
Những luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ trên đây đều bàn đến năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tuy nhiên phạm vi đề cập
mới chỉ dừng lại ở các đảng bộ phường, quận, trong các doanh nghiệp, nhà
trường chứ chưa đề cập đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại
đội trong Đảng bộ Qn đội.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của chi bộ, đảng bộ dưới nhiều góc độ khác nhau...Song chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam. Chính
vì lý do đó, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công
bố, nhất là những vấn đề lý luận chung về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu


7
của chi bộ để làm luận văn của mình. Tơi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng Đảng, nhất là vấn đề năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu để vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng, về công tác xây dựng chi bộ vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội, nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Muốn đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần tập trung vào
những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vị trí, vai trị của chi bộ đảng nói chung theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Làm rõ nhiệm vụ lãnh đạo, sức chiến đấu và yêu cầu nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội
nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đánh giá đúng thực trạng năng lực lãnh dạo và sức chiến đấu của các
chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng và một số giải pháp nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội
nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao năng lực lãnh đạo sức và chiến đấu của các chi bộ đại đội
trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh.


8
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian từ 2005 đến nay.
- Luận văn nghiên cứu chủ yếu là loại hình chi bộ đại đội trong Đảng bộ
Quân đội, trong đó tập trung vào các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ huấn luyện
và sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước, nhiệm vụ của Quân đội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, tác giả sử dụng một số phương pháp như:
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử
kết hợp với phương pháp lơgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh,
tổng kết thực tiễn...
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng Đảng, về xây
dựng chi bộ, luận văn nêu lên thực trạng, chất lượng năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam và đưa
ra một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,

giảng dậy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn có thể góp phần cung cấp luận chứng về cơ sở lý luận và thực
tiễn cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân
đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.


9
Chương 1
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ
ĐẠI ĐỘI TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ
SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ ĐẠI ĐỘI TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM

1.1.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ
đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1.1. Vị trí, vai trị, của đại đội và chi bộ đại đội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh
Đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam là những phân đội thường
được thành lập bởi ba trung đội. Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, biên chế của
tiểu đoàn hoặc đại đội độc lập trong các trung đoàn, lữ đoàn ... Như các đại
đội bộ binh, đại đội pháo binh, đại đội phịng khơng, đại đội thơng tin, đại đội
trinh sát...
Tóm lại, đó là những đại đội chiến đấu hoặc đại đội phục vụ chiến đấu
trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vị trí đặc biệt quan
trọng. Đại đội là những thành viên chủ yếu tạo nên đơn vị cơ sở trong Quân
đội. Đó là nơi trực tiếp giáo dục quán triệt và tổ chức thực hiện mọi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị
quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và nhiệm vụ của Quân đội. Đó là nơi
trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện bộ đội, nơi cung cấp những quần chúng
ưu tú để chi bộ lựa chọn cử đi đào tạo để trở thành những cán bộ sĩ quan
trong Quân đội.


10
Đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam là những đơn vị thực hiện
nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, được biên
chế đủ quân, có đủ đội ngũ cán bộ đại đội và trung đội là những sĩ quan trẻ có
quân hàm thiếu uý đến đại uý. Đó là những cán bộ sơ cấp, trung cấp phục vụ
lâu dài trong Quân đội. Đại đội trong Qn đội nhân dân Việt Nam cịn có đội
ngũ hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ theo Luật nghĩa vụ quân sự.
Ở các đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam thường
thành lập chi bộ (phần lớn là chi bộ có chi uỷ), thành lập chi đồn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội đồng quân nhân và Ban chỉ huy đại đội.
Trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, ở bất cứ lĩnh vực nào, chi bộ nói
chung và chi bộ đại đội trong Đảng bộ qn đội nói riêng ln có vị trí, vai
trị đặc bệt quan trọng. Đó là tổ chức tế bào cơ bản của Đảng. Ngay từ buổi
đầu đề xuất tư tưởng xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề ra việc xây dựng hệ thống tổ chức từ dưới lên, từ
chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ đến cơ quan lãnh đạo cao nhất là Ban Chấp hành
Trung ương. Các ông đã đánh giá rất cao vị trí, vai trị của chi bộ, coi đó là
những tổ chức nền tảng, những tế bào cơ bản cấu thành tổ chức Đảng. Trong
Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen xác định
chi bộ là cấp thấp nhất, cấp cơ sở của Liên đoàn, Mác viết: “Liên đoàn gồm chi

bộ, khu bộ, tổng bộ, có Ban Chấp hành Trung ương và có đại hội” [41, tr.414].
Trong điều kiện giai cấp tư sản phản động tìm mọi cách tiêu diệt những
người cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân phải
xây dựng một chính đảng có tổ chức thống nhất, độc lập, phải biến mỗi chi
bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp cơng nhân,
các chi bộ của Liên đồn được thành lập dưới hình thức các hiệp hội bí mật
trong các hiệp hội công nhân, và đã thực sự trở thành nền tảng của Liên đoàn
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong giai cấp cơng nhân. Nhờ đó, Liên đồn
ngày càng lớn mạnh và phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ.


11
Sau này, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống các xu
hướng tư tưởng vơ chính phủ, V.I.Lênin đã lĩnh hội, kế thừa và phát triển quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen vào việc tổ chức, xây dựng chính đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Trước Cách mạng tháng Mười (1917), V.I.Lênin
đã xác định; Đảng Bơnsêvích phải thiết lập các nhóm những nhà cách mạng
cơng nhân trong các nhà máy, công xưởng làm cơ sở và phải tổ chức, huấn
luyện họ trở thành hạt nhân, là người lãnh đạo phong trào công nhân trong các
nhà máy, công xưởng. Người viết:
Việc tổ chức các cơ quan Trung ương của Đảng, việc xuất bản
bí mật, thì thường xun chủ yếu là những chi bộ ở các địa phương
và nhất là các nhà máy, dưới sự lãnh đạo của các phần tử tiên tiến
xuất thân từ công nhân và sống sát quần chúng. Đó là cơ sở trên đó
chúng ta xây dựng được hạt nhân vững chắc và khơng gì lay chuyển
nổi của phong trào công nhân và dân chủ xã hội [34, tr.8].
Khi Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi, Đảng Bơnsêvích
trở thành đảng cầm quyền và đảm nhận vai trị lãnh đạo tồn bộ hệ thống
chính trị trên đất nước Xô viết, hệ thống tổ chức đảng ở cơ sở với các chi bộ
đảng cộng sản cấu thành, các chi bộ không chỉ được thành lập ở cơng xưởng,

nhà máy mà cịn được thành lập ở nông thôn, và trong các đơn vị khác của hệ
thống chính trị - xã hội, thơng qua đó các chi bộ đã thể hiện rõ hơn vị trí, vai
trị lãnh đạo và tổ chức quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Xô viết
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã viết:
Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương
Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ
động, tun truyền cơng tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần
chúng lao động, những chi bộ ấy phải thơng qua cơng tác mn
hình, mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng viên,
giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [35, tr.232-233].


12
Theo V.I.Lênin, các chi bộ cơ sở đảng được coi là những pháo đài của
Đảng, bởi thông qua các chi bộ, thơng qua đội ngũ đảng viên thì các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mới thấm
nhuần được vào quần chúng, mới biến thành phong trào cách mạng của quần
chúng, thành sức mạnh thật sự của cách mạng. Nhờ đó, các chi bộ đảng, các
đảng viên thực sự “đem hết sức lực, đem hết nhiệt tâm để tạo ra, để phát huy
tính chủ động lớn hơn ở cơ sở” [35, tr.279]. Sau này, V.I.Lênin đã khái quát và
khẳng định chi bộ là cơ sở của Đảng theo những loại hình phù hợp có vai trò
chức năng là điểm tựa, là hạt nhân và người lãnh đạo của Đảng, là cầu nối
giữa Đảng với quần chúng, bằng nhiều hình thức hoạt động phong phú, nhiều
biện pháp sáng tạo, các chi bộ đã nâng cao uy tín của Đảng, thể hiện rõ vai trị
của tổ chức cơ sở đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của cách mạng.
Như vậy, theo quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin,
vai trò hạt nhân chính trị, nền móng của tổ chức cơ sở đảng được đặt trong hai
loại quan hệ có quy mơ khác nhau. Trong quan hệ đối với bản thân Đảng, tổ
chức cơ sở là toàn bộ các cơ sở của tổ chức đảng, cũng là cơ sở để triển khai

toàn bộ hoạt động của Đảng. Còn trong phạm vị xã hội, tổ chức cơ sở đảng là
hạt nhân chính trị của quần chúng, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng và là
chỗ dựa tin cậy của quần chúng.
Những quan điểm trên của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là những
cơ sở về lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng vào điều
kiện thực tiễn Việt Nam để cho ra đời một Đảng Cộng sản - đội tiền phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Từ
sau khi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần
phải xúc tiến công tác tuyên truyền và tổ chức mới có thể thúc đẩy được
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Cuối năm
1924, nhận quyết định của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Người tới
Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, công việc đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc


13
là mở lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên Việt Nam (1925). Tháng 6 năm
1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tháng 7 năm
1925, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức do Nguyễn Ái Quốc cùng với một
số đồng chí Trung Quốc chủ trương tổ chức được chính thức thành lập. Đây
chính là cơ sở cho việc thành lập Đảng sau này. Để lãnh đạo cách mạng, theo
Hồ Chí Minh - trước hết phải có Đảng cách mạng, điều này đã được Người chỉ
rõ trong Đường Cách mệnh (1927), Người đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết
phải có cái gì?”. Và Người đã tự trả lời:
Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ
chức quần chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy [42, tr.267-268].
Theo Hồ Chí Minh, để tuyên truyền được lý luận chủ nghĩa Mác Lênin sâu rộng trong quần chúng nhân dân thì phải thơng qua các tổ chức của
Đảng, mà tiền thân là chi bộ, là đội ngũ đảng viên. Vì vậy, ngay trong Đường
cách mệnh Người đã u cầu:

Qn lính thì có đội ngũ. Thợ thuyền phải có tiểu tổ, chi bộ…
mỗi nhà máy phải có một chi bộ. Trong mỗi chi bộ lại chia làm mấy
tiểu tổ; mỗi chi bộ phải cử 3 hoặc 5 người làm ủy viên… Có thứ tự
như thế thì trong hội có mấy mươi vạn người chỉ huy cũng dễ, và
hành động cũng nhất trí [42, tr.305].
Khi quan niệm về chi bộ, trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953),
Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học,
đường phố, nông thôn, đại đội - có 3 đảng viên trở nên thì lập một chi
bộ. Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng. Mỗi chi
bộ có thể chia làm mấy tiểu tổ, để công tác cho dễ [46, tr.243].
Là người ln nắm chắc các ngun lý mácxít về xây dựng Đảng, Hồ
Chí Minh ln quan niệm một cách đúng đắn về vị trí của chi bộ. Trong suốt


14
q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người ln khẳng định: Đảng không
phải là tổ chức để làm quan, phát tài. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ
chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức
của Đảng từ trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao, sức
mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó chi bộ là gốc rễ, là nền
tảng của Đảng: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi
chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không
ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc khơng trơi chảy” [50, tr.161].
Từ việc xác định rõ vị trí, vai trị của chi bộ đảng, xác định rõ vai trò
lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính nên trong suốt q trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh ln chủ động, sáng tạo ra những hình thức
tổ chức của chi bộ cho phù hợp với đặc điểm, tình hình và nhiệm vụ cách mạng
của từng giai đoạn, kể cả những lúc vận mệnh của dân tộc như ngàn cân treo
trên sợi tóc nhưng nhất quyết không được xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 11

- 11 - 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán. Việc Đảng ta
tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật. Ngay
trong Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc, Trung ương Đảng đã chỉ rõ: Về Đảng,
phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay cơng khai của Đảng, tuyển thêm đảng
viên… Các tổ chức Đảng phải sinh hoạt cho đều và khơng vì lẽ gì để cho nó rời
rạc, loạc choạc. Tổ chức các chi bộ trong các cơ quan hành chính hay trong các
hội hợp pháp, củng cố đảng, đồn trong đó; thành lập chi bộ trong quân đội;
phối hợp hoạt động bí mật với hoạt động cơng khai, điều hịa hai sự hoạt động
ấy, coi cơng tác bí mật vẫn là gốc. Bằng sự nhạy bén, sáng tạo ấy của Hồ Chí
Minh mà Đảng ta vẫn giữ được vai trị lãnh đạo. Thơng qua các chi bộ, Đảng ta
vẫn tiếp tục tuyên truyền được chủ nghĩa Mác - Lênin, vẫn giữ vững được mối
liên hệ giữa Đảng với quần chúng, bảo đảm được sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Trong hệ thống tổ chức đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi
bộ, Người đã xác định vai trò của chi bộ trong ba loại quan hệ chủ yếu:


15
Thứ nhất, đối với bản thân Đảng, chi bộ là nền tảng, là hạt nhân chính
trị quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Theo Hồ Chí Minh: “Mỗi chi bộ
của Đảng phải một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ,
liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của
quần chúng” [50, tr.23] thì sự nghiệp cách mạng mới thành cơng. Trong Bài
nói ở lớp huấn luyện đảng viên mới (5 - 1966), Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi
bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [51, tr.92]. Vì vậy, “cần phải ra sức củng
cố các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của
Đảng ở mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [49, tr.271].
Thứ hai, mối quan hệ giữa chi bộ với đảng viên. Chi bộ và đảng viên có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chất lượng của đội ngũ đảng viên

quyết định tới chất lượng xây dựng chi bộ. Bởi vì chi bộ chính là môi
trường để giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng thời cũng là nơi
kiểm tra, giám sát đảng viên, thi hành kỷ luật đảng viên. Người luôn cho
rằng chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt và ngược lại, chi bộ kém là do
các đảng viên đều kém. “Đảng viên tốt thì chi bộ mới tốt. Muốn đảng viên
tốt thì chi bộ phải thường xuyên giáo dục mỗi đồng chí. Nhiệm vụ của đảng
viên là gì? Tư cách của đảng viên là thế nào? Đồng thời giúp đỡ đảng viên
hàng ngày tự kiểm điểm mình” [51, tr.80]. Khi nói về chi bộ kém Người
cũng chỉ rõ: “Chi bộ kém là vì đảng viên và cán bộ khơng một lịng một dạ
phục vụ nhân dân; khơng lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm. Một số đảng viên và cán bộ còn mang nặng những thói xấu như
tham ơ, ích kỷ…” [50, tr.171].
Thứ ba là mối quan hệ giữa chi bộ với quần chúng ở các khu vực dân
cư, địa bàn có dân cư sinh sống. Đó chính là mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng, trong đó chi bộ là cầu nối. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ:


16
Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây
chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là:
- Luôn luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để
thực hiện khẩu hiệu và chính sách của Đảng.
- Ln luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp
thời báo cáo cho cấp trên biết rõ.
- Luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa
của nhân dân.
Chỉ có làm đầy đủ những cơng việc ấy, thì Đảng mới liên hệ
chặt chẽ với quần chúng… [46, tr.243].
Đặc biệt trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh ln coi trọng chi bộ trên

địa bàn nông thôn. Trong bài Chi bộ ở nông thôn, Người viết: “Chi bộ là gốc
rễ của Đảng ở nơng thơn. Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của Đảng và
Chính phủ nhất định thi hành được tốt” [47, tr.317].
Những quan điểm, tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam nhận thức một cách sâu sắc và vận dụng vào để xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam trong suốt hơn 80 năm qua. Không phải ngẫu nhiên Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời đã được xã hội thừa nhận vai trò lãnh đạo
cách mạng, và chỉ có Đảng Cộng sản ngay từ khi mới ra đời đã nắm được
quyền lãnh đạo cách mạng. Đó là nhờ Đảng đã có chủ trương, đường lối đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn lịch sử và đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân. Đảng đã có phương pháp tổ chức, chỉ đạo hoạt động, phương pháp vận
động quần chúng nhân dân một cách linh hoạt, sáng tạo. Từ những yếu tố đó,
Đảng đã gây dựng được lịng tin của nhân dân, tạo được uy tín đối với nhân
dân, được nhân dân hết lòng ủng hộ. Sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ
niềm tin của hết thẩy quần chúng đối với Đảng, có được niềm tin ấy thì dù
Đảng tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, bí mật hay cơng khai thì Đảng vẫn
nắm được quyền lãnh đạo, và vẫn giữ được chính quyền về tay nhân dân.


17
Điều đó được thể hiện trước hết là thơng qua vai trò của chi bộ. Ngay từ ngày
đầu mới thành lập, trong Điều lệ vắn tắt của mình, Đảng đã xác định tơn chỉ
mục đích của Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần
chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm
cho thực hiện xã hội cộng sản”. Về hệ thống tổ chức, Đảng cũng xác định: “Chi
bộ gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một
sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đường phố, v.v…” [43, tr.5].
Khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...lãnh đạo tất cả các tổ chức trong xã hội.
Đảng chịu trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước và của cả dân tộc. Để

hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng khơng ngừng củng cố nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, trong đó có nhiệm vụ được Đảng rất quan tâm đó
là xây dựng các chi bộ ngày càng vững mạnh, thực sự là nền tảng hạt nhân
lãnh đạo chính trị ở tất cả các địa bàn trong cả nước. Đảng luôn coi việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ là nhiệm vụ thường xuyên
quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.
Đảng không chỉ đơn giản là những cá nhân đảng viên và tổ chức Đảng,
mà Đảng là một tổ chức đặc biệt. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, là sức mạnh tổng hợp của các tổ chức Đảng từ Trung
ương đến cơ sở. Trong đó, chi bộ là nhân tố rất quan trọng, vì thế Đảng ta
quan niệm: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” [13, tr.34]. Điều đó giúp ta hiểu sâu sắc
hơn vị trí, vai trị của chi bộ. Sức mạnh của Đảng là một phần quan trọng,
được quyết định bởi sức mạnh của chi bộ, mỗi chi bộ mạnh góp phần làm cho
Đảng mạnh, chi bộ yếu kém sẽ ảnh hưởng nhất định đến sức mạnh của Đảng.
Tóm lại, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập
được quyền lãnh đạo cách mạng, từ đó đến nay Đảng vẫn ln giữ vững và
giương cao ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặc dù có những bước


18
thăng trầm, có những lúc Ban Chấp hành Trung ương bị khủng bố ác liệt, bị
đàn áp dã man, có những lúc phải tuyên bố giải tán Đảng, nhưng vai trò lãnh
đạo cách mạng của Đảng chưa khi nào bị ngắt quãng, bị rời rạc và càng không
bao giờ nhường quyền lãnh đạo cho các đảng phái và các tổ chức chính trị
khác. Sở dĩ Đảng ta đứng vững trên vũ đài chính trị là bởi vì Đảng ln xác định
đúng mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng, luôn đáp ứng được
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đồng thời
trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ln ln có ý thức đổi
mới, chỉnh đốn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để từ đó tự hồn thiện

mình và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức mạnh chiến đấu của Đảng.
Chi bộ đại đội là một bộ phận trong hệ thống tổ chức Đảng trong Quân
đội, đó là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi hoạt động huấn luyện và sẵn sàng
chiến đấu ở đại đội, là cầu nối giữa Đảng với cán bộ, chiến sĩ trong đại đội,
nơi quản lý và phân công công tác cho đảng viên, kiểm tra và thi hành kỷ luật
đảng viên, nơi tuyên truyền giáo dục và kết nạp đảng viên mới, đưa ra khỏi
Đảng những đảng viên thoái hoá biến chất.
Vai trị hạt nhân chính trị của chi bộ đại đội thể hiện là trung tâm đoàn
kết, là người lãnh đạo các tổ chức trong đơn vị, lãnh đạo cán bộ, chiến sĩ thực
hiện nhiệm vụ của đơn vị, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên, hạ sĩ quan, chiến sĩ
có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chi bộ đại đội còn là nòng cốt để xây dựng đại
đội vững mạnh tồn diện, có sức chiến đấu cao. Đó cịn là nơi trực tiếp gắn bó
thường xuyên với cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong đại đội, trực tiếp nắm bắt
tâm tư tình cảm, nguyện vọng chính đáng của họ và tìm cách giải quyết.
Thơng qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, chi bộ tiến hành giáo dục, thuyết phục
vận động quần chúng, làm cho họ nhận thức đúng đắn về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chỉ thị,
mệnh lệnh, hướng dẫn của cấp trên... để họ tổ chức thực hiện thắng lợi và có


19
hiệu quả. Chi bộ đại đội còn là nơi tiến hành mọi hoạt động xây dựng nội bộ
Đảng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, cung cấp những cán bộ tốt cho quân đội
cũng như con người tốt cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đó là những chiến sĩ
đã được giáo dục, rèn luyện trong quân đội, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự
và trở về hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác nhau, trên các địa
bàn khác nhau, họ vẫn phát huy được bản chất và truyền thống của Quân đội trên
từng lĩnh vực công tác để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
sẵn sàng là lực lượng dự bị động viên tham gia sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội hơn 65
năm qua đã chứng minh: chi bộ mạnh mới có đại đội mạnh, chi bộ đại đội
mạnh là nhân tố cơ bản quyết định sự vươn lên của đại đội. Vì thế trước yêu
cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hơn lúc nào hết phải luôn
luôn nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ đại đội trong
Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam.
1.1.1.2. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại đội dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Đại từ điển tiếng Việt:
Năng lực: “I- Những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì:
năng lực tư duy của con người; II- Khả năng đủ để thực hiện tốt mọi cơng
việc: Có năng lực chun mơn, năng lực tổ chức” [81, tr.1172].
Lãnh đạo: “I- Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể: lãnh
đạo cuộc đấu tranh” [81, tr.979].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là “Khả năng đề ra được mục tiêu cách
mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như từng thời kỳ và bằng những
phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện hiệu
quả” [53, tr.38].
Ngay từ khi xác định Cách mệnh phải có Đảng cách mệnh lãnh đạo,
Hồ Chí Minh đã rất quan tâm chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh: “Đảng có


20
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” [42, tr.268].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
giữ vai trò là người lãnh đạo quần chúng. Để lãnh đạo được quần chúng,
Đảng phải thuyết phục, thu phục, trinh phục được quần chúng. Để thuyết

phục, thu phục, trinh phục được quần chúng thì Đảng phải: có đường lối
chủ chương chính sách đúng đắn, hợp với lịng dân, phải trở thành ngọn cờ
để dẫn dắt tập hợp quần chúng. Ngay từ trong Cương lĩnh đầu tiên, Hồ Chí
Minh đã xác định:
1- Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn
đại địa chủ và phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công
hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản
quốc gia… [43, tr.3].
Hoặc trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Để làm
tròn nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân kháng chiến và kiến quốc, Đảng phải thật
mạnh mẽ, trong sạch, sáng suốt, thống nhất. Nền tảng tổ chức của Đảng tóm
tắt gồm 6 điều:
1) Đảng là đội tiền tiến của nhân dân lao động.
2) Mỗi đảng viên nhất định phải phụ trách một công tác của Đảng…
3) Đảng phải lãnh đạo tất cả những tổ chức khác của nhân dân lao động.
4) Đảng phải liên lạc thật chặt chẽ với quần chúng… [46, tr.229-230].


21
Thực tiễn cũng đã chứng minh, từ khi Đảng ra đời đến nay Đảng luôn
đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn hợp với lòng dân, do vậy đã
tập hợp được quần chúng nhân dân trong cả cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và trong cả cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vì vậy mọi người dân
Việt Nam, ai ai cũng tin theo Đảng, đi theo Đảng và nghe theo Đảng, điều đó
đã thể hiện rõ năng lực lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, từ những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, có thể xác định
năng lực lãnh đạo của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội như sau:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ
Quân đội nhân dân Việt Nam bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối
với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung, nhất là đối với sự nghiệp
và xây dựng Tổ quốc của Quân đội ta.
Năng lực lãnh đạo của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội là năng
lực nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, nhất là về chiến tranh nhân dân, quốc
phịng tồn dân, những kiến thức cần thiết về chính trị, kinh tế, văn hố, khoa
học công nghệ quân sự của nước ta và các nước trên thế giới trong thời đại
ngày nay. Đó là năng lực nắm vững truyền thống tinh hoa của dân tộc ta trong
lịch sử dựng nước và giữ nước, đó là nắm vững thực tiễn trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, Quân đội ta. Trong đó vấn đề trọng
tâm và xuyên suốt là nắm vững được đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và vận dụng đúng đắn sáng tạo vào quá trình
thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội và từng đơn
vị. Từ đó đề ra chủ trương biện pháp lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và tổ chức
thực hiện có hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Đó là năng lực giáo dục, thuyết phục, động viên cán bộ, đảng viên và quần
chúng luôn thông suốt với đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, để từ đó khắc phục mọi


22
khó khăn, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật phấn đấu hoàn thành thắng lợi mọi
nhiệm vụ được giao.
Như vậy, năng lực lãnh đạo của các chi bộ đại đội được thể hiện trên mọi
lĩnh vực: cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong thực hiện nhiệm vụ, nhất là
trong những tình huống khó khăn phức tạp, khẩn trương, yêu cầu cao nhưng tập

trung chủ yếu ở những vấn đề đó là: lãnh đạo quán triệt sâu sắc và tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự của Đảng trong
từng giai đoạn cách mạng, thường xuyên coi trọng giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lập trường quan điểm, giai cấp công
nhân cho cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, có đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức năng lực
ngày càng cao để làm nòng cốt xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Sức chiến đấu của Đảng: “Là sức lực của bản thân Đảng để chiến đấu,
vượt qua những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù địch với lý
tưởng và sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực
trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những
khó khăn khách quan của đất nước, của tình hình kinh tế - xã hội trong bước
đường đi lên” [53, tr.39].
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình xây dựng
Đảng đều rất quan tâm tới việc củng cố chăm lo xây dựng nội bộ Đảng làm
cho Đảng trong sạch vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đặc
biệt là V.I.Lênin, trong tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi, đã nhấn mạnh
Đảng phải ln tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm và khuyết điểm,
phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sửa chữa. Người coi đây là một căn cứ
quan trọng để xem xét một Đảng có thực sự là Đảng mácxít chân chính hay
khơng. Đặc biệt là Người đã tập trung vào việc đưa những phần tử thối hố
biến chất những người khơng đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng để làm trong
sạch nội bộ Đảng. Đó gọi là thanh Đảng.


23
Hồ Chí Minh, trên cơ sở tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Người luôn coi việc xây
dựng chỉnh đốn Đảng, chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu của
Đảng là điều kiện cần và đủ để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng. Là điều kiện đầu tiên, là nhân tố chủ quan để Đảng khơng bị rơi vào tha
hố biến chất. Ngay từ Đường cách mệnh, Người đã chỉ ra là Đảng có vững

cách mệnh mới thành cơng. Hoặc trong Thường thức chính trị, Người đã chỉ
rõ:
5) Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là:
có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo
thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đồn thể, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng
Trung ương.
6) Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ
hoặc đảng viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vơ
sản… [46, tr.230].
Theo Hồ Chí Minh: xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là tư tưởng nhất quán,
xuyên suốt trong quá trình xây dựng Đảng. Từ những ngày đầu khi Đảng ra
đời cho đến những giây phút cuối đời, Người luôn quan tâm chăm lo xây
dựng Đảng, làm trong sạch Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Di chúc
cơng bố chính thức năm 1969 có đoạn viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt
nhất để củng cố và phát triển sự đồn kết và thống nhất của Đảng. Phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” [51, tr.510].
Từ những tư tưởng, quan điểm trên, có thể quan niệm sức chiến đấu
của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội như sau:


24
Sức mạnh chiến đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội là sự
vững vàng về chính trị trước mọi sự biến động của tình hình trong nước và thế
giới, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân, nguyên tắc lãnh đạo “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của
Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, kiên định với vị trí, vai trị, hiệu lực

Cơng tác Đảng, Cơng tác Chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sức chiến đấu đó được thể hiện và kịp thời đấu tranh có hiệu quả với
mọi âm mưu hành động chống phá của kẻ thù đối với Quân đội ta về cả chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Thể hiện ở sự kiên quyết đấu tranh tự phê bình và phê
bình, có thái độ rõ ràng, phân biệt đúng sai với những thái độ, hành vi nhận
thức mơ hồ lệch lạc, để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, bảo vệ sự đoàn
kết thống nhất nội bộ. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà
nước, kỷ luật Quân đội, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện để
lãnh đạo đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, gương mẫu về phẩm chất đạo
đức và tác phong, tiền phong về trí tuệ, xây dựng chi bộ đạt trong sạch vững
mạnh làm nòng cốt để xây dựng đại đội vững mạnh toàn diện.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai mặt gắn bó chặt chẽ với
nhau, tác động đến nhau trong sức mạnh tổng hợp của các chi bộ đại đội, là
nhân tố trực tiếp quyết định đến sức mạnh chiến đấu, chất lượng tổng hợp của
từng đại đội và tồn qn, có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của toàn Đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ đại đội
trong Đảng bộ Quân đội luôn là khâu trung tâm xuyên suốt trong toàn bộ hoạt
động xây dựng Đảng của Đảng bộ trong Quân đội, nhằm trực tiếp củng cố và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Đảng luôn


25
nắm chắc Qn đội. Vì Qn đội ln là lực lượng chính trị, lực lượng chiến
đấu trung thành và tin cậy của Đảng và nhân dân.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ Quân đội luôn coi trọng công tác
xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng nói chung và của chi bộ đại đội nói riêng ln phù hợp với yêu cầu

nhiệm vụ và sự phát triển của Quân đội trong từng giai đoạn cách mạng. Nhờ
vậy mà Đảng bộ Quân đội luôn vững mạnh, phát triển không ngừng, lãnh đạo
quân đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao phó. Lịch sử phát triển của Quân đội ta hơn 65 năm qua luôn gắn liền với
q trình khơng ngừng phấn đấu để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức đảng và nhất là các chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội.
1.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của chi bộ đại đội trong Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng
trong Đảng bộ Quân đội nói chung và của chi bộ đại đội nói riêng dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trị đặc biệt quan trọng.
Khi đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đảng cần phải phát triển và củng cố. Cần phải phát triển thêm thành phần
công nhân. Cần phải giáo dục những đảng viên mới. Cần phải cải tạo tư tưởng
cho đảng viên nông dân và tiểu tư sản trí thức. Xây dựng Đảng có ba mặt: tư
tưởng, chính trị và tổ chức” [46, tr.234].
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
IV, trong Báo cáo Tổng kết cơng tác xây dựng Đảng, Đảng ta xác định: “Nâng
cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở là một nhiệm vụ thường xuyên và
quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng” [14, tr.129].


×