Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bài thu hoạch tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.98 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh
tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ
cách mạng xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế
và phong trào giải phóng dân tộc. Người là hiện thân của tinh hoa, khí phách của
dân tộc Việt Nam, là biểu tượng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người
đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về
nhiều mặt, trong đó tư tưởng về đại đồn kết, về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát
triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Đây là tư tưởng xuyên suốt và nhất
quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã
trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta vận dụng trong suốt q trình đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết
toàn dân tộc vượt mọi khó khăn, gian khổ đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc
ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo tư
tưởng về đại đoàn kết, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, từng bước khẳng định vị thế, vai trò của nước ta trên trường quốc tế; đặc
biệt phát huy có hiệu quả tư tưởng đại đồn kết, kết hợp của dân tộc với sức
mạnh của thời đại đã và đang mang lại những thành công, hiệu quả bước đầu và
đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh phịng, chống đại dịch Covid-19 đang
ngày càng có những diễn biến phức tạp và khó lường.
Vì vậy, học viên lựa chọn chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết, về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và vận dụng trong
phòng, chống đại dịch Covid-19” làm chủ đề Tiểu luận kết thúc môn học.


2
NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết


Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống quý
báu của dân tộc ta, tinh thần cố kết cộng đồng, đoàn kết trong “trị thủy và làm
thủy lợi”, trong đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược được hun đúc trong hàng
nghàn lịch sử của dân tộc. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết
lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của
thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc, với những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí, vai trị của đại đồn kết trong
cách mạng Việt Nam
Đại đoàn kết là một nội dung nổi bật, xuyên suốt trong tư tưởng cũng như
trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí
Minh là một nội dung cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh không phải là một biện pháp nhất thời,
mà là chiến lược tập hợp mọi lực lượng, nhằm huy động sức mạnh của tất cả các
giai tầng trong xã hội trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp
vì mục tiêu độc lập, tự do cho nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định “Đồn kết là
lực lượng mạnh nhất”, “Đồn kết là sức mạnh vơ địch”…Tại Đại hội hợp nhất
Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt năm 1951, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu,
nhiệm vụ khác nhau, có thể và cần thiết có sự điều chỉnh chính sách, phương
pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại


3

đồn kết ln được nhận thức là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, đại đồn kết khơng đơn thuần là phương pháp tập
hợp, tổ chức lực lượng yêu nước, cách mạng, mà cao hơn cả đó là nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng cách mạng. Người tuyên bố trước toàn dân tộc: Mục đích
của Đảng Lao động Việt Nam đại thể gồm trong 8 chữ: “ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ đầu tiên
của Đảng cách mạng là tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân ở trong
nước, nhân dân u chuộng hịa bình, tiến bộ trên thế giới, hình thành nên khối
đại đoàn kết to lớn, mạnh mẽ. Hồ Chí Minh nêu rõ: Đồn kết là điểm mẹ. Điểm
này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Do vậy, đại đoàn kết là điểm
xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng.
Thứ hai, về lực lượng đại đoàn kết
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng đại đồn kết dân tộc bao gồm các giai cấp,
tầng lớp xã hội, các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, đồng bào các tôn giáo,
các đảng phái, các ngành, các giới, các lứa tuổi…hợp thành khối đại đoàn kết
dân tộc rộng rãi. Người nêu rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các
tầng lớp nhân dân khác”. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, độc lập, dân
chủ thì chúng ta đều thật thà đồn kết với họ.
Hồ Chí Minh chủ trương đồn kết các dân tộc thành một khối thống nhất,
không phân biệt miền núi hay miền xuôi, đồng bào đa số hay đồng bào thiểu số.
Đồng thời phải đồn kết các lực lượng tơn giáo, gắn chặt lợi ích của từng tơn
giáo với lợi ích của cộng đồng dân tộc. Hồ Chí Minh nói: Nước có vinh thì đạo
mới sáng, nước có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự do. Hồ Chí Minh nhận
định, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để đoàn kết tồn dân tộc: Phải chăm lo
“giữ gìn sự đồn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.



4
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết quốc tế để củng cố thêm đoàn kết dân tộc, để cùng nhau tiến bộ chống
kẻ thù chung và thực hiện các mục tiêu chung của thời đại. Căn cứ vào tình hình
thế giới lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh xác định lực lượng đại đoàn kết quốc tế bao
gồm: Lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa; lực lượng của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế; lực lượng của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc;
lực lượng nhân dân u hịa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới.
Thứ ba, về hình thức tổ chức đại đồn kết
Hình thức tổ chức đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là đồn kết
trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là một liên minh chính trị - xã hội
nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức yêu nước vào một khối thống nhất, đấu tranh
vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mặt trận là phương tiện để thực
hiện mục đích đồn kết...Người nói: “Mặt trận bao gồm tất cả những người yêu
nước, khơng phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tơn giáo, giai cấp xã
hội, nam nữ và tuổi tác”.
Về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ Chí Minh yêu cầu:
Một là, Mặt trận phải lấy liên minh công - nơng - trí làm nền tảng. Liên
minh cơng - nơng - trí có vững, Mặt trận mới bền vững, lâu dài được. Đây là yếu
tố cần. Còn yếu tố đủ là: Mặt trận phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước khác
để mở rộng tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
Hai là, khối đại đoàn kết trong Mặt trận chỉ có thể được củng cố và phát
triển bền chặt khi được Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo
Mặt trận bằng việc đề ra đường lối, chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với
từng thời kỳ, từng giai đoạn của cuộc cách mạng; bằng phương pháp tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục; thông qua tổ chức cơ sở đảng và đội
ngũ đảng viên.
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của mình, ở mỗi thời kỳ, Đảng tổ chức
và xây dựng Mặt trận với các tên gọi khác nhau, phù hợp với thực tiễn cách

mạng: Hội phản đế đồng minh, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam, Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt), Mặt trận


5
tổ quốc Việt Nam…Mặt trận có vai trị hết sức quan trọng trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, Hồ Chí Minh
đã xây dựng các hình thức đoàn kết quốc tế phù hợp với từng đối tượng nhằm
đạt hiệu quả cao nhất. Đối với các nước láng giềng, có cùng chung kẻ thù, chung
nguyện vọng độc lập dân tộc, tự do cho mỗi dân tộc (Lào, Campuchia), Hồ Chí
Minh chủ trương vận động thành lập Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt - Miên Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đối với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em (như Trung Quốc, Liên Xô, Cuba, Triều
Tiên…), để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ đối với cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập
dân tộc, vì hịa bình, chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ đạo
xây dựng các tổ chức hữu nghị đoàn kết với nhân dân các nước, thông qua việc
ký kết các hiệp định hợp tác và viện trợ (Hội hữu nghị Việt - Trung, Hội hữu
nghị Việt - Xô, Hội hữu nghị Việt Nam - Cuba...). Đối với nhân dân u chuộng
hịa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh chủ trương tăng cường vận
động xây dựng Mặt trận đoàn kết vì hịa bình, dân chủ, tiến bộ giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân các nước.
Thứ tư, về nguyên tắc đại đồn kết
Hồ Chí Minh chỉ ra bốn ngun tắc đại đoàn kết dân tộc:
Một là, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích
của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các gia tầng trong xã hội. Theo
Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở nhận thức và giải
quyết tốt mối quan hệ cốt lõi giữa dân tộc và giai cấp. Hồ Chí Minh đã tìm ra
mẫu số chung để đồn kết dân tộc và giai cấp, đó là độc lập tự do của đất nước,
hạnh phúc của nhân dân. Người khẳng định: Dân tộc Việt Nam có quyền được
hưởng tự do, độc lập. Người cho rằng, nước được độc lập và dân khơng có tự

do, hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có nghĩa gì. Chân lý “khơng có gì q hơn
độc lập tự do” vừa là mục tiêu, động lực của tồn dân tộc Việt Nam, vừa là chìa
khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh.


6
Hai là, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Kế
thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ơng: “Nước lấy dân làm
gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là ngày hội của quần
chúng”, Người khẳng định: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân.
Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”; “Gốc
có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Hồ Chí Minh nêu
lên vai trị của dân trong đại đồn kết: Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn
kết. Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vơ tận, vơ địch của
khối đại đồn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể quần chúng.
Ba là, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết lâu
dài, chặt chẽ. Đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là đại đồn kết trên lập
trường vơ sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là một tập hợp có tổ
chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nền tảng khối liên minh cơng - nơng. Có như vậy, đồn kết mới lâu dài,
bền chặt, bền vững. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đồn kết của ta khơng những rộng rãi
mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một
thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”. Nền có vững nhà mới chắc
chắn, gốc có tốt thì cây mới tươi.
Bốn là, đại đồn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái, gắn với tự phê
bình và phê bình. Xuất phát từ tinh thần yêu nước, lịng tự tơn dân tộc và tín
hướng thiện của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi

thành kiến, tập hợp mọi lực lượng, lôi kéo họ về với dân tộc. Người nói: “Cần
phải xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ, để cùng phục vụ nhân dân”. Vì vậy, đồn kết phải có lịng nhân ái,
khoan dung. Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng, trong đồn kết có đấu tranh, đấu
tranh để củng cố đồn kết. Người nói “Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Do đó, trong đồn kết phải


7
thực hiện tự phê bình và phê bình để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy
những ưu điểm, củng cố nội bộ, củng cố tổ chức, tăng cường đoàn kết. Tự phê
bình và phê bình phải thường xuyên, chân thành, thẳng thắng, thân ái, phải có lý,
có tình.
Theo Hồ Chí Minh, ngun tắc đồn kết quốc tế gồm:
Một là, đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích
quốc gia dân tộc với lợi ích quốc tế: Lợi ích của quốc gia dân tộc là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; lợi ích của quốc tế là độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, cùng phấn đấu vì hịa bình, ổn định và phát triển.
Hai là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng
xâm phạm vào cơng việc nội bộ của nhau: Trong đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh
ln nêu cao ngun tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương tận lực phát
huy sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người
làm chủ, sức mạnh đại đồn kết tồn dân…chỉ có trên cơ sở sức mạnh bên trong,
chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi
của lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng trong
từng thời kỳ.
Ba là, đại đồn kết hữu nghị, hợp tác bình đẳng, đơi bên cùng có lợi: Hồ
Chí Minh tun bố: “Bất kỳ nước nào thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh
ở Việt nam, với mục đích làm lợi cho hai bên, thì Việt nam sẽ rất hoan nghênh.

Bất kỳ nước nào mong đưa tư bản đến để ràng buộc áp chế Việt Nam thì Việt
Nam sẽ cương quyết cự tuyệt”. Đây chính là nền móng cho phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa cơng tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Thứ năm, về phương pháp đại đoàn kết
Hồ Chí Minh chỉ rõ những phương pháp đại đồn kết, gồm:
Một là, phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục. Đây
là phương pháp để thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện tự giác tham gia đoàn
kết thành một khối. Theo Hồ Chí Minh, nội dung tuyên truyền vừa phải đáp ứng
những nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của quần chúng, vừa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn cách mạng. Đồng thời, Người chỉ rõ những nội dung tuyên truyền, vận


8
động phải sát hợp với từng đối tượng, từng cộng đồng xã hội, từng nước. Hồ Chí
Minh cho rằng, hiệu quả của phương pháp tuyên truyền còn tùy thuộc vào việc
sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng phù hợp với từng đối
tượng. Hồ Chí Minh yêu cầu: Viết phải ngắn gọn, dễ hiểu, vừa trí thức, vừa bình
dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị; phải bằng ngôn ngữ thông thường gần gũi với mọi
người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng nhiều hình thức tun truyền, vận
động quốc tế (tuyên truyền miệng, báo chí, phim ảnh…). Đồng thời còn sử dụng
những lực lượng ở nước ngồi như nhà văn, nhà báo, báo chí, đài phát thanh các
nước, báo chí của các tổ chức quốc tế, các nhà xấu bản, hãng phim ngoại quốc
để tuyên truyền, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với
cách mạng Việt Nam.
Hai là, phương pháp tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng, củng
cố khối đại đồn kết cần phải có phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương
pháp xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị, bao gồm:
Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh yêu
cầu Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; Đảng phải đoàn kết,
thống nhất cả trong tư tưởng lẫn hành động, từ trên xuống dưới; Đảng phải là

một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tự giác, thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt
Đảng kiểu mới; đảng viên “là người đầy tớ thật trung thành với nhân dân”.
Nhà nước là người tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời
sống xã hội, mỗi chủ trương, chính sách, việc làm của Nhà nước đều tác động
trực tiếp đến cuộc sống, lợi ích, tâm tư, tình cảm của nhân dân. Để Nhà nước đề
ra chính sách thực hiện đồn kết đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp
với thực tiễn, Hồ Chí Minh yêu cầu: Phải xây dựng Nhà nước thực sự là của
dân, do dân, vì dân; phải khơng ngừng cải cách bộ máy hành chính và hồn
thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ công chức nhà nước phải tận tụy, trung thành
phục vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”.
Mặt trận và các đoàn thể quần chúng là sợi dây gắn kết Đảng với dân, uy
tín và sức mạnh của Đảng một phần phụ thuộc vào chất lượng tổ chức và hiệu


9
quả hoạt động của các đoàn thể quần chúng. Hồ Chí Minh u cầu Mặt trận và
các đồn thể quần chúng: Cương lĩnh đề ra phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng;
hình thức tổ chức phải phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ nhận thức của
quần chúng; cán bộ óc phải nghĩ, chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm;
phải làm tốt cơng tác dân vận.
Ba là, phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ. Phương pháp
đồn kết dân tộc Hồ Chí Minh là phương pháp xử lý khoa học mối quan hệ, mối
tương quan ba chiều: cách mạng - trung gian - phản cách mạng.
Đối với lực lượng cách mạng: Khai thác, phát huy những điểm thống
nhất, tương đồng; hạn chế, khắc phục tiến tới xóa bỏ dần những khác biệt về
mục tiêu, lợi ích. Sự đồn kết, thống nhất của lực lượng cách mạng là điều kiện
tiên quyết giúp cho việc thu hút, tập hợp lực lượng trung gian vào trận tuyến
cách mạng, cô lập lực lượng thù địch.
Đối với lực lượng trung gian: Xóa bỏ thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ
vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước; chân thành hợp tác, trọng dụng những

người có tài, có đức ra giúp dân, giúp nước.
Đối với lực lượng phản cách mạng: Chủ động, kiên quyết tiêu diệt trên cơ
sở phân hóa cơ lập chúng cao độ; chú ý khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù,
lôi kéo những người có thể tranh thủ được; tạm hịa hỗn có ngun tắc với
những lực lượng, bộ phận có thể hịa hoãn được.
Phương pháp xử lý mối quan hệ ba chiều này bao hàm sự kết hợp giữa
chiến lược và sách lược, cứng rắn về nguyên tắc và mềm dẻo trong biện pháp,
thực hiện phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Đối với các lực lượng cách mạng, các lực lượng dân chủ, hịa bình…trên
thế giới, Hồ Chí Minh có phương pháp đoàn kết phù hợp đối với từng đối tượng
để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân thế giới đối
với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và xây dựng tình đồn
kết với các nước láng giềng, trên tinh thần “giúp bạn tức là giúp mình”, “vừa là
đồng chí vừa là anh em”.


10
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội
dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung của
tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại.
Hồ Chí Minh ln đề cao sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
và đánh giá cao sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, coi đây là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, một nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trên con đường bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nhận thấy:
Muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đồn kết với các dân tộc khác cùng
chung cảnh ngộ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Người đã bổ sung nhân tố tạo
nên sức mạnh thời đại, đó là: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với linh hồn là

phép biện chứng duy vật và lịch sử, phương pháp luận mác xít; sự phát triển lớn
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; cuộc cách mạng khoa học và kỹ
thuật ngày càng phát triển mạnh; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước bị nô dịch và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở
các nước tư bản.
Từ nhận thức về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, để có sức mạnh
tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Theo Người, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế vơ sản trong sáng; là phải xây dựng được khối liên minh chiến đấu giữa giai
cấp vô sản và nhân dân lao động ở thuộc địa với giai cấp vô sản và nhân dân lao
động ở chính quốc, nhằm cùng một lúc tiến công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai
đầu; là phải biết huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng trên thế giới
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Hồ Chí
Minh yêu cầu các đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ
nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động của mình.


11
Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng quốc tế, nhưng
khơng phải là thụ động ngồi chờ, mà phải có tinh thần chủ động, dựa vào sức
mình là chính, tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ của
nhân dân tiến bộ trên thế giới, đồng thời không được quên nhiệm vụ quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
có một số nội dung cơ bản sau:
Một là, đặt Việt Nam trong quỹ đạo chung của thế giới, coi cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Trong đó, trên cơ sở nắm bắt

chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh đã đặt cách
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người chỉ ra
nguyên nhân “gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đơng, đó là SỰ BIỆT
LẬP…họ hồn tồn khơng biết đến những việc xảy ra ở các nước láng
giềng…”. Vì vậy, Người kiến nghị với Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản về
những biện pháp tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc phương Đông. Bên
cạnh đó, Người cũng đã phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn và
vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với thắng lợi
của cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh ln đặt tư duy của mình trong dịng chảy
của thời đại, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, coi cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Do đó, đề ra đường lối kết hợp
chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập thống nhất của dân tộc Việt Nam với
mục tiêu của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hai là, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, sự
ủng hộ của nhân loại tiến bộ và sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Trong mối
quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh bao giờ
cũng coi sức mạnh dân tộc, nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn sức
mạnh thời đại, nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua sức mạnh
dân tộc, nguồn lực nội sinh. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”.
Chính vì đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm: Cách mạng thuộc địa không những


12
không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải thực
hiện tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; cách mạng giải phóng dân tộc
chủ động tiến hành trước và bằng thắng lợi của mình, góp phần “giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.
Mặt khác, để có thể sử dụng được sức mạnh bên ngồi, cần phải có đường

lối cách mạng độc lập, tự chủ. Với đường lối hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân
tiến bộ trên thế giới.
Ba là, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên tinh thần làm
bạn với mọi nước, khơng gây thù ốn với ai. Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên
bố: Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù ốn với
ai”, “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện
với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hịa bình”. Tư tưởng này của
Người bao hàm rộng rãi, cả đối với các nước hiện là kẻ thù, với các nước dân
chủ trên thế giới, các nước trong khu vực. Đối với nước Pháp - nước đang tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam
sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay
công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam
thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn. Song nhân
dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt…kiên quyết cự
tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt Nam”. Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn
sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trên mọi lĩnh vực. Trong quan hệ
hữu nghị, hợp tác rộng mở đó, Hồ Chí Minh dành sự ưu tiên cho mối quan hệ
với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước chung biên giới
với Việt Nam.
Có thế nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt
Nam, đã phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh thời đại, đưa cách
mạng Việt Nam từng bước đi tới những thắng lợi vẻ vang.


13
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phịng, chống đại dịch Covid-19
Tồn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng đang trải qua cuộc chiến vơ

cùng khó khăn, gian khổ, đó là cuộc chiến đấu “khơng tiếng súng” để chống lại
đại dịch Covid-19. Tính đến cuối tháng 9 năm 2021, trên toàn thế giới đã ghi
nhận tổng cộng 230.231.346 ca nhiễm virus SARS-CoV-2, trong đó có
4.720.846 ca tử vong; ở Việt Nam, hiện nay chúng ta đã và đang trải qua đợt
dịch thứ tư với tính chất phức tạp và nguy hiểm, tính từ ca dương tính đầu tiên ở
nước ta vào tháng 01/2020, đến nay cả nước ghi nhận 718.963 ca nhiễm, 17.187
ca tử vong, 487.262 ca được công bố khỏi bệnh. Đây là dịch bệnh nguy hiểm, có
khả năng lây lan cao và ảnh hưởng khơng nhỏ đến sức khỏe, tính mạng con
người và mọi mặt của đời sống xã hội.
Xác định được tính chất nguy hiểm, phức tạp của đại dịch Covid-19, với
tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng và
phát huy sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong cơng tác phịng, chống đại dịch Covid-19, điều
đó được thể hiện cụ thể trên những nội dung sau:
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ vị trí, vai trị của đại đồn kết
dân tộc trong phịng, chống đại dịch Covid-19. Trên cơ sở xác định đại đoàn kết
tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách
mạng, là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đã
lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị vào cuộc, xác định nhiệm vụ cần phải thực
hiện trong phòng, chống dịch là thực hiện và phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc để chiến đấu với đại dịch, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Khi ca bệnh đầu tiên xuất hiện tại nước ta, Ban Bí thư đã ban hành công
văn số 79-CV/TW ngày 29/1/2020 yêu cầu các tỉnh, thành phố và các cơ quan
trung ương phải coi phòng, chống dịch là nhiệm vụ “trọng tâm, cấp bách”.


14
Từ đó, kêu gọi tồn thể nhân dân cả nước đồn kết một lịng, thống nhất ý chí và
hành động để tham gia chống dịch với quyết tâm cao, nỗ lực lớn.
Thứ hai, Đảng và Chính phủ đã xác định lực lượng đại đồn kết tồn dân

tộc trong cơng tác phịng, chống dịch Covid-19. Vận dụng quan điểm của Hồ
Chí Minh về lực lượng đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Chính phủ đã kêu gọi tồn
dân, tồn qn chung tay phịng chống dịch Covid-19. Vì vậy, Đảng đã huy
động được sức mạnh tồn dân tộc để phịng, chống dịch bệnh.
Ngày 30/3/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời
kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lịng vượt qua
mọi khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19. Lời kêu gọi nêu rõ:
“Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tơi kêu gọi
tồn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy
đoàn kết một lịng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả
những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phịng, chống
dịch bệnh”; Ngày 29/7/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục ra lời kêu
gọi: “Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, bảo vệ sức khỏe, tính mạng
của nhân dân là trên hết, trước hết, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi tha
thiết kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài:
Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa;
đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; toàn dân tộc mn người như một,
đồng lịng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách quyết ngăn
chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong cộng đồng” là
lời hiệu triệu, tiếp thêm động lực, ý thức trách nhiệm chung cho toàn Đảng, toàn
dân đẩy lùi dịch bệnh”.
Lời kêu gọi giống như một lời hiệu triệu khơi dậy tinh thần đoàn kết của
cả dân tộc trong cơng tác phịng, chống dịch. Đáp ứng lời hiệu triệu của Tổng Bí
thư, lực lượng tuyến đầu là cán bộ, nhân viên ngành Y tế đã nhanh chóng gác lại


15
cơng việc cá nhân, gia đình, sẵn sàng với tinh thần “khơng ngại khó khăn, gian
khổ”, khơng kể ngày hay đêm, tích cực, chủ động hàng giờ, hàng phút tham gia

xét nghiệm, sàng lọc, cứu chữa bệnh nhân bị mắc Covid-19…Đặc biệt, có nhiều
sinh viên ngành y mặc dù chưa tốt nghiệp, nhiều đội ngũ cán bộ y bác sỹ đã về
hưu, lớn tuổi nhưng đã tình nguyện tham gia chống dịch tại địa phương, cũng
như tình nguyện đến những vùng tâm dịch như Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Nam để tăng cường cho các y,
bác sĩ. Lực lượng Công an, quân đội, cán bộ các cấp, các ngành tại địa phương
đã đồng sức, đồng lòng ngày đêm rà quét, khoanh vùng dập dịch tại các khu dân
cư. Ở khắp cả nước, hàng chục nghìn Tổ Covid cộng đồng, chốt kiểm soát dịch
Covid-19 với sự tham gia của nhiều cán bộ cơ sở như công an, quân đội, dân
quân tự vệ, mặt trận, phụ nữ, thanh niên...khơng quản nắng mưa, gió bão đảm
bảo trực chốt 24/24 để soát dịch bệnh và “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối
tượng”, tích cực cùng các lực lượng chức năng tham gia phòng, chống dịch
Covid-19. Hàng chục nghìn y bác sỹ cả nước, hàng trăm nghìn chiến sỹ q

n

đội, cơng an được điều động và tăng cường vào Thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh miền Nam tham gia chống dịch và thực hiện các hoạt động hỗ trợ công tác
an sinh; hàng chục nghìn y, bác sỹ lên đường giúp Hà Nội xét nghiệm diện rộng
nhằm bóc tách F0 ra khỏi cộng đồng, hỗ trợ cơng tác tiêm chủng vắc xin phịng
Covid-19.
Thứ ba, về hình thức đại đồn kết dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người,
trong lãnh đạo phòng, chống đại dịch Covid-19 hình thức để Đảng ta thực hiện
việc tập hợp lực lượng là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thông qua Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cá nhân có thể đóng góp sức người và sức của để cùng chung
tay với Đảng và Chính phủ, đặc biệt, mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đoàn
kết, tương thân tương ái cùng giúp sức. Nơi nào có dịch, có phong tỏa, giãn
cách là hình thành các ATM đặc biệt như ATM gạo, ATM khẩu trang, ATM ô xy
và nhiều của hàng 0 đồng, bếp ăn từ thiện, triệu túi an sinh…của tất cả các tổ
chức đồn thể chính trị - xã hội, các đội thiện nguyện, của cá nhân những nhà



16
hảo tâm được triển khai nhằm lan tỏa tinh thần u thương, sẻ chia, tình đồn
kết của nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, Đảng, Chính phủ đã vận dụng sáng tạo quan điểm về nguyên tắc
đại đoàn kết dân tộc trong phịng, chống Covid-19. Đó là thống nhất giữa lợi ích
của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của nhân dân, trong đó lợi ích chung
nhất, quan trọng nhất là bảo vệ sức khỏe cho Nhân dân với tinh thần “khơng để
ai bị bỏ lại phía sau”. Bên cạnh đó, Đảng, Chính phủ cũng phát huy ngun tắc
tin vào dân, dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Hưởng ứng lời
kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Quỹ vaccine phịng,
chống Covid-19 với mục đích mua vaccine “để phục vụ cho sức khỏe, hạnh
phúc của Nhân dân là trên hết, trước hết”. Tính đến cuối tháng 9 năm 2021,
thơng qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quỹ vaccine được được gần 600.000
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ với tổng số tiền là
8.665.000.000.000đ. Đây là biểu tượng cao đẹp nhất cho tinh thần đoàn kết của
dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống đại dịch, biểu tượng cho “ý Đảng,
lòng dân” cùng chung một mục tiêu đẩy lùi đại dịch Covid-19, huy động sức
lực, của cải của nhân dân để phục vụ và làm lợi cho nhân dân, bảo vệ sức khỏe
cho nhân dân.
Thứ năm, Đảng, Chính phủ và chính quyền các địa phương, đơn vị đã vận
dụng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, khi dịch bệnh
xảy ra, Đảng và Chính phủ đã đặc biệt quan tâm đến sử dụng phương pháp này.
Tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng đều được chỉ đạo phải tích cực
tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ về tên bệnh, nguồn gốc, cách
phòng, chống dịch bệnh và cả những chủ trương của Chính phủ trong phòng
chống dịch bệnh. Tại các cơ quan, đơn vị đều phải có các bảng thơng tin về dịch
bệnh để tun truyền về cách phịng, chống. Trong cơng tác truy vết, khoanh
vùng, dập dịch, cách ly, phong tỏa để ngăn chặn sự lây lan của Covid-19, lực

lượng chức năng đã ra sức tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhiều trường


17
hợp người dân không chấp hành quy định để đảm bảo sức khỏe, tính mạng cho
chính những người dân và cộng đồng.
Thứ 6, Đảng và Chính phủ đã biết vận dụng quan điểm kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong phòng, chống Covid-19. Trong đó
nổi bật là các nội dung:
Trong cơng tác huy động nhân, vật lực phịng chống Covid-19. Đảng,
Chính phủ đã khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết để
nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng hướng về “tâm dịch”, tiếp sức Đà
Nẵng, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
phía Nam và các tỉnh bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh trong cơng tác phịng, chống
dịch.
Trong cơng tác nghiên cứu, sáng chế: Đảng và Chính phủ đã biết phát huy
tinh thần hăng say lao động, cần cù, trí thông minh của người dân đất Việt, tiêu
biểu là đội ngũ các nhà khoa học trên tinh thần “dựa vào sức mình là chính”,
cũng như việc tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư trong sản xuất các bộ kit xét nghiệm nhanh Covid-19, máy sát
khuẩn tự động, buồng sát khuẩn, buồng Lab lấy mẫu xét nghiệm…; nghiên cứu,
sáng chế và chuẩn bị cho sự ra đời của vaccine phòng, chống Covid-19 “make in
Việt Nam” như vaccine Nano Covac, IVAC; phối hợp với các nước trên thế giới
để chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tới sản xuất vaccin Pflizer,
Sputnik V…Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết phát huy thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật, kết hợp với trí thơng minh của dân tộc trong việc xây
dựng các app, phần mềm trong phòng, chống dịch Covid-19 như: NCOVI,
Bluezone, Sổ sức khỏe điện tử…
Trong công tác ngoại giao vaccine: Đảng và Chính phủ đã tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước, các tổ chức trên thế giới như Liên Hợp Quốc thông qua

cơ chế Covax, sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ba Lan, Nga, Trung Quốc, Cu
Ba…, đồng thời thành lập các Tổ công tác đặc biệt để thực hiện chính sách
“ngoại giao vaccine”: xin viện trợ vaccine, mua vaccin, nhượng lại vaccine
phòng, chống Covid-19 nhưng khơng . Tính đến nay, thơng qua cơ chế Covax,


18
qua chính sách “ngoại giao vaccine”, Việt Nam đã tiếp nhận khoảng 50 triệu liều
vaccine COVID-19 các loại khác nhau và đã phân bổ 45 đợt số vaccine này
phục vụ nhu cầu tiêm chủng, tổng số liều vaccine đã được tiêm tại Việt Nam là
36.152.556 liều, trong đó tiêm 1 mũi là 29.094.447 liều, tiêm mũi 2 là 7.058.109
liều. Điều này đã góp phần khơng nhỏ trong cơng tác khống chế dịch Covid-19,
đảm bảo sức khỏe cho nhân dân và nhanh chóng đưa đất nước trở lại trạng thái
bình thường.
KẾT LUẬN
Giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, về đại đoàn kết, về
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có nội dung rộng lớn, có vị trí,
ý nghĩa chiến lược, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, là
nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, và thực tiễn
cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định;
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định
hướng XHCN”. Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi
nhưng cũng khơng ít bất ổn, phức tạp; cùng với thành tựu của đất nước sau 35
năm đổi mới với nhiều nguồn lực nội sinh mạnh mẽ nhưng đất nước vẫn đối mặt
với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, tồn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phải “chiến đấu” với đại dịch Covid19 đòi hỏi Đảng, Chính phủ và tồn dân tộc phải vận dụng và phát triển tư tưởng

đại đoàn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Hồ Chí Minh
là việc làm hết sức cần thiết để tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, tiếp tục
phát huy những truyền thống tốt đẹp của lịch sử hàng nghìn năm của những
người dân đất Việt, phát huy tinh thần đại đồn kết để đại dịch Covid-19 nói


19
riêng, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh
phúc, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tiếp tục lập
nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công
tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
--1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), NXB Lý luận chính trị,
H.2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, H.2021.
3. Trích Lời kêu gọi của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài
trong trận chiến chống dịch Covid-19 (Tháng 3/2020 và tháng 7/2021).


20

MỤC LỤC

Trang


MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..2
NỘI DUNG………...……………………………………………………………3
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết………………………………………3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…..11
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong phòng, chống đại dịch Covid-19………………14
KẾT LUẬN……………………………………………….…………………..19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………..20



×