Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Tài liệu Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn " Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.79 KB, 122 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGỮ VĂN
ĐỀ TÀI: “TRUYỆN NGẮN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985”
Tác giả luận văn: Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975-1985
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG
Thái Nguyên, 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :
- Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học
trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên.
- Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy
trong suốt khoá học.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến
sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để
luận
văn có thể hoàn thành.


Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
trường THPT Trần Quốc Tuấn (Nam Định) đã động viên, khích lệ, tạo điều
kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của
truyện ngắn sau 1975 3
2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả 7
2.3. Những bài viết về tác phẩm 8
3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 9
3.1. nhiệm vụ nghiên cứu 9
3.2. Đối tượng nghiên cứu 9
4. Phương pháp nghiên cứu 10
5. Đóng góp của luận văn 10
6. Cấu trúc của luận văn 10
Phần nội dung
Chương I
Bối cảnh lịch sử
và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985
1. Bối cảnh lịch sử, xã hội 12
1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh 12
1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội 13
1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc 14
2. Tình hình phát triển của văn xuôi 15

3. Diện mạo của truyện ngắn 19
3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con
người 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2. Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng 35
3.3. Thành tựu của truyện ngắn 37
Những thay đổi về đề tài và cảm hứng
trong truyện ngắn việt nam 1975-1985
1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 41
Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41
. Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư 51
2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985 62
2.1. Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư 63
2.2. Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng 65
2.3. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch 69
2.4. cảm hứng phê phán 71
2.5. Cảm hứng nhân văn 72
Chương III
Những đổi mới bước đầu
trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985
1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện 75
1.1. Khái niệm và vai trò của cốt truyện 75
1.2. Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau
1975 76
1.3. Các đặc điểm kết cấu cốt truyện 80
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985 87
Các kiểu nhân vật mới 89
1.5 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật 96
3. Nghệ thuật trần thuật 103

3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật 103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật 107
Phần kết luận 110
Tài liệu tham khảo 113
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là
thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc
đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền
trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi
nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây
nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm
nhưng rất
tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm
nay.Truyện ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều
nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam
sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa
chọn
đề tài : Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của
truyện ngắn sau 1975.
Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam từ sau 1975” (Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu
và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006), tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét : Từ
1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh
sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề
tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn
học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng

cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời
cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học
khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc
điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể
loại luôn luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường
(Vương
Trí Nhàn) ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn
đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả
hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển
theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người
lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác.Tuy nhiên, trong truyện ngắn (và
cả truyện vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng
nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào
những cảnh ngộ và xung đột nội tâm: truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc
đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên
những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh (Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi
những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn
nghệ quân đội, tháng 4-1985).
Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ (trong văn học
Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997) cho
rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ
- hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát
triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt
hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức.
Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện
ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn
này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết.
Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề
than phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh,

lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn (“Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò
đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991).
Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi
nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn
học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn
đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và
nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến (“Văn học Việt Nam hiện đại -
Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001). Thật ra, nhận định
của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình
văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai
đoạn đổi mới.
Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn
sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” (Nxb Đại học quốc
gia
Hà nội, H, 1999): Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí
văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng
5
năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ
đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước
đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu
hiệu
mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện
ngắn
này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn
viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy
tư,
trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc
độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường.
Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi
Việt Thắng khẳng định và lý giải: truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên

cứu
hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa
dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống
tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống
kinh
tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn
chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn
trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời
thường (“Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb
Đại học quốc gia Hà nội, 2000).
Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy
nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương
diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện
ngắn sau 1975” (Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996) cho rằng: trong một thời
gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa
kịp
làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ
thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách
nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả,
truyện
ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự
tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý
giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau
trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc
sống,
sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi

hỏi
nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với
một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người
khiến
các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện
ngắn
có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những
chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến
tranh
đã hết hiệu lực.
Tác giả Nguyễn Văn Long (“Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006) khi đi sâu vào nghệ
thuật
trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn
nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó,
cách
tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể
tự
nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát
ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng
trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một
thời
gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những
thủ
pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế
của
thời đại.

Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn.
Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng
đến
sức mạnh tổng hợp của câu chữ (“Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn
nghệ quân đội, Tháng 7,1992).
Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng
vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều
hình thức khác nhau để tái tạo đời sống.Vì thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền
đổi
mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện
ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX (Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề

thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000).
2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả
Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là: Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những
điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt
tình
tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam
khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn (Lã Nguyễn,
“Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”,
Tạp
chí văn học số 2-1989).
Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại
chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
6
Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều
cây

bút khác như: Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi
Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành
Long, Lê Minh Khuê
Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc
biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên
cứu,
các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như
Phương,
Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành
Nghị,
Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu
Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ
phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có
nhiều ý
kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp
của
Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng
góp
của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý
kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu,
nhà
văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm,
tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ
phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn (Nhiều tác giả, “Trao đổi
về
truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985
số
27 và 28). Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một
nửa.
Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những

truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng
đã
làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu
hình tiêu cực trong đời sống chúng ta (Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu
Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983) nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết
này
dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong
cách
miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này,
thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
7
để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời (Vương Trí
Nhàn
trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997).
Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi
nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những
mũi
thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công
nhưng
cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì
chính
họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn
sau.
2.3. Những bài viết về tác phẩm
Trong khoảng 10 năm (từ 1975 đến 1985) số lượng truyện ngắn in trên
các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên
cứu
một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động

không
nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự
nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của
các
tác giả: Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(1983), Bến quê (1985); Xuân Thiều với Gió từ miền cát (1985); Dương
Thu
Hương với Những bông bần li (1981); Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời
(1986); Lê Minh Khuê với Đoạn kết (1983), Một chiều xa thành phố
(1986)…và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ
quân
đội: Có một đêm như thế (1981), Thời gian (1985)…
Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và
báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này
phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ
thuật,
về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ
thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng
như
của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
8
Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các
cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các
cuộc
hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy: nhìn chung việc
nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn
đề.
Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả,

tác
phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986,
giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai
đoạn
1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là
những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại.
Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm
của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới.
Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi
ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-
1985.
Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo
sát
những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển
của văn xuôi nói chung.
3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu diện mạo và những đổi mới bước đầu của
truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung

hình thức biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau
chiến
tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 1975-
1985. Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi.
Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong khoảng 10 năm này rất nhiều, luận văn
sẽ không thể bao quát được hết. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn

9
thống kê, nghiên cứu những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và

thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải
thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có
tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng.
Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận
văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong
một
giai đoạn khá phong phú và phức tạp này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp
sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
5. Đóng góp của luận văn:
Luận văn cố gắng đi sâu làm nổi bật những dấu hiệu đổi mới của truyện
ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện. Hy vọng
luận
văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện
ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu
truyện ngắn ở những giai đoạn sau.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương:
Chương I: Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975- 1985.
Chương II: Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn 1975- 1985.
Chương III: Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 1975 -

1985.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
10
Phần nội dung
Chương I
Bối cảnh lịch sử và diện mạo
truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985
1. Bối cảnh lịch sử xã hội:
1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh:
Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước đã thu về một mối,
Nam - Bắc một nhà. Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về một nền tự do,
độc lập phải trải qua ngót nửa thế kỷ chiến đấu kiên cường đã trở thành
hiện
thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước hào hứng bước vào công
cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui chiến thắng, cả
dân
tộc phải đối mặt với hàng loạt khó khăn chồng chất. Đó là thời kỳ chúng ta
lâm vào khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ
nhiều bất cập đòi hỏi phải có sự đổi mới. Đất nước hoà bình nhưng cuộc
sống
lại vận hành một cách khó nhọc, nặng nề.
ở miền Bắc, những cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài. Gần như toàn bộ các
thành
phố thị xã đều bị đánh phá. Thậm chí có thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất
cả
các khu công nghiệp đều bị đánh phá, nhiều khu bị đánh tới mức huỷ diệt.
Với miền Bắc, dù chiến tranh đã chấm dứt sau hiệp đinh Pari năm 1973

nhưng do bị tàn phá nặng nề nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh,
khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành.
ở miền Nam, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành
hết sức khẩn trương. Việc thành lập chính quyền cách mạng và các đoàn thể
quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Chính quyền cách mạng
kêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
11
gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra
trình
diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt
động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài
phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công
tác
thông tin tuyên truyền cổ động.
Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình
hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh.
1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã
hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước
chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được
đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội
chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp
kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan
trọng
của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống
nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội
sẽ

gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng
lao
động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công
nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng
dân
tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
sự
bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 -
1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những
kết
quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ
phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
12
nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu
cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được
đảm
bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã
hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ
chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời.
Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm
tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn
Khải:
Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình
yên
tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên

trong.
Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại
chết
trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25].
1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc
Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do,
chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5-
1975
đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ
nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến
tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động
của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại (năm 1978). Không
những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi
cho
cách mạng Campuchia giành thắng lợi.
ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại
đến tình cảm của hai nước như: cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới,
rút chuyên gia… Nghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở
cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc
Trung Quốc phải rút quân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
13
Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã
bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp
tác với các nước láng giềng.
Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có
nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống
của văn học nước nhà.

2. Tình hình phát triển của văn xuôi
Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao
gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở đây chúng tôi chỉ đi
vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có
được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai
đoạn này.
Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử
đất nước: chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy
luật
không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày
của
nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền
văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm
hứng
chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này
đúng
với lý luận của Mác: ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội.
Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả.
Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì
bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công
chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người
đọc quay lưng lại với những sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời
gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. ở đó, âm
không truyền đi được.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
14
Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang
mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ
cũng tìm ra nguyên nhân: cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ

nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn
trong
chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con
người
dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất: sống - chết. Tất cả những quan hệ
đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến
mục tiêu duy nhất: chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã
thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường
nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự
nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời
thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến
tranh,
những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể,
giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như
trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn,
một
cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều
kiện
mà thực tế đặt ra.
Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải
qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy
còn
do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy
nghệ
thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết

ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương
thức tiếp cận và miêu tả thực tại.
Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng
khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác

của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng
chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
15
của cuộc kháng chiến ở tầm vóc và quy mô lớn như Ông cố vấn (Hữu Mai).
Độ lùi của thời gian cũng đã cho phép các nhà văn đi vào những mặt trái,
những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự hy sinh mất mát, cả những lầm
lạc,
hèn nhát, phản bội của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ - những người trong
văn
học cách mạng thường chỉ được phản ánh ở sự dũng cảm, ở mặt tốt, mặt phi
thường (Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh).
Tuy nhiên do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau, khuynh hướng
sử thi càng có xu hướng co hẹp lại nhường chỗ cho sự phát triển của khuynh
hướng thế sự. Lúc này, văn xuôi thực sự bước sang địa hạt của những vấn
đề
trong đời sống thường nhật. Đứng trứơc hiện thực này đòi hỏi người nghệ sĩ
phải thay đổi cách nhìn nhận, cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trong chiến
tranh
mọi việc đều được nhận thức theo một chiều (trắng - đen, tốt – xấu), ngay cả
việc đánh giá con người cũng thông qua những chuẩn mực toàn dân thì giờ
đây trong hoà bình, khi quy luật của chiến tranh đã hết hiệu lực, những
chuẩn
mực cũ không đáp ứng được hiện tại mới. Con người cần xây dựng những
chuẩn mực mới.
Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực sau chiến tranh, văn
xuôi có những điều kiện để phát triển. Nguyễn Khải viết: Tôi thích cái hôm
nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu
đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật làmột mảnh đất phì

nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ[25/74-75]. Trong ngổn ngang hiện
thực
đó, nổi lên những vấn đề được nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội,
tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong qúa khứ
Với Hai người trở lại trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi là người mở đầu
báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự sói mòn trong đạo đức của
con
người. Những bông bần li (1981) của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề
đạo đức và số phận con người trong một xã hội tiêu dùng. Sau những năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
16
chiến tranh liên miên, mỗi người dường như phải gồng mình lên đối diện
với
hàng loạt khó khăn chồng chất, hướng về những nhu cầu thiết yếu (ăn ở
mặc ) con người phát triển chưa thể cân bằng. Những khó khăn về đời
sống
ấy dễ gợi mở về một nhu cầu phiến diện. Chủ nghĩa thực dụng và văn hoá
tiêu
dùng hiện đại đã trở thành đối tượng có sức hấp dẫn đặc biệt[39/88]. Mặt
khác ở cây bút đầy nữ tính này nhu cầu hạnh phúc riêng tư của con người
cũng được diễn tả, bộc lộ một cách khẩn thiết. Giữa ranh giới buồn - vui,
được - mất của cuộc sống thì khát vọng hạnh phúc của con người là khôn
cùng. Bên canh đó, một số truyện của Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam, Ma
Văn Kháng lại tiếp cận vấn đề đạo đức từ góc độ gia đình. ở đó thường
diễn
ra hành trình tự ý thức, tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh trục
thời gian hai chiều: quá khứ và hiện tại.
Những năm sau chiến tranh, xã hội bắt đầu tỏ rõ sự trì trệ, yếu kém và
có phần bế tắc. Những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội thời kì

khủng hoảng cũng là mảng hiện thực nóng bỏng trong đời sống văn học.
Khi
tiểu thuyết Đứng trước biển (1982), Cù lao chàm (1985) của Nguyễn Mạnh
Tuấn xuất hiện đã gây phản ứng khác nhau trong dư luận bạn đọc, làm xôn
xao văn đàn, kéo độc giả đến gần với văn học. Bởi đó là một minh chứng
hùng hồn cho quan điểm của Đảng ta: văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh
của những nhà văn cho một cuộc sống tốt đẹp, cuộc đấu tranh bằng tác
phẩm văn học [81/439].
Nổi lên sóng gió dư luận hơn cả là khuynh hướng nhận thức lại một số
vấn đề của thời kì chiến tranh. Nhận thức lại không đồng nghĩa với việc xét
lại hay bắn súng đại bác vào quá khứ mà là nhờ vào kinh nghiệm, người ta
gạt bỏ cái sai lầm khỏi cái chủ quan nó bao để đi đến chân lí. Thời xa vắng
của Lê Lựu, Những tháng ngày đã qua của Xuân Thiều, Sống với thời gian
hai chiều của Vũ Tú Nam, Nguời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
17
Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm viết theo hướng này. Các tác phẩm
đó đã đặt ra vấn đề nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con
người và hoàn cảnh nhưng quan trọng hơn là con người tự nhận thức lại
chính
mình. Viết theo xu hướng này nhà văn cần có cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt và
một tấm lòng chân thành, như lời tâm sự của tác giả Võ Văn Trực viết lại
chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm
chúng
ta đã vấp phải để rồi đổ lỗi cho người này hay người kia mà cốt để chúng ta
đừng lặp lại những sai lầm ấy[74/5]. Do đó, trên lối đi mới này, các nhà
văn
đã đem lại cho bạn đọc những kiến giải thú vị, có khả năng thanh lọc tâm
hồn

con người.
Như vậy, thâm nhập vào đời sống văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, đặc
biệt từ nửa đầu những năm 80 trở đi có manh nha vật chất mới, còn rất
loãng,
tất nhiên, đang vận động, đang hình thành, đang tụ lại dần, khó nhọc, chậm
chạp, nhưng về xu thế lâu dài là hứa hẹn[51/10]. Đó là sự đổi mới trong
nhận
thức về hiện thực theo hướng nhìn sâu hơn hiện thực ấy. Đó cũng là cảm
hứng phân tích để chỉ ra nhiều mặt của hiện thực (bao gồm cả mặt sáng và
mặt tối), là khát vọng dân chủ và nhân đạo, hướng sự quan tâm vào con
người
cá nhân. Những chuyển đổi trong nội dung phản ánh này cũng đòi hỏi sự
đổi
mới trong hình thức thể hiện.
Sự khởi động của một thời kì văn học mới cũng ảnh hưởng bởi mảng
văn học dịch. Trước năm 1975, văn học nước ngoài đương đại được dịch và
giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là những sáng tác của các nước trong hệ
thống
xã hội chủ nghĩa. Sau 1975, hoạt động dịch, giới thiệu nền văn học đương
đại
Âu- Mỹ diễn ra sôi nổi. Các tác phẩm đoạt giả Nôben, các tác phẩm thuộc
nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau như tượng trưng, siêu thực, hiện
sinh,
hiện đại, hậu hiện đại được dịch rộng rãi. Ngay cả một số tác phẩm văn
học
các nước xã hội chủ nghĩa từng bị cấm như thơ Akhơmatôva, tiểu thuyết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
18
Paxtécnác cũng được bày bán. Mảng văn học dịch này có tác động không

nhỏ
tới quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ
thuật
của thanh niên. Nhiều nhà văn từng sáng tác trong thời kì chiến tranh nhận
ra rằng nếu tiếp tục sáng tác như cũ họ sẽ tự đánh mất độc giả. Nghĩa là
văn
học dịch đã làm cho các nhà văn Việt Nam thấy cần phải đổi mới cách
viết[40/56].
Tuy nhiên, khoảng mười năm sau chiến tranh, trong lĩnh vực sáng tác
việc đổi mới cách viết chưa trở thành một phong trào rầm rộ, chưa xuất
hiện
nhiều những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn là những nhà văn đi tiên phong
trong giai đoạn văn học tiền đổi mới này. Những sáng tác của họ góp phần
mở đường cho văn học đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc từ sau 1986.
3. Diện mạo của truyện ngắn
3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người.
3.1.1. Quan niệm về hiện thực
Theo Trần Đình Sử, thuật ngữ quan niệm trong nghệ thuật là một
khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm
hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm
hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn
ra
sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng nghệ thuật, thậm chí có
thể biến đổi hình dạng sự vật hoặc miêu tả không chính xác về đời
sống[77/8].
Do quan niệm thuộc về chủ thể sáng tạo nên mỗi nhà văn có quan
niệm riêng về hiện thực. Đó là sự nhận thức, đánh giá về hiện thực cuộc
sống
của nhà văn theo một quan điểm thẩm mĩ nhất định. Như thế không có nghĩa

là quan niệm nghệ thuật về hiện thực của nhà văn chỉ là nhận thức trừu
tượng, lí thuyết, chung chung. Trái lại, đó là cách nhìn, là sự cảm nhận về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
19
đời sống xã hội được nâng lên tầm khái quát nhưng vẫn mang hơi thở của
cuộc sống và vẫn gắn bó máu thịt với cuộc đời thực. Quan niệm về hiện thực
thể hiện sự khám phá, sự lí giải, trình độ chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn.
Và mỗi người thường có môt vùng đối tượng thẩm mĩ riêng mà tự nó đã ghi
đậm dấu ấn của chủ thể sáng tác.
Trong văn xuôi thời kì trước năm 1975, do yêu cầu của cách mạng nên
hiện thực được phản ánh trong tác phẩm chủ yếu là hiện thực chiến tranh.
Đó
là hiện thực của cuộc sống chiến đấu họăc vừa chiến đấu vừa sản xuất
nhiều
khi được tráng một lớp men trữ tình hơi dày. Nói như Nguyễn Minh Châu
hiện thực của văn học có khi không phải là hiện thực đang tồn tại mà là cái
hiện thực mọi người đang hi vọng, đang mơ ước .
Sau chiến tranh, khi hiện thực cuộc sống thay đổi, khi tư duy nghệ thuật
cũng dân chủ hơn thì biên độ của hiện thực ngày càng được mở rộng. Đó
không chỉ là hiện thực về đời sống chiến tranh được miêu tả dưới cái nhìn
mới mà còn là hiện thực về số phận của một cá nhân, một gia đình, một
dòng
họ sau những tổn thất to lớn trong chiến tranh, hay là hiện thực cuộc sống
trong thời kì khủng hoảng, bế tắc của xã hội. Cuộc sống được phản ánh vào
trong tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi
buồn của con ngưòi phần hậu chiến, là cuộc sống với tất cả cái sôi động
quyết liệt của cuộc đấu tranh cũng như cái đời thường vừa nhân hậu ấm áp,
vừa nhếch nhác lấm lem[36/12]. Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực
như vậy giúp nhà văn phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn hơn, chân thực

hơn. Văn xuôi vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào một cái nhìn đã
định trước để mở ra khả năng phong phú vô tận trong việc khám phá và thể
hiện đời sống. Nhà văn cũng có thể đi đến những miền khuất, những mặt
trái
của đời sống, đến với chiều sâu tâm tưởng, tâm linh của con người. Những
nơi mà trước đây trong chiến tranh họ ít có điều kiện để khai vỡ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
20
Nhìn lại những sáng tác trong chiến tranh, chúng ta nhận thấy văn học
đã cố gắng bám sát cuộc sống chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Điểm mạnh
trong những sáng tác của họ là giàu tính thời sự, có sức động viên và cổ vũ
lớn lao. Tuy nhiên sau chiến tranh xuất hiện những yêu cầu mới, yêu cầu tái
hiện lịch sử phải gắn liền với đòi hỏi đi sâu vào số phận và diễn biến của
con
người; viết về cuộc chiến tranh hôm qua phải đặt trong tương quan với
những
yêu cầu của cuộc sống hôm nay [39/209]. Với đặc thù của thể loại, truyện
ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh. Mặc

phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám
vào
các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở
những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước. Những hoàn
cảnh
ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ
đậm
nét trong nhiều truyện ngắn: Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi,
Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng, Ngày không bình thường của Phạm
Hoa, Người trong cuộc của Trung Trung Đỉnh ở đó, những phẩm chất

anh
hùng sáng ngời của người lính vẫn được khẳng định. Tuy nhiên chiến tranh
cũng là một cuộc kiểm nghiệm nghiêm khắc đối với con người, sàng lọc mọi
giá trị con người. Có anh hùng nhưng cũng có những kẻ hèn nhát, sợ chết,
phản bội hay gắng gỏi leo lên những bậc thang địa vị. Nhân vật Trí (Hai
người trở lại trung đoàn) vừa là một con người dũng cảm, thông minh
trong
chiến trận nhưng lại là kẻ thủ đoạn trong tình yêu. Song khi có được tình
yêu
thì sẵn sàng rũ bỏ nó, rũ bỏ cả đứa con mình để leo lên địa vị trung đoàn
trưởng. Bối cảnh chiến tranh ở truyện ngắn này không còn chiếm địa vị độc
tôn mà luôn song hành, đan xen với hành trình đi tìm hạnh phúc của các
nhân
vật. Chiến tranh nhiều lúc chỉ là cái nền để nhân vật bộc lộ tính cách của
mình. Tuy nhiên, cách xử lí vấn đề ở truyện ngắn này vẫn thiên về ca ngợi
con người anh hùng. Vì thế, cho đến cuối truyện tác giả vẫn để cho nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
21
Trí sống yên ổn với cương vị trung đoàn trưởng của mình mà không hề phải
nhận bất kì hình thức kỉ luật nào.
Đưa nhân vật vào trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh để từ đó
trình bày những diễn biến và số phận không giản đơn của con người là cách
các nhà văn lựa chọn khi viết về mảng hiện thực chiến tranh. Âm hưởng
chung ở những truyện ngắn như thế dù vẫn thiên về ca ngợi cái cao cả, cái
anh hùng của con người nhưng đằng sau đó là hình ảnh của cả dân tộc
trong
cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường. Truyện ngắn Chuyến xe đêm của Ma
Văn Kháng kể về hai vợ chồng người phóng viên phương Tây được một
người lính lái xe người Việt Nam đưa qua biên giới Campuchia. Hành trình

tuy không dài nhưng họ luôn phải đối diện với những bất hạnh khôn lường
bởi sự tấn công bất ngờ, hiểm ác của tàn quân Pôn pốt. Khi chiếc xe gần
đến
trạm gác cầu cuối cùng thì bị tấn công. Người lái xe bị trúng ba viên đạn
ngay
từ loạt tấn công đầu tiên. Trước khi bọn tàn quân sắp sửa phóng một quả
B41
để huỷ diệt cả xe thì anh nghển lên giống như quằn quại chân vẫn đặt hờ
trên chân ga, tay vẫn nắm chặt vành tay lái[54/427] đưa chiếc xe vuợt qua
cõi
chết, cứu sống vợ chồng người phóng viên. Hành động của anh khiến họ
hiểu
ra rằng một dân tộc vị tha, sống chết vì người khác, điều đó đã trở thành
một
đạo lí, một nguồn năng lượng vô tận[54/428], một sức mạnh diệu kì để vượt
qua mọi gian khổ. Điều mà nhà văn hướng đến không phải là sự mô tả chiến
tranh thông thường mà là sự cắt nghĩa cội nguồn đã làm nên chiến thắng.
Bảo Ninh lại xử lí hiện thực chiến tranh bằng cách đi vào những góc
khuất của tâm trạng, những bi thương của chiến trận trong những hoàn
cảnh
đặc biệt. Tryện ngắn Trại bảy chú lùn viết về cuộc sống của những người
lính hậu cần bị bỏ quên trong khi họ làm nhiệm vụ coi kho ở Trường Sơn.
Môi trường chiến tranh ở đây không có tiếng súng, không có kẻ thù cụ thể
nhưng giữa rừng già cô độc, họ đã phải chiến đấu với chính bản thân mình
để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên -
tnu.edu.vn
22
giữ vững tấm lòng nhân bản của người lính cũng như tâm hồn nhân văn của
họ. Tư tưởng đó sau này còn được nhà văn tiếp tục ở một khía cạnh khác

sâu
sắc hơn trong Nỗi buồn chiến tranh. Chính cách nhìn chiến tranh bằng
nhãn
quan văn học một cách nhân bản như thế đã đem lại sự mới mẻ so với
những
tác phẩm viết về chiến tranh trước đây.
Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn chỉ lấy việc mô tả chiến tranh làm tấm
gương lớn để con người tự soi ngắm lại chính mình và những người xung
quanh.Trong truyện ngắn Cơn giông, lí giải sự chiêu hồi kẻ thù của Quang,
Nguyễn Minh Châu cho rằng y là một con người luôn luôn tìm cách thoả
mãn
mọi thèm khát của bản thân mình nên khi cách mạng gặp khó khăn, y thành
kẻ chiêu hồi. Điều này dược nhà văn triển khai nhất quán trong mọi việc
làm,
mọi hành động suốt cuộc đời y. Nhưng chiến tranh chính là lúc y bộc lộ rõ
nét
nhất mặt thật của mình.
Còn nữ phóng viên Nguyên Bình (Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị

×