ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
BỘ MÔN ÚC HỌC
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN HỌC LỊCH SỬ ÚC:
Đề tài:
AUSTRALIA VỚI CHIẾN TRANH
VIỆT NAM (1965 – 1973)
Giảng viên hướng dẫn: Tiến sĩ Đỗ Thị Hạnh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Giang
Mã số sinh viên: 1656110037
Lớp học phần: 1810DPH03001
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2018
1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT
AATTV
Australian Army Training Team Vietnam
Đội Hướng dẫn/Đào tạo quân sự của Úc tại Việt Nam
RAR
Royal Australian Regiment
Trung đồn Hồng gia Úc
RAAF
Royal Australian Air Force
Lực lượng Khơng quân Hoàng gia Úc
3
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT ........................................................................................3
MỤC LỤC ......................................................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................6
3. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................... 8
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 8
4. Mẫu khảo sát ..........................................................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................8
6. Kết cấu của đề tài ...................................................................................................9
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................10
CHƯƠNG 1. NHỮNG NÉT SƠ LƯỢC VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1954 –
1975) .............................................................................................................................. 10
1. Nguồn gốc – bản chất của chiến tranh Việt Nam ...............................................10
2. Lực lượng lãnh đạo, lực lượng tham chiến trong chiến tranh Việt Nam ..........11
3. Diễn biến chiến tranh Việt Nam ...........................................................................11
4. Kết quả nhận định sơ bộ về chiến tranh Việt Nam .............................................12
CHƯƠNG 2. SỰ THAM CHIẾN CỦA AUSTRALIA TRONG CUỘC CHIẾN
TRANH VIỆT NAM (1965 – 1973) ............................................................................14
1. Nguyên nhân Australia tham chiến tại chiến tranh Việt Nam ........................... 14
2. Các mặt trận tham chiến chính của Australia trong chiến tranh Việt Nam ......20
3. Australia những năm tham chiến trong chiến tranh Việt Nam .........................25
4. Tác động của chiến tranh Việt Nam đến Australia .............................................29
KẾT LUẬN ..................................................................................................................31
PHỤ LỤC .....................................................................................................................32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................38
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Australia là một quốc gia đặc biệt rộng lớn nằm ở Nam bán cầu. Có rất nhiều điều
làm nên sự đặc biệt của Australia: về địa lý, là quốc gia duy nhất trên thế giới chiếm
trọn một lục địa trải dài trên cả hai đới khí hậu nhiệt đới và ơn đới gió mùa với đủ các
thảm thực vật phong phú chỉ sau rừng mưa Amazon và rừng nhiệt đới Đông Nam Á, về
nhân văn, là một lục địa láng giềng với châu Á, có nền văn hóa truyền thống của hơn
200 bộ lạc thổ dân gắn bó mật thiết với cư dân Đông Nam Á hải đảo, nhưng đại bộ phận
dân số Australia chiếm khoảng 90% lại là người nhập cư và những người có nguồn gốc
tổ tiên là người da trắng đến từ Anh, Mỹ và các nước Nam Âu khác. Về lịch sử, là một
trong những nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại được hình thành từ khoảng 30 –
50 ngàn năm trước nhưng Australia lại bị lãng quên suốt một thời gian dài trên bản đồ
thế giới với tên gọi Terra Australis Incognita (vùng đất vô danh rộng lớn phương Nam)
và chỉ được phát hiện vào khoảng thế kỷ XVII sau cả Tân thế giới của Columbus. Kể từ
khi những nhà thám hiểm Hà Lan đặt chân đến Bắc Úc và Nam Úc rồi bỏ ngỏ vùng đất
khô hạn, cằn cỗi bậc nhất thế giới này; và trong bối cảnh cần phải tìm kiếm một nhà tù
khổng lồ mới thay thế cho 13 thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ đã giành độc lập năm 1786,
thực dân Anh đã chính thức hợp thức hóa vùng đất “vơ chủ” Terra Australis Incognita
thành thuộc địa hình sự (penal colony) của mình qua chuyến thám hiểm sự di chuyển
của sao Kim của thuyền trưởng James Cook cũng như qua sự kiện thuyền trưởng Arthur
Phillip phất cao lá cờ Vương quốc Liên hiệp Anh tại vịnh Botany. Theo thời gian, với
sự phát triển của số lượng tù nhân được vận chuyển đến đây, được mãn hạn, sung công
vào các trang trại của các viên chức chính quyền, với nhu cầu tự túc lương thực ngày
càng tăng, tình hình kinh tế - xã hội phát triển ngày một phức tạp, đã đưa Australia dần
thốt khỏi tính chất của một thuộc địa “nhà tù khổng lồ” của nước Anh vào đầu thế kỷ
XIX, phát triển thành 4 khu thuộc địa, rồi 6 khu thuộc địa độc lập với nhau. Chính từ
đây, Australia đã bắt đầu nổi lên những cuộc tranh luận sôi nổi là tiền đề quan trọng để
một nhà nước Liên bang Khối Thịnh vượng chung Australia ra đời vào ngày 01/01/1901.
Có thể nói, cùng với guồng xoay của sự phát triển chủ nghĩa tư bản nói chung trên thế
giới, Australia cũng đã tận dụng ưu thế cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, liên tục cải tiến
kĩ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao động để phát triển nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa của mình. Bên cạnh đó, với ưu thế về nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào, phong
5
phú do nằm trên vành đai sinh khoáng châu Á – Thái Bình Dương, và ưu thế về vị trí
địa lý biệt lập với thế giới, không phải là chiến trường bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bất kỳ
cuộc chiến tranh thế giới nào, Australia đã khơng phải khó khăn vượt qua cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 mà gần như liên tục phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
từ 1919 – 1933.
Với rất nhiều nét đặc biệt như vậy, cịn có một sự kiện làm bước ngoặt thay đổi cả
quan hệ quốc tế cũng như chính sách đối nội, chính sách đối ngoại của Australia, dẫn
đến “cuộc tình mới mẻ, đằm thắm mà cũng khơng ít trắc trở” với Hoa Kỳ, dẫn đến sự
hình thành một nước Úc châu Á – Thái Bình Dương sẵn sàng đồng hành cùng Hoa Kỳ
và các nước Đông Nam Á “da vàng”, đó chính là chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975).
Chính vì lý do đó, việc tìm hiểu đề tài “Australia với chiến tranh Việt Nam (1965 –
1973)” trong thời gian học của học phần Lịch sử Úc là vô cùng cần thiết và quan trọng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Về Australia, tại Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu đã trình bày về Australia,
đặc biệt là những tài liệu dành cho sinh viên chuyên ngành Úc học như tác phẩm “Đường
vào Australia” (nhiều tác giả, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999), tác phẩm “Australia
xưa và nay” (Garry Disher, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999), tác phẩm “Quan hệ
quốc tế của Australia đối với Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai” (Đỗ Thị
Hạnh, NXB Giáo dục, 1999), và tác phẩm “Quan hệ quốc tế của Australia những năm
1990” (Garry Evans, NXB Giáo dục, 1999).
Trong đó, tác phẩm “Australia xưa và nay” đã dành hẳn chương thứ 12 và chương
thứ 13 cho các vấn đề như sự phát triển của chủ nghĩa lạc quan, giai đoạn chống Cộng
sản ở Australia dưới thời đại thủ tướng Menzies, mối quan hệ với châu Á thời kỳ 1960
– 1972, cũng như Australia những năm phản chiến và những phong trào đấu tranh xã
hội sôi nổi trong suốt những năm 1966 – 1972. Còn tác phẩm “Quan hệ quốc tế của
Australia đối với Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai” lại mô tả và phân tích
những diễn biến trong mối quan hệ Australia – Đông Nam Á dưới ảnh hưởng của cục
diện thế giới nói chung và sự biến đổi tình hình khu vực Đơng Nam Á nói riêng qua ba
giai đoạn: 1945 – 1972, 1972 – 1989, và 1990 – 1999, nội dung và những tác động của
những diễn biến mối quan hệ đó đến sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Australia
qua mỗi thời kỳ.
6
Nếu như trong tác phẩm “Đường vào Australia”, tác giả Nguyễn Tấn Đắc đã có
những góc nhìn về văn hóa, văn học, thi ca, và cả công tác nghiên cứu, ngoại giao giữa
Australia với châu Á và ngược lại, để chứng minh cho sự “Australia và châu Á cùng
nhìn về nhau”; thì tác giả Nguyễn Bảo Thanh Nghị trong cơng trình “Chính sách đối
ngoại của Australia; q trình tiến hóa và mục tiêu trong tương lai” đã nêu lên những sự
kiện nổi bật của thế giới trong thế kỷ XX đã trở thành những bước ngoặt buộc Australia
phải thay đổi chính sách đối ngoại của mình suốt từ khi chính thức trở thành thuộc địa
của Anh vào năm 1788 tới khi Liên Xô tan rã, hệ thống trật tự thế giới lưỡng cực Yalta
sụp đổ, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế của không chỉ Australia mà cả các nước
trên tồn thế giới. Trong khi đó, tác giả Đỗ Thị Hạnh trong bài viết “Mục tiêu trở thành
quốc gia Châu Á Thái Bình Dương của Australia nhìn từ góc độ lịch sử và quan hệ
Australia – châu Á” đã nói lên những mối liên hệ lịch sử của Australia với Anh (trước
năm 1945), với Mỹ (từ khi liên minh để ngăn chặn bước chân oanh tạc của phát xít Nhật
vào sâu hơn trong lục địa Australia đến hết cuộc chiến tranh Việt Nam), và với các nước
Đông Nam Á (từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay khi điều kiện kinh tế - chính
trị thế giới đều đã thay đổi). Từ đó, tác giả đã làm rõ những khía cạnh quyết định cho
thấy tính thực tiễn, hiệu quả ngày càng tăng theo thời gian trong việc lựa chọn mối liên
hệ hợp tác chiến lược, từ chỗ chỉ là mơ hồ, thiên về tình cảm hơn là lý trí khi theo Anh,
trở thành tiền đồn của châu Âu tại Thái Bình Dương, đến chỗ liên minh với Mỹ vì những
lợi ích quốc phịng – kinh tế thiết thực hơn, rồi cuối cùng là những liên minh thiết thực
hơn cả với các quốc gia Đông Nam Á trong mục tiêu hướng đến trở thành một quốc gia
châu Á – Thái Bình Dương thực sự.
Bên cạnh đó, về Australia với cuộc chiến tranh Việt Nam, trong các cuộc hội thảo
khoa học, trên các báo tạp chí nghiên cứu khoa học, một số bài viết cũng đã góp phần
làm sáng tỏ sự tham dự, gắn bó ngày một sâu sắc trong quan hệ Australia – châu Á như
bài viết “Australia tham dự cùng Đông Á: lịch sử phát triển của một định hướng đối
ngoại” (Trịnh Thị Định, tạp chí Phát triển Khoa học và Cơng nghệ, số XI/2017) hay bài
viết “Sự tiến hóa trong chính sách của Australia đối với Việt Nam” (Đỗ Thị Hạnh, kỷ
yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ 4,tr.134-152).
Nếu như tác giả Trịnh Thị Định đã trình bày lần lượt các quá trình chuyển hướng
từ châu Âu sang châu Á, từ hướng về Đông Á tới tham dự vào Đơng Á của Australia,
từ đó cho thấy định hướng hướng về Đơng Á trong chính sách đối ngoại của Australia
7
đã khơng ngừng phát triển và ngày càng hồn thiện cho đến nay; thì tác giả Đỗ Thị Hạnh
đã nêu lên những cột mốc chính, những động lực quan trọng có ý nghĩa đặc biệt quyết
định trong q trình tiến hóa về mặt chính sách của Australia đối với Việt Nam, từ đó
cho thấy sự thay đổi theo chiều hướng tích cực tăng dần trong nhận thức cũng như chính
sách của Australia đối với Việt Nam và sự gia tăng vị thế của Việt Nam trong chiến lược
Tham dự cùng Đơng Á của Australia.
Nhìn chung, trong tất cả các cơng trình, tác phẩm nghiên cứu nói trên, chiến tranh
Việt Nam (1954 – 1975) đều được đề cập đến như một trong những nhân tố quan trọng
dẫn đến sự thay đổi tình hình khu vực Đơng Nam Á, những biểu hiện chính trị - xã hội
ngay tại các quốc gia Đơng Nam Á – láng giềng gần gũi nhất với Australia bên cạnh
những nước Nam Thái Bình Dương, cũng như sự hướng Đơng ngày càng rõ nét hơn
trong chính sách đối ngoại của Australia từ những năm 70 của thế kỷ XX trở đi.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích nguồn gốc, bản chất, sơ lược diễn biến chính và kết quả của chiến tranh
Việt Nam (1954-1975) cũng như những tác động, hệ quả của nó đối với sự tham chiến
của quân đội Australia tại Việt Nam (1965-1973).
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: từ tháng 8 năm 1962 đến tháng 6 năm 1973
Phạm vi không gian: hai địa bàn tham chiến chủ yếu của quân đội Australia tại
Việt Nam – tỉnh Phước Tuy (khu vực Long Tân, Bình Ba, Núi Đất) và thành phố Sài
Gòn.
4. Mẫu khảo sát
Sơ lược nguồn gốc, bản chất, diễn biến chính, kết quả, ý nghĩa và tác động của
cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) với sự tham chiến của quân đội Australia tại
ba mặt trận chính Núi Đất, Long Tân, Bình Ba thuộc tỉnh Phước Tuy, Việt Nam Cộng
hòa (1965 – 1973)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
cơ bản là:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp nghiên cứu các tài liệu như: tạp
chí, báo cáo khoa học trong ngành, tác phẩm khoa học trong ngành, tài liệu lưu trữ, số
liệu thống kê, thơng tin đại chúng,.. có liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu
8
lịch sử nghiên cứu, kế thừa thành tựu mà những tác giả đi trước đã làm. Từ đó, tiết kiệm
được thời gian, công sức nghiên cứu và khai thác các khía cạnh khác nhau của các tài
liệu để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của đề tài tiểu luận giữa kỳ học phần Lịch sử Úc được kết cấu thành 2 chương, 8
tiết.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG NÉT SƠ LƯỢC VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
(1954 – 1975)
1. Nguồn gốc – bản chất của chiến tranh Việt Nam
Đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ và là cuộc chiến tranh chống
quân xâm lược Mỹ để bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam. Việt Nam đã giành được
độc lập từ năm 1945, nên cuộc chiến tranh này (cũng như cuộc chiến chống Pháp từ năm
1945 đến 1954) không phải là cuộc chiến giành độc lập mà là cuộc chiến giữ gìn độc
lập và bảo vệ Tổ quốc, chống sự xâm lược và chiếm đóng của Mỹ ở miền Nam Việt
Nam, giành lại hoàn toàn độc lập chủ quyền dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.
Bản chất cuộc chiến này là một cuộc chiến tranh tự vệ, đánh đuổi giặc xâm lược
từ bên ngoài, giữa quân dân Việt Nam ở cả ba miền Bắc – Trung – Nam và gần 60 vạn
quân viễn chinh từ Hoa Kỳ cùng các chư hầu, ngụy quân của họ.
Theo hiệp định này, vĩ tuyến 17 khơng phải là làn ranh có ý nghĩa về lãnh thổ hay
chính trị. Hiệp nghị này khơng có ý nghĩa chia đơi đất nước về lãnh thổ và chính trị. Bản
thân hiệp định Genève 1954 khơng hề chia cắt đất nước thành hai quốc gia. Đây là hiệp
định lập lại hịa bình, độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương, Pháp rút quân
trong 2 năm và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956.
Tổng kết nội dung cơ bản của Hiệp ước Genève về Đông Dương:
Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam – Campuchia – Lào.
Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên tồn chiến trường Đơng Dương.
Sơng Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt
Nam làm hai vùng tập trung quân sự. Chính quyền và qn đội Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa (bao gồm cả người Nam Bộ) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên
hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.
300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung.
Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả
nước để thống nhất lại Việt Nam.
10
Nhưng khơng có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được, Mỹ đã từ chỗ giật dây Pháp
sau cánh gà của cuộc chiến tranh Đơng Dương chính thức nhảy hẳn ra sân khấu, xuyên
tạc nội dung hiệp định và phá hoại việc thi hành hiệp định. Ém nhẹm, xuyên tạc những
nội dung chính của hiệp định với người dân, phá hoại các điều khoản chính trong hiệp
định, và nghiêm trọng nhất là điều khoản: “Đường ranh giới quân sự là tạm thời và
không thể diễn giải bất cứ bằng cách nào đó là một biên giới phân định về chính trị hay
đất đai”.
Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp
lý, bất lợi cho việc xâm lược và chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ.
2. Lực lượng lãnh đạo, lực lượng tham chiến trong chiến tranh Việt Nam
Ngụy quyền và ngụy quân Sài Gòn đầu tiên do thực dân Pháp lập ra trong cuộc
chiến nhằm tái chiếm thuộc địa Đơng Dương của họ, sau đó được Mỹ duy trì. Ngụy
quyền Sài Gịn khơng có thực quyền, là những bù nhìn, con rối của lần lượt hai chính
phủ Pháp – Mỹ. Các ngụy quyền ở miền Nam dưới bàn tay hai mẫu quốc chưa bao giờ
hội đủ các nhân tố, đặc tính, thực lực, thực quyền, giá trị của một quốc gia đúng nghĩa,
của một đất nước có đầy đủ chủ quyền, độc lập về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.
Cả bộ máy ngụy quyền được thực dân tạo dựng một cách bất hợp pháp, vi phạm
nghiêm trọng luật pháp Việt Nam (theo Hiến pháp 1946 và 1959), và vi phạm tất cả các
hiệp định pháp lý mà các bên liên quan đã ký (theo hiệp định Genève 1954). Pháp – Mỹ
đã dựng và nuôi những “quốc gia” lên trên quốc gia Việt Nam đã độc lập tự chủ từ năm
1945. Họ đã dựng và nuôi những “nhà nước” lên trên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã thành lập từ 1945. Họ tạo ra những “Quốc hội” lên trên Quốc hội đã được tổ chức
bầu cử toàn dân toàn quốc vào năm 1946.
Đến năm 1969, số lượng thực binh Mỹ ở Việt Nam đã lên đến hơn 55 vạn quân.
3. Diễn biến chiến tranh Việt Nam
Ngày 2/8/1964, hải quân và không quân Mỹ xâm phạm vịnh Bắc Bộ và tấn công
bắn hư 3 tàu chiến của Việt Nam, gây thương vong cho 10 chiến sĩ hải quân Việt Nam.
Ngày 4/8/1964, người Mỹ ra một cuộc tấn công trả đũa của Hải quân Nhân dân Việt
Nam, rồi cơng bố nó như là một dữ kiện có thật. Sau đó tổng thống Lyndon Johnson và
chính phủ Mỹ đã gọi “trận hải chiến” hư cấu này là “Gulf of Tonkin incident” (Sự kiện
Vịnh Bắc Bộ).
11
“Sự kiện” này sau đó đã trở thành danh nghĩa chiến tranh của đế quốc Mỹ, trở
thành lời biện hộ cho cuộc chiến của giới diều hâu Mỹ, và thuyết phục được Quốc hội
Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á, tạo cơ sở pháp lý theo luật pháp Hoa Kỳ để leo
thang chiến tranh xâm lược, đổ quân vào Việt Nam cứu nguy hệ thống thuộc địa kiểu
mới đang rạn nứt, lung lay và trên đà sụp đổ.
Đây là cơ sở để tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson tiến hành chiến tranh phá hoại
tại miền Bắc Việt Nam và leo thang chiến tranh, bắt đầu chuyển đổi chiến lược từ chiến
tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt
nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa bốn bên, hai
bên là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng một số đồng minh khác
của Hoa Kỳ như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippines tham chiến trực
tiếp, hai bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam tại miền Nam Việt Nam phối hợp cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được sự viện
trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô và Trung
Quốc. Cuộc chiến tuy được Hoa Kỳ và các nước đồng minh gọi là chiến tranh Việt Nam
do chiến sự chủ yếu tại Việt Nam nhưng lại lan ra toàn cõi Đơng Dương, lơi cuốn vào
vịng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó
cuộc chiến cịn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và do đổi thủ chính là
Hoa Kỳ nên cuộc chiến thường được gọi là Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ba
nước Đông Dương.
4. Kết quả nhận định sơ bộ về chiến tranh Việt Nam
Tại Bến Tre, ngày 17/1/1960, “Đồng khởi” nổ ra ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre), sau
đó nhanh chóng lan nhanh tồn tỉnh Bến Tre, phá vỡ từng mảng lớn chính quyền của
địch. Đồng khởi nhanh chóng lan ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung
Trung Bộ. “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước ngoặt của cách mạng miền Nam,
chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên làm chiến tranh cách mạng. Chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của chế độ thực
dân mới của Mĩ ở miền Nam, mở ra thời kì khủng hoảng của chế độ Sài Gòn.
Tháng 1/1963, giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Ấp Bắc; chứng minh quân dân
miền Nam hồn tồn có khả năng đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ, mở ra
phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Trong đông – xuân 1964 – 1965, kết
12
hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, các lực lượng vũ trang giải phóng đẩy mạnh
tiến cơng địch, giành thắng lợi trong các chiến dịch Bình Giã (Bà Rịa), An Lão (Bình
Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xồi (Biên Hồ), đẩy qn đội Sài Gịn đứng trước
nguy cơ tan rã. Phong trào đô thị và phong trào nổi dậy phá “ấp chiến lược” tiếp tục phát
triển mạnh. Đến tháng 6/1965, địch chỉ cịn kiểm sốt được 2.200 trong tổng số 16.000
ấp. Xương sống của “Chiến tranh đặc biệt” bị bẻ gãy. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của Mĩ bị thất bại, buộc Mĩ phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp
đưa quân Mĩ vào tham chiến ở miền Nam.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, diễn ra đồng loạt trên
toàn miền Nam, trọng tâm là các đô thị, mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân
chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng 31/01/1968 (Tết Mậu Thân);
làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “Phi Mĩ hóa chiến tranh”;
ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán Pari để bàn về chấm dứt chiến
tranh; mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 chọc thủng 3 phòng tuyến mạnh nhất của
địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đơng Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn
và đơng dân. giáng địn nặng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải
tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược.
Sau thắng lợi của các địn tiến cơng chiến lược ở Tây Ngun và Huế – Đà Nẵng,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện
hồn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”; quyết định mở cuộc tổng cơng kích,
tổng khởi nghĩa vào Sài Gịn – Gia Định; nhấn mạnh: “Phải tập trung nhanh nhất lực
lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất, giải phóng miền Nam trước mùa mưa”. 17h ngày
26/4, năm cánh quân, với lực lượng 5 qn đồn, nhanh chóng vượt qua các tuyến phịng
thủ vịng ngồi tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.
Cuộc chiến này chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Tổng thống
Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hịa đầu hàng qn Giải phóng Miền Nam Việt
Nam, trao chính quyền lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam. Quân Mỹ cũng rút toàn bộ lực lượng quân sự và di tản người Mỹ khỏi ba nước
Đông Dương sau sự kiện này.
13
CHƯƠNG 2. SỰ THAM CHIẾN CỦA AUSTRALIA TRONG CUỘC
CHIẾN TRANH VIỆT NAM (1965 – 1973)
1. Nguyên nhân Australia tham chiến tại chiến tranh Việt Nam
Thế chiến 2 đã thay đổi nhận thức của quân đội Australia, chuyển hướng tư tưởng
phòng thủ của Australia theo hướng thoát Anh và hướng Á. Việc hệ thống phòng thủ
bất khả xâm phạm Singapore bị thất thủ và thành phố Darwin thủ phủ của Lãnh thổ đặc
khu phương Bắc bị ném bom đã cảnh tỉnh người dân Úc phải bảo đam tương lai của họ
ở ngay chính lãnh thổ của mình. Nội dung này trở thành ưu tiên hàng đầu trong chính
sách đối ngoại của Australia, trở thành nguồn gốc của chính sách Phịng thủ tiền tiêu,
của những cuộc tranh luận gay gắt trong suốt những năm 50, 60 của thế kỷ XX giữa
những người kêu gọi phịng thủ vũ khí hạt nhân và xây dựng Chính sách phịng thủ khu
vực với sự tham gia của Hoa Kỳ để tự vệ và những người khuyến khích một hình ảnh
Australia trung lập, khơng liên kết và chỉ nên tự phòng thủ quốc gia. Năm 1954,
Australia tham gia SEATO. Nhưng những vấn đề trong thời kỳ này đã đưa đẩy Australia
đi theo chiều hướng khác, mà ít bận tâm đến vấn đề an ninh Đông Nam Á vốn phải là
vấn đề cốt lõi được quan tâm sau Thế chiến thứ hai. Năm 1951, Australia đã đạt được
hiệp ước ANZUS với Hoa Kỳ và đây đã trở thành kim chỉ nam cho chính sách an ninh
của Australia sau này, trong đó có việc gửi quân đội đến hỗ trợ Nam Triều Tiên cũng
như Nam Việt Nam. Sự thất thủ của tuyến phòng thủ bất khả xâm phạm của Anh tại
Singapore cùng với khủng hoảng kênh đào Suez đã càng chứng tỏ quyết định thoát Anh
theo Mỹ, dựa vào Mỹ để phòng thủ quốc gia của Australia là đúng đắn, hoạt động giao
thương của Úc và Ai Cập đã được gia tăng. Nhờ đó, cuối cùng, vấn đề an ninh Đông
Nam Á cũng đã được chú trọng hơn.
Chiến tranh Việt Nam đã làm cho việc lựa chọn Anh hay Mỹ của Úc bớt phức tạp
hơn, vì thực tế cả hai đều phải thực sự tích cực ủng hộ cho cuộc đấu tranh này. Và sự
chuyển giao mối ràng buộc từ Úc – Anh sang Úc – Hoa Kỳ đã được nhanh chóng tăng
tốc hơn dưới thời Thủ tướng Úc Harold Holt và Tổng thống Hoa Kỳ Johnson. Quan
niệm về phịng thủ tiền tiêu đã được giải thích xun suốt qua hai thời kỳ thủ tướng Úc
Menzies và Harold Holt là “Với vùng lãnh thổ rộng lớn và dân cư ít ỏi của chúng ta,
chúng ta không thể chống cự nổi sự thách thức của làn sóng Cộng sản chủ nghĩa đang
dấy lên mạnh mẽ, trừ phi chúng ta hợp tác với những người bạn hùng mạnh, đặc biệt là
Vương quốc Anh và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ… Nếu nhìn nhận một cách đúng đắn thì
14
vị trí của Mã Lai mang tính sống cịn, vơ cùng sống còn đối với nền phòng thủ của chúng
ta, hơn tất thảy mọi vị trí khác dọc bờ biển Australia, do đó chúng ta phải thực sự xem
vấn đề phòng thủ của Mã Lai là chuyện của chúng ta”
Giai đoạn này Australia bắt đầu hành động độc lập trong quan hệ với các nước
láng giềng châu Á. Một cột mốc quan trọng là vào năm 1950, tại Hội nghị các ngoại
trưởng Khối Thịnh vượng chung ở Colombo, Srilanka. Hội nghị đã được triệu tập để tập
trung vào những nhu cầu của các quốc gia châu Á, và nó đã đưa đến nền tảng của sự ra
đời một tổ chức nhằm thúc đẩy những nỗ lực đồn kết liên chính phủ đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của các quốc gia thành viên ở châu Á – Thái Bình Dương. Đó được
gọi là kế hoạch Colombo.
Sự xa cách về địa lý với nước Anh đến lúc này theo nhà nghiên cứu Beeson, bị coi
như bị rơi vào tình trạng biệt lập và từ góc độ an ninh quốc phòng là sự yếu thế của cả
một đất nước. Lá chắn an ninh của Anh không thể phát huy tác dụng đối với Australia
do nước Anh phải tập trung mọi nỗ lực cho những vị trí chiến lược ở Bắc Phi và châu
Âu. Ngay tại Thái Bình Dương, quân đội hoàng gia Anh liên tiếp gặp thất bại; hai chiến
hạm của Anh bị đánh chìm ngay từ những ngày đầu của Chiến tranh Thái Bình Dương;
tiếp sau đó lực lượng quân đội Anh bị đánh bật ra khỏi các thuộc địa của Anh ở Đông
Nam Á, căn cứ hải quân của Anh ở Singapore, một biểu tượng sức mạnh của Anh ở Thái
Bình Dương bị rơi vào tay Nhật Bản. Thực tế trên buộc các nhà lãnh đạo Australia nhìn
nhận lại mơi trường an ninh và khu vực lợi ích chiến lược quốc gia của mình. Tuy nhiên,
cùng với cục diện Chiến tranh lạnh xuất hiện trong quan hệ quốc tế, những diễn biến
của tình hình an ninh khu vực được Australia nhìn nhận dưới lăng kính của Chiến tranh
lạnh. Tại khu vực Đông Á, sự tồn tại và phát triển của các nhà nước xã hội chủ nghĩa
như Trung Quốc, Việt Nam được nhìn nhận là nguy cơ trực tiếp và lớn nhất đối với
Australia. Cũng do những ám ảnh về nguy cơ cộng sản, nhất là cộng sản Trung Quốc
mà Australia có cái nhìn phiến diện về bản chất chính trị, xã hội của những sự kiện xảy
ra ở châu Á. Điều đó dẫn đến một thực tế là sự quan ngại về môi trường an ninh khu
vực Đơng Á lại được Australia nhìn nhận tham chiếu từ góc độ tương quan chiến lược
tồn cầu giữa hai khối do Mỹ và Liên Xô đứng đầu. Tự coi là một phần của Liên minh
phương Tây, Australia thấy có nghĩa vụ góp phần cùng các nước phương Tây ngăn chặn
sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á, nhằm làm tăng thế và lực của phương
Tây tại khu vực Đơng Á. Như một phần của chính sách ngăn chặn do Mỹ khởi xướng,
15
Australia cũng đưa ra chiến lược “Phòng thủ tiền tiêu – Forward Defense Policy” với
những biểu hiện ở việc đưa quân cùng Anh chống phong trào du kích cộng sản ở Mã
Lai 1955-1960, đưa quân sang tham chiến tại miền Nam Việt Nam (1965- 1973). Quan
hệ của Úc với Anh và Hoa Kỳ đều đã thay đổi qua thế chiến 2. Quan hệ Úc Anh đã từng
rất khắng khít và Úc đã từng coi Anh như nước mẹ vĩ đại như người bảo trợ phụ thuộc
của họ. Tuy nhiên, sau thế chiến, thái độ của Úc đã thay đổi với Anh và các mối liên hệ
của họ với Hoa Kỳ lại gia tăng một phần vì Hoa Kỳ đã giúp Úc trong hoạn nạn trong
suốt thế chiến 2 khi Úc bị trực tiếp de dọa. Nếu như trong quá khứ Úc đã từng chiến đấu
vì nước Anh, thì sau thế chiến 2, họ đã chiến đấu vì Hoa Kỳ, các cuộc chiến như chiến
tranh Nam – Bắc Triều (1950 – 1953), chiến tranh Nam – Bắc Việt (1962-1975).
So với tất cả các nước Đông Nam Á khác, Australia thiếu hẳn sự hiểu biết lẫn quan
hệ lịch sử truyền thống với Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù năm
1940 Australia đã thừa nhận tầm quan trọng của Đông Dương như một căn cứ tiền tiêu
giữa Nhật Bản xuống gần hơn với các thành phố ở khu vực phía Bắc Australia, song do
Đơng Dương thuộc Pháp – một trong những đối thủ cạnh tranh với đế quốc Anh về
nhiều mặt, vả lại các nước thuộc địa thuộc Pháp thường chỉ được có quan hệ hướng về
chính quốc, ít có cơ hội phát triển mối quan hệ giao thương giống như Australia cũng
đã từng một thời phải vận chuyển hàng hóa tới London chứ khơng được thiết lập quan
hệ buôn bán song phương trực tiếp với quốc gia nào cả.
Đầu năm 1954, nhiều nhà lập pháp Mỹ đã thấy rõ sự thất bại thê thảm trong tham
vọng tái thuộc địa hóa Đơng Dương của người Pháp, sau khi họ mất quyền kiểm soát
khu vực vào tay Nhật Bản trong Thế chiến II. Quân đội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh, đang gần kề ngay trước một chiến thắng chấn động địa
cầu với quân đội Pháp trên chiến trường Điện Biên Phủ.
Chỉ trong vòng vài tuần, đại diện từ các cường quốc trên thế giới đã lên kế hoạch
họp mặt tại Geneve để bàn bạc một thỏa thuận chính trị về cuộc chiến tại Việt Nam. Các
quan chức Mỹ đã lo sợ rằng một chiến thắng của lực lượng được cụ Hồ lãnh đạo, cùng
một một thỏa thuận tại Geneva, sẽ mở đường cho một chính quyền theo chủ nghĩa cộng
sản nắm quyền kiểm sốt tồn bộ lãnh thổ Việt Nam. Nhằm lơi kéo sự ủng hộ của Quốc
hội và công chúng Mỹ tăng mức viện trợ cho quân Pháp, tổng thống Eisenhower đã tiến
hành buổi họp báo lịch sử vào ngày 07/04/1954.
16
Ông đã dành phần lớn thời gian của bài diễn văn để diễn giải về tầm quan trọng
của Việt Nam đối với nước Mỹ. Đầu tiên là tầm quan trọng về kinh tế, ông khẳng định
“giá trị của nguồn sản xuất (tại Việt Nam – NV) về các nguyên vật liệu cần thiết cho thế
giới” (như cao su, sợi đay và lưu huỳnh, …). Ông cũng nhắc đến “viễn cảnh nhiều người
phải sống dưới một chế độ độc tài, đe dọa đến thế giới tự do”.
Cuối cùng, Tổng thống Mỹ nhấn mạnh, “cần phải nhìn nhận một cách rộng hơn
dựa trên ngun tắc sụp đổ kiểu đơ-mi-nơ”. Ơng giải thích thêm, “khi có một chuỗi các
qn bài đơ-mi-nơ được xếp sẵn, nếu đánh ngã quân cờ đầu tiên, hệ quả đối với quân cờ
cuối cùng là không thể tránh khỏi, và q trình này sẽ diễn ra vơ cùng nhanh chóng”.
Theo thuyết này, nếu Mỹ khơng can thiệp để những người cộng sản "chiếm cứ" miền
nam Việt Nam thì đó sẽ là quân bài domino làm cho Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanmar "sụp đổ vào tay cộng sản" và sẽ tạo lợi thế lớn cho các phong trào cộng sản
tại Châu Á đe dọa các khu vực sống còn còn lại của "thế giới tự do". Eisenhower còn
cho rằng, ngay cả Nhật Bản cũng sẽ bị đe dọa khi quốc gia này cần Đơng Nam Á vì mục
đích thương mại. Theo hệ quả của thuyết domino, Mỹ tự thấy cần phải giúp đỡ các đồng
minh chặn đứng chủ nghĩa cộng sản tại miền Nam Việt Nam và Đơng Dương. Đó là tiền
đề để giải thích cho sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào Chiến tranh Đông Dương
và Chiến tranh Việt Nam và sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Mỹ
tại chiến trường Đông Dương.
Nhà sử học Mortimer T. Cohen trích dẫn báo cáo của CIA rằng 80% dân số Việt
Nam sẽ bầu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và khơng một ai có thể thắng ông nếu nếu tổng
tuyển cử thống nhất đất nước diễn ra. Phía Mỹ quyết tâm ngăn chặn điều này và viện
trợ cho chính phủ Quốc gia Việt Nam (sau này trở thành Việt Nam Cộng hòa) để chia
cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành một tiền đồn chống cộng thân Mỹ, lập phòng
tuyến ngăn chặn Chủ nghĩa Xã hội lan xuống Đông Nam Á.
Những phát ngôn của Eisenhower không mang lại tác động trực tiếp. Một tháng
sau, lực lượng lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản đã giành được chiến thắng tại Điện Biên
Phủ. Hiệp định Geneva cũng nhất trí để chính quyền lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh kiểm
soát miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, về dài hạn, tuyên bố của Eisenhower về Học thuyết
Đô-mi-nô đã tạo nên những nền tảng đầu tiên cho sự can dự của Mỹ tại Việt Nam. Cả
hai tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson đều đã sử dụng học thuyết này
để tạo tính chính danh cho những lời kêu gọi tăng cường trợ giúp kinh tế và quân sự cho
17
chính quyền miền Nam Việt Nam, với đỉnh điểm là sự can dự trực tiếp của quân đội Mỹ
vào năm 1965.
Chính phủ Mỹ đã bỏ qua thực tế là phong trào Việt Minh là một phong trào giải
phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân vì sự độc lập của Việt Nam, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Lao động Việt Nam - một đảng được đại đa số nhân dân Việt Nam ủng hộ do
sự lãnh đạo thành công trong kháng chiến chống Pháp. Do đó, chính phủ Mỹ đã kiên
quyết chống lại phong trào Việt Minh cũng như tìm cách để chia cắt, gây phương hại
đến sự độc lập thống nhất của Việt Nam. Theo nhiều nhà phân tích, “Thuyết domino”
chỉ là chiêu bài của chủ nghĩa thực dân mới với mục đích thực sự là khống chế các quốc
gia trong tầm ảnh hưởng của Mỹ. Đến mùa xuân năm 1995, cựu Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Robert McNamara cũng đã phải thừa nhận rằng “Thuyết domino” là sai lầm.
Australia hồn tồn có lí do để tin tưởng vào học thuyết Domino của Mỹ. Từ năm
1945 Đông Nam Á đã trở thành lò lửa xung đột được tạo nên bởi sự kết hợp phức tạp
của Chiến tranh Lạnh, phong trào giải phóng dân tộc và cả sự cạnh tranh cục bộ địa
phương luôn thường trực. Năm 1964, khu vực Đông Nam Á như đứng bên bờ vực. Khi
Malaysia phải đối mặt với một cuộc chiến từ Indonesia, nơi Đảng cộng sản lớn thứ ba
trên thế giới đang cố gắng gia tăng ảnh hưởng của mình. Mặc dù khơng phải là cộng sản,
nhưng Tổng thống Sukarno của Indonesia đã nhận vũ khí từ Liên Xơ và khơng ngại bày
tỏ những liên hệ trong hệ tư tưởng của ông gần gũi với Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và
Bắc Việt Nam. Những căng thẳng giữa bộ máy chính quyền thống trị Mã Lai tại Kualar
Lumpur với bộ phận người Hoa tại thành phố thủ phủ Singapore đã dẫn đến sự ly khai
của Singapore khỏi Mã Lai vào tháng Tám năm 1965. Thái Lan và Philippines cũng có
những cuộc nổi dậy ngay trong nước của họ, cũng như những láng giềng bất ổn cao.
Để vừa bảo vệ, củng cố lợi ích an ninh phịng thủ cho chính Australia vừa thắt chặt
thêm quan hệ đồng minh gắn bó giữa Canberra và Washington, Australia đã tiếp nhận
theo đuổi các kế hoạch của Mỹ liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Thoạt nhìn, việc
Australia quyết định đưa quân đội chiến đấu đến Nam Việt Nam dường như là kết quả
của quan hệ đồng minh thân thiết, và có phần phụ thuộc của quốc gia này với Mỹ. Nhưng
ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và ủng hộ Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam chỉ là phần
nổi của tảng băng, cịn ngun nhân cốt lõi lại chính từ nhu cầu tự vệ - phòng thủ quốc
gia của Australia. Trong bổi cảnh và cục diện của Chiến tranh lạnh ở Châu Á, Australia
hình dung bộ bàn cờ domino tại Đông Nam Á đến Australia như sau: Nam Việt Nam là
18
quân cờ đầu tiên của “bàn cờ” này, còn Australia là quân cuối cùng, nếu quân cờ đầu
tiên rơi vào sự kiểm soát cùa chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc hàng loạt quân cờ còn lại
sẽ liên tiếp, lần lượt sụp đổ. Đó sẽ là điều kinh hãi với cả đất nước Australia – nơi đã
nuôi dưỡng hàng trăm năm nỗi căm thù, khiếp sợ người Châu Á và đã hơn nửa thế kỷ
theo đuổi những đạo luật góp phần hình thành chính sách “Nước Úc trắng” kỳ thị người
da màu. Việt Nam khơng cịn là vùng đất mà Australia “khơng có lợi ích quốc gia trực
tiếp hay có giá trị nào.. “, ngược lại, là nơi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với an ninh
- phòng thủ quốc gia; vì thế Australia phải đưa 60 ngàn lượt con em của mình đến đó
trực tiếp chiến đấu để bảo vệ nước nhà. Như đã phân tích, nguồn cơn chính dẫn đến việc
Australia quyết định tham chiến ở Việt Nam chính là từ nhận thức có tính cố hữu của
Australia về Châu Á - nơi mà Australia luôn nuôi dưỡng một thứ tình cảm sợ hãi, xa lạ,
dè chừng và đưa đến những hậu quả, bài học nặng nề, sâu sắc cho Australia. Song, cũng
chính vì vậy, một cách logic, sự thay đổi, liều chỉnh nhận thức của Australia về Châu Á
cũng như Việt Nam đã diễn ra dưới tác động khá lớn của những bài học được Australia
rút ra từ chiến tranh Việt Nam. Chính Australia đã nhận ra sự sai lầm trong nhận thức
khi hình dung ra viễn cảnh Việt Nam - theo sự giật dây của Trung Quổc, có thể đe dọa
trực tiếp lợi ích an ninh - phòng thủ của Australia và do vậy đã quyết định đưa quân vào
dải đất nhỏ be, vô tội này theo cái gọi là chính sách “ Phịng thủ tiền tiêu” (Forward
Defence) nhằm ngăn ngừa, triệt tiêu mối đe dọa (tưởn g tượng) đó.
Nếu ANZUS là hịn đá tảng cho chính sách đối ngoại của Australia thì SEATO là
cơ sở cho chính sách Phịng thủ tiền tiêu của Australia, do đó từ quan điểm của chính
sách Phịng thủ tiền tiêu, Australia đã quyết định tham chiến tại Việt Nam.
Tuyên bố chính thức của thủ tướng Australia Menzies về quyết định tham chiến
tại Việt Nam của Australia trước Quốc hội Liên bang: “Việc chúng ta quyết định gửi
một tiểu đồn tới Nam Việt Nam được xem như đóng góp thiết thực nhất chúng ta có thể
làm để phịng thủ khu vực vào thời điểm này. Việc cộng sản tiếp quản Nam Việt Nam sẽ
là mối đe dọa quân sự trực tiếp với Australia và tất cả các nước Đông Nam Á. Việc đó
phải được nhìn nhận như một phần của cuộc tấn công của Trung Cộng vàokhu vực giữa
Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương”(Vietnam: Recent statements of Australia policy,
1965)
Trong môi trường bất ổn này, rất nhiều người Australia cân nhắc về một cam kết
quân sự nhỏ, kết hợp sự ủng hộ chính trị lẫn ngoại giao mạnh mẽ với Hoa Kỳ, một khoản
19
chi phí bổ sung nho nhỏ để chi trả cho chính sách phịng thủ chiến lược Australia, cho
hiệp ước ANZUS. Quyết định gửi quân năm 1962 của chính quyền Canberra được thúc
đẩy bởi những lợi ích kinh tế chiến lược. Hiệp ước ANZUS năm 1951 được kỳ vọng sẽ
thể hiện một cam kết với các chiến lược chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam rằng Australia
sẽ đảm bảo một nền phịng vệ tồn diện hơn nữa chống cộng cũng như một mối quan hệ
thương mại ngày càng được cải thiện. Năm 1966, người kế nhiệm Menzies, Harold Holt,
đã thêm một tiểu đoàn như lời cam kết của Australia khẳng định với Nhà Trắng rằng
Australia luôn đồng hành cùng Tổng thống Lyndon Baines Johnson, đã tổ chức một
chuyến thăm thành công lần đầu tiên của một tổng thống đương nhiệm tới viếng thăm
Australia cũng như đã có một chiến thắng tranh cử to lớn cho chính sách Việt Nam của
ơng. Đến đầu năm 1967, ông đã bổ sung nhiều đơn vị hơn nữa, đưa Australia trở thành
quốc gia cung cấp lục quân, hải quân và không quân lớn thứ ba trong chiến tranh Việt
Nam. Ban đầu, quyết định nhanh chóng lan rộng và được sự ủng hộ của truyền thông và
cộng đồng. Tuy nhiên, nó đã bị phản đối bởi Đảng Lao động, nhiều liên đoàn binh sĩ
hơn và một phái các nhóm nhỏ phản chiến.
2. Các mặt trận tham chiến chính của Australia trong chiến tranh Việt Nam
Australia ủng hộ Nam Việt Nam trong những năm đầu 1960 để theo đuổi những
chính sách của Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn làn sóng cộng sản chủ nghĩa từ Âu sang Á.
Trong các năm 1961, 1962, lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam là Ngơ Đình Diệm đã
nhắc lại u cầu cố vấn an ninh với Hoa Kỳ và các nước chư hầu. Australia ngay lập tức
đáp ứng 30 cố vấn quân sự, được phái đến như Đội Hướng dẫn quân sự của Australia
tại Việt Nam (AATTV). Chuyến đi đến Nam Việt Nam của họ trong suốt tháng 7 và
tháng 8 năm 1962 là khởi đầu cho sự tham chiến của Australia tại Việt Nam. Tháng 8
năm 1964, Lực lượng không quân hoàng gia Úc đã gửi một phi đội Lộc Nam tới cảng
Vũng Tàu. Đến đầu năm 1965, khi Nam Việt rõ ràng không thể ngăn chặn các phần tử
cộng sản chủ nghĩa Bắc Việt thêm tháng nào nữa, Hoa Kỳ bắt đầu một cuộc leo thang
chiến tranh. Đến cuối năm đó, Hoa Kỳ đã đảm bảo 20 vạn quân cho cuộc chiến. Như
một phần của kế hoạch, chính quyền Hoa Kỳ yêu cầu sự ủng hộ hơn nữa từ các nước
đồng minh trong khu vực, bao gồm Australia. Tháng 6/1965, chính quyền Australia đã
gửi tiểu đồn Đệ Nhất, Trung đồn Hoàng gia Úc (1RAR) để phục vụ sát cánh cùng Lữ
đồn khơng qn 173 của Hoa Kỳ tại Biên Hịa.
20
Năm 1966 chính phủ Australia cảm thấy việc tham chiến của Australia vào xung
đột Nam – Bắc Việt cần phải mãnh liệt và đặc thù hơn. Tháng Ba năm đó, chính phủ
thơng báo gửi một lực lượng đặc biệt thay cho Trung đoàn Hoàng gia Úc (1RAR), bao
gồm hai tiểu đoàn và các thiết bị hỗ trợ (như một phi đội RAAF) được đặt ở Núi Đất,
Phước Tuy. Khác với RAR, lực lượng đặc nhiệm đã được giao cho một khu vực hoạt
động riêng của chính họ, bao gồm cả những dự tuyển binh được tuyển mộ bởi Đề án
Quân dịch quốc gia được đưa ra vào năm 1964. Tất cả 9 tiểu đoàn RAR phục vụ trong
lực lượng đặc nhiệm đồng thời hoặc vào các thời điểm khác nhau trước khi nó bị chính
thức hủy bỏ vào năm 1971. Vào lúc cao điểm sự tham chiến của Úc lên đến 8500 quân.
Một phần ba phi đội RAAF của lực lượng ném bom phản lực Canberra cũng đã được
cam kết vào năm 1967 và các tàu khu trục của Hải qn Hồng gia Úc đã cùng những
lính tuần tra Hoa Kỳ ngoài khơi bờ biển Bắc Việt. Hải quân Hoàng gia Úc cũng đã đóng
góp một đội lặn rà phá mặt biển và một trực thăng tháo rời được vận hành bởi quân đội
Hoa Kỳ vào tháng Mười năm 1967.
Trận Long Tân diễn ra vào năm 1966 là trận đánh nổi tiếng nhất của quân đội Úc
trong chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến đẫm máu nhất, một trong những hành động
nặng nề nhất trong chiến tranh, đối với quân đội Úc là cuộc chiến trong một đồn điền
cao su ở gần xã Long Tân gần phía Nam Vũng Tàu, Việt Nam vào hai ngày 18,19/8/1966.
108 binh sĩ Úc và New Zealand của D Coy thấy mình đang chiến đấu với một lực lượng
khổng lồ khoảng 2000. Bị ghim xuống, thấp trên làn đạn, cùng nguy cơ bị bao vây, quân
đội Úc trơng giống như họ sẽ khơng thể sống sót nổi qua đêm Nhưng họ đã làm được,
đã giữ chân quân địch đến khi viện quân tới đã cố nắm giữ/duy trì một lực lượng địch
trong bốn giờ ở giữa một trận mưa nhiệt đới. Họ được hỗ trợ rất nhiều bởi một viên đạn
đúng thời điểm được tiếp tế bởi những chiếc trực thăng RAAF, hỏa lực yểm trợ gần từ
pháo binh Australia, cũng như sự xuất hiện của quân tiếp viện ở các APC ngay khi màn
đêm buông xuống. Các xe cộ bọc thép đã phải dậm chân tại chỗ do chúng phải ngâm
trong một suối lũ và phải chiến đấu qua từng nhóm nhỏ của quân Giải phóng trên đường
đi. Khi Việt Cộng rút lui vào ban đêm họ đã để lại 245 người chết, nhưng đã cướp đi
nhiều thương vong hơn. Mười bảy người Úc đã thiệt mạng và 25 người bị thương, với
một người chết vì những vết thương vài ngày sau đó.
Chiến tranh Việt Nam kéo dài nhiều năm sau sự kiện Long Tân và khi nó kết thúc
thì cũng khơng phải vì Australia đã chiến thắng. Đây là lần duy nhất trong toàn cuộc
21
chiến quân đội Úc đơn phương đối đầu với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong
trận chiến này quân đội Úc sử sụng ưu thế hỏa lực, lại được xe tăng và máy bay yểm trợ
khiến Quân giải phóng bị thiệt hại nhiều. Trận chiến tại Long Tân đã trở thành biểu
tượng cho sự chiến đấu của quân đội Úc trong chiến tranh Việt Nam.
Năm 1968 bắt đầu với một cuộc tấn công lớn của Việt Cộng và Quân đội Bắc Việt
đưa ra trong suốt thời gian nghỉ tết Nguyên đán. Không chỉ thời gian mà cả quy mô của
cuộc tấn công đều đến đầy bất ngờ, đánh vào các thành phố, thị trấn và căn cứ quân sự
khắp miền Nam Việt Nam. Trong khi cuộc tổng tiến công mùa xuân đã kết thúc về đánh
bại quân sự với những người cộng sản, nó vẫn chỉ là chiến thắng truyền thông. Những
kiến trúc sư quân sự Hoa Kỳ đã bắt đầu đặt câu hỏi về một chiến thắng quyết định có
thể nào đạt được và về một cuộc tổng cơng kích của cơng chúng Hoa Kỳ phản đối chiến
tranh. Với quân đội Úc, những ảnh hưởng của cuộc công kích đã được cảm nhận ngay
dưới căn cứ của họ tại Núi Đất, nơi một cuộc tấn công của Việt Cộng vào tỉnh lỵ Bà Rịa
đã bị đẩy lùi với ít thương vong hơn cho người Úc.
Trận Bình Ba diễn ra ở miền trung Tuy Phước vào tháng 6/1969: là một trong
những trận đánh lớn của quân đội Úc tại Việt Nam và là một trong số ít trận đánh diễn
ra trong địa hình đơ thị, điều mà lính Úc đặc biệt tránh vì thế mạnh của quân đội Úc là
chiến đấu ở địa hình rừng núi hiểm trở. Tuy nhiên kết quả là bộ đội và Quân giải phóng
của ta thương vong khoảng 130 người, 8 người bị bắt làm tù binh. Lính Úc chỉ tử thương
1 và bị thương 8 người, chủ yếu là hai chiếc xe tăng bọc thép bị hỏng nặng.
Ngài ra cịn có trận Coral/Balmore và chiến dịch Bribie, những trận đánh này phần
lớn chỉ được thuật lại qua dòng hồi tưởng của những cựu binh người Úc cũng như người
Việt. Trận Coral/Balmore diễn ra vào năm 1968, các lực lượng Úc, New Zealand và Hoa
Kỳ đã tham gia vào một loạt các hành động từ tháng 5 – 6/1968 tại căn cứ cứu hỏa Coral
và Balmoral cách thành phố Biên Hòa 20 km về phía Bắc. Nằm trên một tuyến đường
được sử dụng bởi các lực lượng Bắc Việt rời Sài Gòn, gần Biên Hịa, các cơ sở bao gồm
các vị trí phịng thủ cho pháo binh, súng cối và xe bọc thép đã lần lượt hỗ trợ tuần tra bộ
binh khu vực. Kết quả là 26 người Úc và 300 binh lính Việt Nam bị thiệt mạng. Dã man
hơn nữa binh lính Úc đã thực hiện nhiệm vụ chơn 42 binh lính Việt Nam trong một ngôi
mộ tập thể là một hố bom B-52. Theo ông Brian J. Clever- một cựu binh người Úc đã
tham gia thực hiện “nhiệm vụ” ấy, ông đã miệt mài tìm kiếm hố chơn 42 người lính Việt
sau bao năm chiến tranh. Ông chia sẻ rằng suốt những năm tháng chiến đấu ở Việt Nam ,
22
ông phải giằng xé tâm can khi phải cầm súng bắn vào phe đối diện mà khơng biết họ có
tội lỗi gì, chỉ biết là họ ở phe địch. Điều này cho thấy đại đa phần binh lính Úc lúc bấy
giờ đều không mong muốn chiến tranh , họ bị ép buộc là chính.
Đến năm 1969, các cuộc biểu tình phản chiến đã bắt đầu manh nha tại Úc. Trái
ngược với những thỏa thuận đã được ký kết, ngày càng nhiều người tin rằng cuộc chiến
sẽ không đi đến thắng lợi. Chiến dịch "Không đăng ký" để can gián thanh niên đăng ký
nghĩa vụ quân sự được sự ủng hộ ngày càng tăng, một số cuộc biểu tình ngày càng khốc
liệt. Chính phủ Mỹ bắt đầu thực hiện chính sách "Việt Nam hóa '',thuật ngữ được đặt ra
cho sự rút dần lực lượng Mỹ sẽ rời khỏi cuộc hiến tranh dưới sự lãnh đạo của miền Nam
Việt Nam. Khi bắt đầu rút quân theo từng đợt, trọng tâm các hoạt động của người Úc tại
tỉnh Phước Tuy chuyển sang việc cung cấp đào tạo cho các lực lượng quốc gia và địa
phương của miền Nam Việt Nam.
Vào cuối tháng 4 năm 1970, quân đội Mỹ và quân đội Nam Việt được lệnh đi qua
biên giới tiến vào Campuchia. Mặc dù cuộc xâm lược thành công khi nắm bắt một lượng
lớn vũ khí Bắc Việt, phá hủy được các hầm trú ẩn, và tiêu diệt được sinh lực địch, rốt
cuộc đã chứng minh nó vẫn là một thảm họa. Qua việc đánh vào Campuchia, cuộc hành
quân đã đưa nhiều người vào trận địa đối nghịch ngầm, Khmer Đỏ, một chính phủ mục
nát khơng gì cứu vãn nổi của Campuchia. Khi Khmer Đỏ lên nắm quyền vào tháng Tư
năm 1975, nó áp đặt một sự tàn nhẫn và chế độ hà khắc đã giết chết nhiều triệu người
Campuchia và để lại một đất nước với cuộc xung đột nội bộ mà tiếp tục đến nay. Sự mở
rộng chiến tranh thành một phong trào giải phóng dân tộc, theo một cách khách quan,
đã bùng lên quan điểm phản chiến ở Hoa Kỳ và thúc đẩy hơn nữa những cuộc biểu tình
phản chiến tại Australia. Trong cuộc tuần hành đình cơng/biểu tình nổi tiếng, hơn
200.000 người đã tụ tập để phản đối cuộc chiến.
Đầu những năm 70, Hoa Kỳ và Australia đã quyết định rút lui ngay khi dự luận xã
hội phản đối chiến tranh, và năm 1975 miền Bắc tuyên bố thống nhất giải phóng miền
Nam. Đến cuối năm 1970, Úc cũng đã bắt đầu giảm nỗ lực quân sự của mình tại Việt
Nam. Tiểu đoàn 8 khởi hành từ tháng 11 năm 1970 (và đã không được dời lại), chỉ để
bù đắp sự suy giảm quân số, lợi thế của tiểu đoàn được gia tăng và những nỗ lực chiến
đấu của họ chủ yếu tập trung ở Phước Tuy. Việc rút quân và tất cả các đơn vị không
quân tiếp tục trong suốt năm 1971 - tiểu đoàn cuối cùng rời Núi Đất vào ngày 7 tháng
11, trong khi một số cố vấn thuộc Tổ vẫn ở Việt Nam đến năm sau đó. Vào tháng 12
23
năm 1972 họ đã trở thành những người lính Úc cuối cùng trở về nhà, với đơn vị của họ
được nhìn thấy phục vụ liên tục ở miền Nam Việt Nam trong mười năm rưỡi. Sự tham
gia của Úc trong chiến tranh đã được chính thức cơng bố chấm dứt khi Tổng thống đã
ban hành một tuyên bố vào ngày 11 tháng 1 năm 1973. Ngay sau đó, nhiều binh sĩ
Australia trở về quê hương với những lời chỉ trích dữ dội từ những người phản đối chiến
tranh. Các binh sĩ chiến đấu duy nhất còn lại ở Việt Nam là một trung đội bảo vệ Đại sứ
quán Úc ở Sài Gòn (lực lượng này đã được rút đi vào tháng 6 năm 1973).
Đầu năm 1975, những người cộng sản đã phát động một cuộc tấn cơng lớn ở phía
bắc của miền Nam Việt Nam, dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài Gịn vào ngày 30
tháng Tư. Trong tháng Tư một phi đội RAAF 7-8 của Hercules thực hiện sứ mệnh nhân
đạo để hỗ trợ người tị nạn dân sự, được thay thế bằng cuộc chiến và tiến hành sơ tán trẻ
em mồ côi Việt Nam trước khi rút hoàn toàn nhân viên của đại sứ quán vào ngày 25
tháng Tư.
Từ thời điểm xuất hiện các thành viên đầu tiên của Đội năm 1962 gần 60.000 người
Úc, bao gồm lực lượng bộ binh và không quân và cán bộ hải quân, đã phục vụ ở Việt
Nam; 521 người chết do hậu quả của chiến tranh và hơn 3.000 người bị thương. Số
người chết chính thức là 521, lớn thứ ba trong bất kỳ cuộc xung đột nào mà Úc đã tham
gia, nhưng nhỏ hơn nhiều so với hai cuộc chiến tranh thế giới. Chiến tranh Việt Nam đã
trở thành nguồn cơn của cuộc tranh luận chính trị xã hội lớn nhất trong lịch sử Australia
từ khi có những cuộc trưng cầu dân ý về nghĩa vụ quân sự cưỡng bách tòng quân trong
thế chiến 1. Nhiều dự thảo đối kháng, nhiều người phản đối tận tâm can xương tủy, và
nhiều người biểu tình đã bị phạt hoặc bỏ tù, trong khi đó binh sĩ nhận một sự tiếp đón
giận dữ trên đường về nhà.
Chiến tranh Việt Nam là cuộc xung đột dài nhất thế kỷ XX mà người Úc tham gia;
nó liên quan đến khoảng 60.000 nhân viên tăng dần từ một cam kết ban đầu có giới hạn
về 30 cố vấn quân sự vào năm 1962 đến bao gồm một tiểu đoàn năm 1965 và cuối cùng,
vào năm 1966, bao gồm một lực lượng đặc nhiệm. Mỗi lực lượng trong ba lực lượng đó
đều tham gia có liên quan, song vai trị chi phối chính vẫn thuộc về Quân đội Hoàng gia
Úc. Hầu hết quân đội Úc đã rút lui vào cuối năm 1971, và các thành viên cuối cùng đã
trở về nhà vào tháng 12 năm 1972. Việt Nam vẫn là cuộc chiến lâu nhất của Úc cho đến
Afghanistan. Sau khi chấm dứt những hoạt động chiến đấu vào năm 1972, một lực lượng
hữu hạn những nhân viên Úc vẫn được giữ lại ở Việt Nam, và các thành viên của RAAF
24
đã trở về vào năm 1975, thực hiện các cuộc sơ tán và hỗ trợ người tị nạn gần như đến
tận thời điểm đầu hàng của Nam Việt Nam.
3. Australia những năm tham chiến trong chiến tranh Việt Nam
Người ta thường cho rằng nền kinh tế Úc của những năm 1960 bị chi phối bởi nông
nghiệp, khai thác mỏ và sản xuất. Trên thực tế, thậm chí hơn 60% GDP được sản xuất
ở các ngành khác chủ yếu là dịch vụ
Sự tăng trưởng cao, lạm phát thấp và thất nghiệp thấp của những năm 1960 đã
khuyến khích sự tự mãn chính sách. Chi phí của một khung chính sách được điều tiết
cao, không được quy định rõ ràng. Nhưng chúng trở nên rõ ràng khi cú sốc giá dầu đầu
tiên đánh vào đầu những năm 1970. Đây là tai nạn đang chực chờ để xảy ra. Lạm phát
và thất nghiệp tăng vọt, và chắc chắn vào thời điểm những năm 1970 đã đi đến hồi kết
của những chính sách chính trị tả tơi/tan rã.
Tuy nhiên, vào thời điểm Clifford và Taylor gặp tủ Holt trong tháng bảy, tình hình
đã thay đổi. Phong trào phản chiến tại Úc đã được manh nha, góp nhặt và thúc đẩy động
lực chủ yếu từ số lượng những người lính trẻ tuổi thương vong trở về. Một hình thức
nghĩa vụ qn sự có chọn lọc còn gây nhiều tranh cãi đã gửi những người đàn ông 20
tuổi, quá trẻ để bỏ phiếu, đến chiến đấu ở Việt Nam. Hệ thống này đã được triển khai
đến Indonesia trong tâm khảm nhiều hơn là đến Đông Dương, nhưng đến năm 1967 tình
hình khu vực đã hồn tồn thay đổi. Một cuộc đảo chính ở Indonesia đã thay thế Sukarno
khó đốn định bằng một chế độ qn sự thân phương Tây, đã loại bỏ tàn bạo những
người Cộng sản thực sự cũng như những người bị cáo buộc là cộng sản. Các cuộc đối
đầu của Malaysia chính thức chấm dứt vào tháng 8 năm 1966. Malaysia và Singapore
giống như một cặp đôi ly hôn thành công, hoạt động bên ngoài cùng nhau tốt hơn. Thái
Lan và Philippines an toàn hơn. Tất cả năm quốc gia đã thành lập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á, một dấu hiệu đáng hoan nghênh của sự hợp tác khu vực.
Trong môi trường thay đổi như thế, các Bộ trưởng Úc đã cảm thấy khó có thể biện
minh cho các cam kết gia tăng những chi phí tài chính và chính trị của Nam Việt Nam.
Khi Clifford và Taylor kêu gọi họ thêm một tiểu đoàn thứ ba vào lực lượng đặc nhiệm
của Úc – Holt và cộng sự của ông phản đối, tuyên bố rằng Úc đã đạt tới giới hạn khả
năng của mình. Chỉ sau khi Johnson thực hiện khả năng thuyết phục huyền thoại của
ông trong chuyến viếng thăm Thủ tưởng Australia, chính phủ mới cam kết một tiểu đoàn
25