Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tài liệu Táo bón - Nguyên nhân của táo bón pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.69 KB, 14 trang )

Táo bón - Nguyên nhân của táo bón

Táo bón là gì?
Táo bón có nghĩa là những khác biệt ở những người khác nhau. Ở nhiều
người, chỉ đơn thuần có nghĩa là ít đi tiêu. Tuy nhiên, đối với một số người khác
táo bón có nghĩa là phân cứng, phân khó đi tiêu (phải gắng sức rặn), hay là cảm
giác còn phân trong ruột sau khi đi tiêu. Nguyên nhân của mỗi “loại” táo bón thì
khác nhau và cách tiếp cận đối với từng người cũng nên thay đổi cho phù hợp với
từng loại táo bón đặc hiệu. Táo bón có thể xen kẽ với tiêu chảy. Dạng này thường
là một trong những dấu hiệu thường thấy của hội chứng ruột kích thích (IBS). Cực
điểm của táo bón nén chặt phân, tình trạng phân cứng trong trực tràng và chặn
đường phân ra.

Số lần đi tiêu thường giảm dần theo tuổi. Ở 95% người lớn, mỗi tuần
thường đi tiêu từ 3 đến 21 lần được coi là bình thường. Dạng thông dụng nhất là
mỗi ngày đi tiêu một lần, nhưng dạng này chỉ gặp ở dưới 50% số người táo bón.
Ngoài ra, hầu hết là không theo quy tắc nào và không đi tiêu mỗi ngày hay có
cùng số lần đi tiêu giữa các ngày.

Theo ngôn ngữ y khoa, táo bón thường được định nghĩa là có dưới 3 lần đi
trong một tuần. Táo bón nặng được định nghĩa đi tiêu dưới một lần mỗi tuần.
Không có lý do y khoa nào cho thấy cần phải đi tiêu mỗi ngày một lần. Khi khỏi
nhà mà không đi tiêu trong 2 hoặc 3 ngày không gây ra khó chịu thể chất nào, trừ
ra những lo lắng về tinh thần ở một số người. Trái với quan niệm của một số người
là không có bằng chứng nào cho thấy ‘độc chất’ tích tụ khi số lần đi tiêu ít hay táo
bón lâu ngày dẫn đến ung thư.

Phân biệt táo bón cấp (mới khởi phát) với táo bón mạn tính (kéo dài) là rất cần
thiết. Táo bón cấp cần được đánh giá khẩn cấp bởi có thể do nguyên nhân tiềm
tàng bên dưới như mắc bệnh nặng nề (ví dụ u đại tràng). Táo bón cũng cần đánh
giá ngay lập tức nếu có kết hợp với các triệu chứng gây ra lo lắng như xuất huyết


trực tràng, đau bụng và co thắt, nôn, buồn nôn, giảm cân tự phát. Trái lại, có thể
không cần quan tâm đánh giá ngay lập tức thể táo bón mạn tính , đặc biệt nếu chỉ
là những đánh giá đơn thuần làm giảm đau.
Nguyên nhân của táo bón
Theo lý thuyết, táo bón có thể do thức ăn tiêu hoá di chuyển chậm qua bất
kỳ đoạn nào của ống tiêu hoá.

Tuy nhiên, trong hơn 95% trường hợp chúng di chuyển chậm qua đoạn đại
tràng.

Thuốc:

Nguyên nhân thường gây táo bón được tìm thấy là do thuốc. Các nguyên
nhân tác dụng do thuốc bao gồm:

Các thuốc giảm đau gây nghiện như codeine (Ví dụ Tylenol #3), oxycodone
(ví dụ như Percocet), hdrophormone (Dilaudid)

Các thuốc chống trầm cảm như amitriptylene (Elavil) và imipramine
(Tofranil).

Các thuốc chống động kinh như phenytoin (Dilantin) và carbamazepine
(Tegretol).

Sắt bổ sung.

Các thuốc chặn kênh calci như diltiazem (Cardizem) và nifedipine
(Procardia)

Các thuốc antacid có chứa nhôm như Amphojel, phosphalugel và Basaljel


Ngoài danh sách ở trên, còn nhiều thuốc khác có thể gây táo bón. Vài xử trí
đơn giản đối với những những nguyên nhân gây táo bón do thuốc như chế độ ăn
nhiều chất xơ thường có hiệu quả, và không cần thiết phải ngưng dùng thuốc. Nếu
những xử trí này không hiệu quả, có thể cần thay thế bằng thuốc ít gây táo bón
hơn. Ví dụ, thuốc kháng viêm không steroid có thể thay thế cho các thuốc giảm
đau an thần. Hơn nữa, có thể thay thế amitriptylene và imipramine bằng một trong
những thuốc mới và ít gây táo bón hơn (như fluoxetine hay Prozac).

Thói quen:

Phản xạ đi cầu có thể điều chỉnh được theo ý muốn. Có nghĩa là một người
bình thường có thể ngăn cảm giác thúc bách muốn đi tiêu. Dầu vậy, ngăn cảm giác
đi tiêu thường xuyên sẽ dẫn đến mất cảm giác thúc bách và dẫn đến táo bón.

Chế độ ăn:

Chất xơ rất quan trọng để duy trì phân to, mềm. Do đó, các chế độ ăn ít chất
xơ có thể gây táo bón. Nguồn chất xơ tự nhiên tốt nhất là trái cây, rau và các loại
hạt.

Thuốc nhuận tràng:

Một trong những nguyên nhân nghi ngờ gây táo bón nặng là lạm dụng các
chất kích thích nhuận tràng (như cây keo, dầu thầu dầu, và vài loại thảo mộc). Mặc
dù khó có thể kết luận, nhưng có những chứng cớ cho rằng sử dụng thường xuyên
những chất kích thích nhuận tràng có thể gây tổn thương dây thần kinh đại tràng
về lâu dài làm thay đổi chức năng đại tràng. Các dây thần kinh kiểm soát các cơ
đại tràng. Các tổn thương được qui cho có liên quan đến sự co bóp và tống phân
khỏi lòng đại tràng. Sử dụng chất kích thích đại tràng làm xuất hiện chu kỳ bất

thường, sau đó tổn thương có thể gây táo bón và phải cần dùng lượng chất kích
thích nhuận tràng nhiều hơn nữa. Kể từ đó, người ấy chỉ đi tiêu được khi sử dụng
chất kích thích nhuận tràng. Cần giới hạn sử dụng các chất kích thích nhuận tràng
do mối liên quan với tổn thương đại tràng lâu dài. Các loại chất nhuận tràng khác
không gây nên tổn thương này.

Các rối loạn hormon:

Hormon có tác động đến việc đi tiêu. Chẳng hạn, lượng hormon giáp quá ít
(giảm năng tuyến giáp), và hormon cận giáp quá nhiều (do tăng nồng độ calci
trong máu ) có thể gây táo bón. Trong thời gian kinh nguyệt của người phụ nữ,
nồng độ estrogen và progesteron cao có thể gây táo bón. Tuy nhiên, tình trạng này
không kéo dài. Mức độ estrogen và progesteron cao trong quá trình mang thai
cũng gây táo bón.

Các bệnh lý ảnh hưởng đến đại tràng:

Có nhiều bệnh lý có ảnh hưởng đến chức năng của cơ và thần kinh đại
tràng. Các bệnh này gồm có tiểu đường, xơ cứng bì, tắc ruột giả, bệnh
Hirschbrung, Chagas. Ung thư hay chít hẹp đại tràng gây tắc nghẽn cũng làm giảm
sự tống phân.

Các bệnh lý hệ thần kinh trung ương:

Vài bệnh lý não và tuỷ sống cũng gây nên táo bón, gồm có bệnh Parkinson,
xơ cứng toàn thể, và chấn thương tuỷ sống.

Đại tràng vô lực:

Đại tràng vô lực là tình trạng thần kinh hoặc cơ đại tràng không hoạt động

bình thường. Kết quả là những thứ trong lòng đại tràng không được đẩy qua một
cách bình thường. Không rõ nguyên nhân gây ra đại tràng vô lực. Trong vài
trường hợp, thần kinh và cơ đại tràng bị bệnh. Đại tràng vô lực cũng có thể là hậu
quả của việc sử dụng chất kích thích nhuận tràng lâu ngày. Tuy nhiên, trong hầu
hết trường hợp thì nguyên nhân chưa tìm thấy.

Rối loạn sàn chậu:

Rối loạn sàn chậu (còn được biết là tắc nghẽn đường ra hay làm chậm
đường thoát) là tình trạng cơ sàn chậu bao quanh trực tràng hoạt động không bình
thường. Những cơ này quyết định sự đi tiêu (nhu động ruột. Không rõ vì sao ở một
số người những cơ này hoạt động không hợp lý, chúng làm cho sự di chuyển phân
khó khăn ngay cả khi mọi thứ đều bình thường.
Đánh giá táo bón như thế nào?

Một bệnh sử và khám lâm sàng rõ ràng rất quan trọng ở tất cả các bệnh
nhân táo bón. Có vài xét nghiệm có thể đánh giá táo bón. Hầu hết các bệnh nhân
chỉ cần vài xét nghiệm cơ bản. Những xét nghiệm khác chỉ dành cho những người
táo bón nặng hay táo bón không dễ dàng đáp ứng với điều trị.

Bệnh sử:

Hỏi bệnh sử kỹ lưỡng ở bệnh nhân táo bón rất cần thiết vì nhiều lẽ, nhưng
đặc biệt nó cho phép thầy thuốc xác định được táo bón. Rồi những điều này sẽ
hướng đến chẩn đoán và điều trị. Ví dụ, nếu đi tiêu đau, bác sĩ biết tìm kiếm các
vấn đề hậu môn như hẹp cơ vòng hậu môn hay nứt hậu môn. Nếu vấn đề là phân
nhỏ, có thể là do thiếu chất xơ trong chế độ ăn. Nếu bệnh nhân phải ráng sức (rặn)
nhiều, có thể vấn đề là rối loạn sàn chậu.

Bệnh sử cũng khám phá tình trạng dùng thuốc và các bệnh lý gây táo bón.

Trong những trường hợp này, có thể thay đổi thuốc và điều trị bệnh phát hiện
được.

Khám lâm sàng:

Khám lâm sàng có thể biết được bệnh lý có thể gây táo bón (như xơ cứng bì
chẳng hạn). Khám trực tràng bằng ngón tay có thể khám phá ra hẹp cơ vòng hậu
môn làm đi tiêu khó khăn. Nếu sờ thấy đại tràng đầy phân qua thành bụng sẽ gợi ý
tình trạng táo bón nặng. Phân trong trực tràng gợi ý vấn đề của hậu môn, đại tràng,
hay cơ sàn chậu.

Các xét nghiệm về máu:

Xét nghiệm máu thích hợp để đánh giá bệnh nhân táo bón. Đặc biệt hơn,
xét nghiệm máu tìm hormon giáp (để phát hiện thiểu năng giáp) hay calci (để phát
hiện tăng quá nhiều lượng hormon cận giáp) có thể có ích.

X quang bụng:

Lượng lớn phân trong đại tràng thường có thể thấy được trên phim X quang
bụng đơn giản. Phân thấy được càng nhiều thì táo bón càng nặng.

X quang cản quang:

Thụt tháo bằng Barium (đường tiêu hoá dưới) là chụp X quang với barium
lỏng được đổ đầy vào trực tràng và đại tràng qua hậu môn. Bari sẽ vẽ hình đại
tràng trên phim X quang và xác định giải phẫu bình thường hay bất thường của
trực tràng và đại tràng. Có thể phát hiện ra khối u và chít hẹp trong các nguyên
nhân gây táo bón qua xét nghiệm này.


Các khảo sát đường đi đại tràng:

Các khảo sát ống đại tràng là X quang bụng thường xác định thời gian giữ
thức ăn di chuyển qua ruột. Để nghiên cứu sự di chuyển, người bệnh phải uống
viên nang trong một hoặc vài ngày. Trong viên nang có nhiều mảnh plastic có thể
nhìn thấy trên phim X quang. Vỏ bọc gelatin được hoà tan và giải phóng các mảnh
plastic vào ruột. Các mảnh này sẽ di chuyển (như khi tiêu hoá thức ăn) qua ruột
non và vào đại tràng. Sau 5-7 ngày, chụp X quang bụng và đếm các mảnh plastic
trong các phần đại tràng. Sau khi đếm các mảnh có thể xác định có sự chậm trễ di
chuyển trong lòng đại tràng và vị trí bị chậm. Ở những người không táo bón, tất cả
các mảnh palstic đều được thải ra ngoài trong phân và không còn trong đại tràng.
Khi những mảnh này còn khắp đại tràng gợi ý rằng cơ hoặc thần kinh cả đại tràng
không hoạt động, điển hình của bệnh đại tràng vô lực. Nếu những mảnh này tích
tụ ở trực tràng sẽ gợi ý rối loạn chức năng sàn chậu.

Ghi hình khi đi tiêu:

Ghi hình khi đi tiêu là xem xét sự biến đổi barium thụt tháo. Trong thủ
thuật này, một lượng lớn barium nhão được đặt vào trong đại tràng bệnh nhân qua
đuờng hậu môn. Sau đó sẽ chụp X quang khi bệnh nhân đi tiêu ra barium. Barium
phát họa ra hình ảnh trực tràng và hậu môn một cách rõ ràng và mô tả những thay
đổi cơ sàn chậu xảy ra trong quá trình đi tiêu. Hơn nữa, ghi hình trực tràng khi đi
tiêu giúp khám quá trình đi tiêu và cung cấp những thông tin bất thường về giải
phẫu của đại tràng, cơ sàn chậu trong khi đi tiêu.

Các khảo sát chuyển động trực tràng hậu môn:

Khảo sát chuyển động trực tràng hậu môn bổ sung cho ghi hình trực tràng
khi đi tiêu cung cấp các đánh giá chức năng cơ và thần kinh của hậu môn, trực
tràng. Để nghiên cứu chuyển động hậu môn trực tràng, một ống mềm đường kính

khoảng một phần tám inch được đặt vào trực tràng qua hậu môn. Bộ phận cảm
biến trong ống sẽ đo áp lực gây ra do cơ hậu môn trực tràng. Khi đặt ống vào vị
trí, bệnh nhân sẽ làm vài động tác đơn giản như tự ý co thắt cơ vòng hậu môn.
Khảo sát chuyển động hậu môn trực tràng có thể giúp xác định cơ hậu môn và trực
tràng có hoạt động bình thường hay không. Khi chức năng những cơ này suy yếu,
đường di chuyển phân bị hẹp do đó gây nên tình trạng tương tự như rối loạn chức
năng sàn chậu.

Khảo sát chuyển động đại tràng:

Khảo sát chuyển động đại tràng tương tự khảo sát chuyển động trực tràng
hậu môn ở nhiều khía cạnh. Một ống mềm rất dài, hẹp (đường kính một phần tám
inch) được đặt qua hậu môn và qua một phần hoặc cả đại tràng trong thủ thuật có
tên gọi là nội soi đại tràng. Bộ phận cảm biến trong ống sẽ đo áp lực co cơ đại
tràng. Sự co này là kết quả của hoạt động phối hợp giữa thần kinh và cơ đại tràng.
Nếu hoạt động cơ và thần kinh bất thường thì áp lực đại tràng sẽ bất thường. Khảo
sát chuyển động đại tràng hữu dụng nhất trong xác định đại tràng vô lực. Những
khảo sát này được coi như nghiên cứu phân, nhưng có ích trong những quyết định
điều trị bệnh nhân táo bón nặng.

×