Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đề cương môn học Giáo dục thể chất 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.4 MB, 105 trang )

HỌC VIỆN CƠNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG
KHOA CƠ BẢN
*****

ĐỀ CƯƠNG MƠN HỌC
(Phương pháp đào tạo theo tín chỉ)

GIÁO DỤC THỂ CHẤT 2
Mã học phần: BAS 1107
(02 tín chỉ)

Biên soạn
Th.s Nguyễn Đức Thịnh

Hà Nội – 2019


CHƯƠNG 1
KHÁI QT VỀ MƠN BĨNG RỔ
Mục tiêu
Sau khi học xong chuyên đề này người học cần nắm được:
- Nguồn gốc ra đời mơn Bóng rổ,
- Lịch sử phát triển mơn Bóng rổ trên thế giới và Việt Nam
- Mục đích, ý nghĩa, tác dụng của mơn Bóng rổ.
Các nội dung này nhằm giúp người học có được cách nhìn khái qt về
mơn Bóng rổ, đồng thời qua đó tăng thêm sự u thích tập luyện bóng rổ và có
được các kiến thức để giáo dục học sinh – sinh viên và mọi người u thích
cũng như tập luyện bóng rổ.
THƠNG TIN CƠ BẢN
Bóng rổ là mơn thể thao tập thể thi đấu đối kháng trực tiếp giữa 2 đội, mỗi
đội có 5 người, trong thời gian thi đấu 4 hiệp mỗi hiệp 10 phút. Mục đích của


mỗi đội là nhằm ghi nhiều điểm bằng cách cố gắng đưa bóng vào rổ đối phương
một cách đúng luật và hạn chế khơng cho đối phương ném bóng vào rổ mình.
Kết quả thi đấu cuối cùng của mơn bóng rổ rất đặc biệt: điểm số cao (trung bình
từ 80 – 90 điểm/trận); tần suất thay đổi tỷ số rất nhanh (trung bình cứ 24s tỷ số
thay đổi một lần); khơng có tỷ số hịa, tức là khơng thể quyết định có tính thỏa
hiệp về trận đấu.
1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI MƠN BĨNG RỔ
Bóng rổ ra đời năm 1891 do Mr. James
Naismith (1861-1939) – giáo viên môn giáo
dục thể chất ở học viện Springfield thuộc
bang Masachusetts (Mỹ) sáng lập.
Vào thời gian đó các mơn thể thao, trị
chơi vận động chủ yếu được thực hiện ngồi
trời. Do vậy, trong suốt mùa đơng các sinh
viên đã không thể tập luyện và thi đấu được.

Mr. James Naismith (1861-1939)
người sáng lập ra mơn Bóng rổ


Các giáo viên thể dục rất băn khoăn, lo lắng và khơng ngừng tìm tịi, suy nghĩ để
tìm ra một môn chơi mới, để tập luyện và thi đấu trong điều kiện thời tiết xấu.
Điều kiện để hình thành mơn mới này là phải được chơi trong nhà thể dục, phải
giới hạn bởi nhiều luật lệ nhưng đơn giản và dễ hiểu, khơng được dùng que gậy
vì dễ gây nguy hiểm và khơng được thơ bạo hay có những động tác truy cản
theo kiểu mơn bóng đá Mỹ, Mr. James Naismith đã dựa vào những trị chơi với
bóng được phát triển trước đây trong lịch sử như trò Pok- Tapok ném bóng vào
vịng trịn làm bằng đá được đính theo chiều thẳng đứng trên tường cao của bộ
lạc Inkava Maia sống tại Mêxicô và môn chơi nổi tiếng Ollamalituli của người
Astek cũng với mục đích ném bóng cao su vào một chiếc vòng làm bằng đá để

sáng tạo ra trò chơi mới. Jame Naismith đã đề ra 5 nguyên tắc cơ bản để xây
dựng trị chơi mới đó là:
1. Trị chơi đựơc chơi với quả bóng trịn và chơi bằng tay.
2. Đấu thủ khơng được cầm bóng chạy.
3. Bất kỳ một đấu thủ nào cũng có thể chiếm một vị trí bất kỳ trên sân thi
đấu ở mọi thời điểm.
4. Khơng có va chạm cơ thể giữa 2 đấu thủ.
5. Gôn là 2 cái rổ được đặt nằm ngang cao hơn mặt sân.
Ban đầu để phù hợp với điều kiện phịng tập của mình, ơng đã chọn quả
bóng đá để có thể dễ dàng sử dụng tay để chuyền, bắt và ném; ơng đã đóng vào
tay vịn ban cơng phịng tập thể thao một chiếc bảng và tại bảng ông buộc chiếc
rổ dùng khi đi hái đào để làm đích cho học sinh ném bóng vào. Ban cơng phịng
tập thể thao có chiều cao 3,05m vì thế ngày nay độ cao này tương ứng với
khoảng cách từ mặt sân tới mép trên vành rổ. Thời kỳ đầu vì lớp tập thể dục của
ơng có 18 người nên ơng chia ra làm hai đội, mỗi đội 9 người cả nam và nữ. Sau
này do thấy số người tham gia đông là điều khơng cần thiết vì chỉ làm rối trên
sân nên số người mỗi bên được giảm xuống 7 và sau đó là 5 người.
Trị chơi do James Naismith sáng tạo ra là trị chơi bóng được ném vào rổ
cho nên được gọi là “Basketball” – “Bóng rổ”.


Trận thi đấu đầu tiên được thi đấu với quả bóng đá và một người lao cơng
ngồi trên 1 cái thang để lấy lại quả bóng ở trong rổ khi một đấu thủ ném bóng
vào rổ. Trị chơi mới đã thành công lớn, tháng 12/1891 Jame Naismith đã soạn
thảo những điều luật thi đấu đầu tiên cho mơn bóng rổ và dùng để tổ chức trận
đấu. Năm 1892 ông đã cho xuất bản “sách luật chơi bóng rổ” gồm 15 điều luật,
phần lớn những điều luật ấy dưới hình thức này hay hình thức khác vẫn được
tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay.
Để ghi nhận công lao của James Naismith, năm 1911 Trường Cao đẳng
Springphild đã phong tặng danh hiệu vinh dự kiện tướng Giáo dục Thể chất.

Năm 1939 trường Đại học Tổng hợp MacGil phong tặng James Naismith danh
hiệu Tiến sỹ Y học và năm 1968 tại Trường Cao đẳng Springphild đã khánh
thành Bảo tàng James Naismith – “Gian phịng Vinh quang Bóng rổ”. Điều đó
thể hiện sự kính trọng con người đã phát minh cho thế giới một trị chơi tuyệt
vời.
2. SỰ PHÁT TRIỂN BĨNG RỔ TRÊN THẾ GIỚI.
Sự phát triển của bóng rổ đã kéo theo sự thay đổi nhiều điều luật thi đấu,
trang thiết bị, dụng cụ và trang thiết bị thi đấu của vận động viên. Q trình phát
triển của bóng rổ thế giới trải qua 4 giai đoạn sau.
Giai đoạn thứ nhất từ 1891 – 1918: đây là giai đoạn hình thành một
mơn thể thao mới. Từ chỗ được tạo ra để làm sinh động hơn đối với các giờ học
thể dục, bóng rổ đã trở thành môn thể thao với tất cả những đặc điểm tiêu biểu
của mình.
Sau khi tổ chức những trận bóng rổ đầu tiên khơng lâu, các điều luật đã có
sự thay đổi.
Năm 1892, Ong Lew Allen trường Hartfort thuộc tiểu bang Connecticut
đã làm cái rổ hình trụ được đan bằng dây chắc chắn để loại bỏ cái rổ bằng gỗ
cứng của Naismith. Đưa thêm hai tấm bảng ( 3,60m x 1,80m ) để gắn vào rổ, các
bảng đã trở thành bộ phận bảo vệ rổ một cách độc đáo.
Năm 1894 quả bóng rổ đã được sử dụng thay thế quả bóng đá, chu vi của
quả bóng rổ là từ 76,2cm – 83,1cm.


Năm 1895 tấm bảng rổ có kích thước 1.80m x 1.20m đã được chấp thuận
và đưa vào sử dụng, các quả ném phạt được thực hiện ở khoảng cách 4,572m.
Năm 1896, James Naismith đã điều chỉnh lại luật. Bàn thắng được thay
đổi là 2 điểm, quả ném phạt 1 điểm, người chơi được quyền dẫn bóng trong mọi
trường hợp.
Năm 1905, bóng rổ đã được truyền bá rộng rải trong các trường trung học,
đại học, các dòng tu và trong các trại lính. Nhiều học sinh ngoại quốc đã học ở

trường thể thao Springfield trong thời gian khi bóng rổ được khai sinh đã truyền
bá môn thể thao mới vượt qua đại dương. Trong giai đoạn này bóng rổ đã phát
triển sang các nước phương Đông như Nhật, Trung Quốc, Philippin rồi sang đến
châu Âu và Nam Mỹ.
Tại thế vận hội Olympic lần thứ 3 năm 1904 Bóng rổ được tổ chức thi đấu
biểu diễn. Năm 1913 ở Manila thủ đô Philippin giải vơ địch bóng rổ châu Á
được tổ chức.
Năm 1909 tấm bảng trong suốt đã được chấp thuận trong điều luật; điều
luật một đấu thủ bị khi phạm trên 4 lỗi cá nhân sẽ bị trục xuất đã được áp dụng.
Chiến tranh Thế giới lần thứ 1 xảy ra đã làm cho sự phát triển của bóng rổ
đi xuống. Trong thời gian chiến tranh, các lính Mỹ và các HLV thể thao, trong
đó có Naismith đã mang tới châu Âu những cái mới của mơn bóng rổ.
Giai đoạn thứ hai từ 1919 – 1931: giai đoạn này có đặc điểm tiểu biểu là
các hiệp hội Bóng rổ quốc gia của các nước được thành lập và bắt đầu có các
cuộc thi đấu giao hữu quốc tế.
Năm 1919 tại Paris, giải thi đấu đầu tiên giữa các nước đồng minh đã
được tổ chức, trong giải này, Mỹ đã thắng Pháp và Ý.
Năm 1923 các cuộc thi đấu bóng rổ quốc tế đầu tiên của nữ đã được tổ
chức tại Pháp giữa các đội Ý, Pháp và Tiệp Khắc. Ở thế vận hội Olympic Paris
năm 1924, bóng rổ được thi đấu biểu diễn.
Giai đoạn thứ ba từ 1932 – 1947: đây là giai đoạn mơn bóng rổ được
phát triển rộng rãi trên thế giới.Một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử là việc
thành lập Liên đồn bóng rổ Quốc tế gọi tắt là FIBA vào ngày 18/06/1932 ở


Geneva, Chủ tịch đầu tiên của FIBA là Ong Leon Bouffard ( Switzeland), tổng
thư ký là ông Renato William Jones ( Great Britain ). Vào ngày này các nhà lãnh
đạo của liên đoàn 8 nước: Ý, Achentina, Hy lạp, Latvia, Bồ Đào Nha, Rumani,
Thụy sĩ và Tiệp Khắc đã tham dự cuộc họp Quốc tế lần đầu tiên, đưa ra những ý
kiến thống nhất chung về việc thành lập Liên đồn Bóng rổ Quốc tế và thơng

qua những điều luật thi đấu.
Năm 1935 giải Vơ địch bóng rổ nam Châu Âu đầu tiên được tổ chức ở
Geneva. Có 10 nước được chọn tham dự và đội Latvia giành chức vô địch ( trận
chung kết Latvia thắng Tây Ban Nha 24 - 18 ).
Năm 1935 ở Olso (Na uy), Uỷ ban Olympic Quốc tế đã họp và đưa ra
quyết định chính thức chấp thuận cho bóng rổ là mơn thể thao có trong chương
trình thi đấu của Thế vận hội. Năm 1936 Thế vận hội lần thứ 11 được tổ chức tại
Becrlin mơn bóng rổ lần đầu tiên được đưa vào thi đấu với sự tham dự của 21
quốc gia và đội tuyển Mỹ đã giành huy chương vàng. Cũng tại đại hội Olympic
lần này, người có cơng sáng lập ra mơn bóng rổ là James Naismith đã có mặt với
tư cách là khách mời danh dự.
Năm 1938 giải vô địch bóng rổ nữ đầu tiên của châu Âu được tổ chức tại
Roma (Ý) , đội nữ của Ý đã giành chức vô địch.
Một hội nghị của FIBA ở Berlin đã có những thay đổi cho luật bóng rổ
với mục đích là giữ sự cân bằng giữa phòng thủ - tấn cơng và giới hạn lợi thế
của đấu thủ có chiều cao hơn. Cho phép trong một trận đấu được 3 lần tạm
dừng;điều luật nhảy tranh bóng ở vịng trịn giữa sân sau khi bóng vào rổ đã
được bãi bỏ thay vào đó là được phát bóng biên ở đường cuối sân; đấu thủ phạm
4 lỗi cá nhân thì bị trục xuất; đấu thủ dự bị được tăng lên là 5 người.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, từ năm 1947 các đội bóng của các nước
xã hội chủ nghĩa bắt đầu tham dự thế vận hội Olympic và các giải thế giới, sự
tham gia đó đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển bóng rổ ở châu Âu cũng
như trên toàn thế giới.
Giai đoạn thứ tư từ 1948 – 1965: Là giai đoạn mà kỹ chiến thuật bóng
rổ có những bước tiến nhảy vọt. Liên đồn bóng rổ thế giới FIBA với 50 nước


thành viên lúc đó đã có vị trí quan trọng và đã tổ chức nhiều giải thi đấu thế giới
với quy mơ lớn. Ở giai đoạn này chiến thuật bóng rổ đã phát triển phong phú và
đa dạng, kỹ thuật đã có độ khó và kết hợp liên hồn động tác đạt kết quả cao

trong thi đấu. Một tiến bộ đặc biệt là sự áp dụng các động tác ném rổ một tay,
điều này gây khó khăn cho việc phịng thủ của đối phương. Trước kia trong một
trận đấu thường mỗi đội chỉ ghi được từ 20 – 30 điểm thì sau khi xuất hiện kỹ
thuật này số điểm ghi được đã lên tới 50 – 60 điểm.
Năm 1950 giải vơ địch bóng rổ thế giới lần thứ 1 của nam được tổ chức
tại Argentina và đội Argentina đã giành chức vô địch.
Năm 1953 tại Chi Lê giải vô địch bóng rổ thế giới của nữ được tổ chức và
đội tuyển Mỹ đã giành chức vô địch. Các giải vô địch thế giới của nam và nữ
được tổ chức thường xuyên 4 năm/lần.
Năm 1958 Cúp các CLB vô địch châu Âu cho Nam đã được tổ chức và
năm 1959 tổ chức cho nữ.
Từ những năm 1950 trong các trận đấu bóng rổ, tấn cơng đã chiếm ưu thế
hơn phịng thủ. Điều đó có 2 nguyên nhân: sự phát triển kỹ - chiến thuật tấn
công chiếm ưu thế hơn so với kỹ - chiến thuật phịng thủ; trong các đội bóng đã
xuất hiện rất nhiều cầu thủ có chiều cao.
Do luật thi đấu khơng hạn chế thời gian giữ bóng của từng cầu thủ đội có
bóng. Nên đội dẫn điểm thường giữ bóng hoặc dẫn bóng để kéo dài thời gian tấn
cơng và điều này làm cho bóng rổ mất dần sự gay cấn sẵn có của mình, và nhịp
độ thi đấu cũng bị giảm đáng kể. Để khuyến kích tấn cơng tích cực và hạn chế
bớt ưu thế của cầu thủ có chiều cao thì luật 30 giây và 3 giây đã được bổ xung.
Năm 1965 Liên đồn bóng rổ quốc tế tập hợp 122 Liên đồn bóng rổ của
các quốc gia trên toàn thế giới.
Giai đoạn phát triển tiếp theo bắt đầu từ năm 1966: giai đoạn này là giai
đoạn khắc phục sự khủng hoảng và bắt đầu sự phát triển hưng thịnh của mình.
Năm 1972 nội dung thi đấu bóng rổ nữ đã được chính thức đưa vào
chương trình thi đấu của thế vận hội Olympic.


Năm 1983 FIBA hợp nhất 157 Liên đồn bóng rổ các quốc gia của cả 5
châu lục: châu Âu – 31, châu Á – 38, châu Phi – 40, châu Mỹ - 38, châu Úc và

châu Đại dương – 10. Đến năm 1987 FIBA đã có 168 nước là thành viên.
Sự phát triển lan rộng của bóng rổ trên tồn thế giới, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của hệ thống kỹ - chiến thuật bóng rổ, các điều luật thi đấu cũng
có sự thay đổi đáng kể trong các giai đoạn phát triển.
Năm 1994 toàn bộ quyển sách luật bóng rổ đã được soạn lại. Ngày 8
tháng 5 năm 2000, FIBA đã thơng qua luật bóng rổ năm 2000 với 58 điều luật
và có nhiều thay đổi. FIBA chính thức giới thiệu và áp dụng phương pháp 3
trọng tài, thời gian thi đấu 1 trân bóng rổ là 4 hiệp mỗi hiệp 10 phút; Luật 10
giây còn 8 giây; Luật 30 giây cịn 24 giây và bóng phải chạm vòng rổ mới kết
thúc một đợt 24 giây; Ở hai phút cuối của trận đấu khi bóng vào rổ thì được hội
ý hoặc thay người. Ngày 1/9/2004 FIBA áp dụng cho 2 đội được thay người khi
bóng chết; Lỗi kỹ thuật được ném 2 quả phạt.
Hiện nay Bóng rổ là môn thể thao được chơi và hâm mộ của hơn 250 triệu
VĐV có đăng ký trên tồn thế giới. Liên đồn Bóng rổ quốc tế FIBA có 198
quốc gia là thành viên.
Bóng rổ là mơn thể thao tốc độ, năng động, hấp dẫn và là môn thể thao
thu hút nhiều người tham gia. Số điểm thay đổi mỗi phút làm cho trận đấu hấp
dẫn từ đầu cho đến cuối trận đấu. Do đó Bóng rổ là 1 trong nhiều mơn thể thao
được mọi người ưa thích nhất trên thế giới và bóng rổ ngày càng phát triển và
trở thành mơn thể thao hiện đại.
3. SỰ PHÁT TRIỂN BÓNG RỔ Ở VIỆT NAM
Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, các mơn thể thao hiện đại trong
đó Bóng rổ cũng theo chân đội quân viễn chinh du nhập vào Việt Nam. Thời kỳ
đầu bóng rổ chỉ phát triển ở phạm vi hẹp trong một số trường học, công sở,
trong hàng ngũ binh lính Pháp và cũng chỉ ở một số thành phố lớn: Hà Nội, Hải
Phòng, Sài Gòn, Huế… Các mơn thể thao nói chung và mơn bóng rổ nói riêng
trong thời gian này nhìn chung chỉ phục vụ riêng cho giai cấp thống trị, kỹ chiến thuật thì cịn non kém, tư tưởng thì đấu thì cay cú ăn thua.


Cách mạng tháng 8 thành công, phong trào thể dục thể thao nói chung và

mơn bóng rổ nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buổi đầu được quan tâm
phát triển đúng mức. Song cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, nên phong trào
này phải tạm lắng xuống để tập trung lực cho kháng chiến giành thắng lợi.
Sau hòa bình lập lại năm 1954 ở miền Bắc phong trào bóng rổ được phát
triển rộng khắp với các trung tâm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Cao Bằng,
Lạng Sơn các ngành và các lực lượng vũ trang.
Hàng năm đều có tổ chức các giải vơ địch bóng rổ tồn miền Bắc: Giải
hạng A, Giải hạng B nam nữ, giải vô địch các đội mạnh, giải thanh thiếu niên.
Trong thời gian này ở miền Nam, tuy bóng rổ có phát triển ở một số
trường học nhưng không được chú trọng như bóng đá, xe đạp, quần vợt…
Năm 1975 từ sau ngày đất nước thống nhất, phong trào ngày càng phát triển
mạnh mẽ và có sức thu hút đơng đảo thanh niên học sinh tham gia tập luyện.
Ngày 15/ 05/ 1992 Hội bóng rổ Việt Nam được thành lập theo Quyết định
số 161/ NV của Bộ Nội vụ. Tại đại hội lần thứ 2 vào tháng 11 năm 1992 tại Hà
Nội, đại hội đã quyết định đổi tên Hội bóng rổ Việt Nam thành Liên đồn bóng
rổ Việt Nam – viết tắt là VBF (Vietnam Basketball Federation), Liên đồn bóng
rổ Việt Nam là thành viên chính thức của Liên đồn bóng rổ Quốc tế.
Trên phạm vi toàn quốc, hàng năm chúng ta đều tổ chức các giải vô địch
quốc gia, các giải trẻ thanh thiếu niên, giải U17, giải các câu lạc bộ... Các trung
tâm có phong trào bóng rổ mạnh hiện nay là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Quân đội, Yên Bái, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Sóc Trăng, Cần Thơ,
Tiền Giang, Lâm Đồng…
Phong trào bóng rổ tại các trường đại học, cao đẳng trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề được phát triển mạnh mẽ. Hàng năm Bộ Giáo dục và Đào
tạo đều tổ chức giải bóng rổ học sinh, sinh viên tồn quốc. Ngồi ra cịn có các
giải học sinh, sinh viên của các khu vực do hội thể thao đại học các khu vực tổ
chức. Tuy hiện nay chúng ta cịn có nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, song việc
giảng dạy bóng rổ bước đầu được đưa vào chương trình thể dục của các trường
phổ thơng. Mơn bóng rổ đã được đưa vào thi đấu chính thức tại Hội khỏe phù



đổng toàn quốc. Hàng năm sở Giáo dục và Đào tạo của Hà Nội, TP HCM và
một số tỉnh thành khác có phong trào bóng rổ phát triển mạnh đã tổ chức giải
bóng rổ cho học sinh phổ thơng trên toàn tỉnh thành. Hiện nay, hàng năm Hội
thể thao và chuyên nghiệp Hà Nội thường xuyên tổ chức giải Bóng rổ cho sinh
viên các trường Đại học, Học viện và Cao đẳng khu vực Hà Nội. Đội Bóng rổ
nam Học viện Cơng nghệ Bưu chính Viễn thơng mới được thành lập từ năm
2012 đến nay nhưng cũng đã tham gia đầy đủ các giải đấu của Hội thể thao khu
vực Hà Nội tổ chức. Đội bóng rổ nam Học viện đã giành nhiều giải cao tại giải
thi đấu này, trong tốp 5 trường có thành tích tốt nhất trong những năm qua,
4. Ý NGHĨA – TÁC DỤNG CỦA BÓNG RỔ
Với nhiều động tác tự nhiên đa dạng khác nhau như: đi, chạy, nhảy, dừng,
quay người, bắt, ném và dẫn bóng được thực hiện trong nhiều điều kiện thi đấu
đối kháng, bóng rổ các tác động củng cố hệ thần kinh, cơ quan vận động, thúc
đẩy nhanh sự trao đổi chất và tăng cường khả năng hoạt động của các hệ thống
các cơ quan trong cơ thể.
Tập luyện và thi đấu bóng rổ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện và
các tố chất vận động cho người tập như: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm
dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp vận động.
Do đặc điểm của mơn bóng rổ là hoạt động tập thể và có đối kháng trực tiếp,
nên ngoài sự phát triển toàn diện các tố chất vận động nó cịn phát triển tính
dũng cảm, tính đồn kết, tính kỷ luật, quyết đốn trong các tình huống thi đấu và
khả năng tư duy chiến thuật.
Bóng rổ cịn là một phương tiện hữu hiệu rất phù hợp với tư cách các bài tập
bổ trợ nhằm phát triển tổng hợp với các tố chất thể lực cho vận động viên của
các mơn thể thao khác.
Chính vì vậy mà mơn bóng rổ đã được đưa vào chương trình giáo dục thể
chất cho các lứa tuổi từ các trường phổ thông cho đến các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.


Câu hỏi ôn tập:


1. Nêu nguồn gốc ra đời và bản chất môn Bóng rổ.
2. Các giai đoạn phát triển của mơn Bóng rổ trên Thế giới.
3. Các giai đoạn phát triển của mơn Bóng rổ ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Bóng Rổ - In.M.PORTNOVA - Dịch Trần Văn Mạnh - NXB TDTT 1997.
2. Bóng rổ trong trường học – Đinh Can – NXB TDTT 2004
CHƯƠNG 2
KỸ THUẬT BÓNG RỔ
Mục tiêu
Sau khi học xong chuyên đề này người học nắm được:
- Phân loại của mỗi kỹ thuật.
- Yếu lĩnh cơ bản của các kỹ thuật tấn cơng và phịng thủ trong bóng rổ
- Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa sai.
THƠNG TIN CƠ BẢN
Kỹ thuật bóng rổ là tổng hợp các động tác giúp cho người học giải quyết
có hiệu quả các nhiệm vụ khi tập luyện và thi đấu.
Kỹ thuật của người học ở mỗi giai đoạn phát triển của mình, chính là
phương pháp có hiệu quả nhất đã được kiểm nghiệm qua thực tế để đào tạo cho
người học đó khả năng (trong phạm vi luật cho phép) hoạt động một cách có
hiệu quả trong các tình huống thi đấu phức tạp. Để đạt được kết quả tốt nhất
trong những tình huống thi đấu vừa hình thành tức thì, người học bóng rổ cần
phải biết sử dụng thành thạo các động tác và các phương pháp kỹ thuật khác
nhau, biết cách lựa chọn động tác thích hợp nhất hay phối hợp các động tác và
thực hiện chúng một cách nhanh chóng và chính xác.
Việc thực hiện các động tác kỹ thuật bóng rổ có thể chia làm hai loại: thực
hiện với tốc độ nhanh (biên độ nhỏ) và thực hiện với tốc độ chậm (biên độ lớn),



hai loại này có sự khác nhau rất cơ bản theo khả năng co cơ, sức mạnh phản lực
và thụ động, tình trạng cảm xúc, sự hoạt động tích cực của người học.
Trong các giai đoạn phát triển bóng rổ khác nhau, số lượng các động tác,
các phương pháp thực hiện động tác, phân tích đánh giá thực hiện đã được thay
đổi và hoàn thiện. Việc thay đổi luật thi đấu, việc làm phong phú hơn các chiến
thuật thi đấu cùng với tốc độ huấn luyện thể lực của vận động ngày một nâng
cao đã ảnh hưởng nhiều tới sự cải tiến các động tác kỹ thuật.
Kỹ thuật bóng rổ được chia thành 2 phần chính: Kỹ thuật tấn cơng và kỹ
thuật phòng thủ. Trong mỗi phần lại được chia thành các nhóm. (sơ đồ phân loại
kỹ thuật bóng rổ).
I. KỸ THUẬT TẤN CÔNG
1. CÁC KỸ THUẬT DI CHUYỂN KHÔNG BÓNG
Để di chuyển trên sân người học sử dụng các động tác: đi, chạy, nhảy,
dừng và quay người. Nhờ có những động tác này người học có thể chọn vị trí
đúng, thốt khỏi sự kèm bám của đối phương để bắt, chuyền, dẫn bóng đồng
thời lơi kéo đối phương theo mình để tạo khoảng trống cho đồng đội thực hiện
mục đích tấn cơng của đội.
1. 1. Đi
Trong thi đấu bóng rổ, động tác đi chỉ để sử dụng khi thay đổi vị trí trong
thời gian ngắn hoặc giảm cường độ thi đấu. Khác với đi bộ bình thường, trong
bóng rổ đi gối hơi co và điều này giúp người tập ln có khả năng tăng tốc bất
ngờ.
1.2. Chạy
1.2. 1. Chạy tự nhiên
Đặc điểm khi di chuyển là mắt luôn quan sát tình hình trên sân để điều
khiển sự di chuyển của mình.
Khi chạy hai chân đặt trên mặt đất bằng nửa trên của bàn chân hoặc cả bàn
chân, người hơi ngả về phía trước, hai đầu gối khuỵu xuống tự nhiên, hai tay
gấp và đánh thả lỏng ở hai bên mình.

Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa


Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Vai và tay bị gị bó, khơng thả 1. Khơng so vai khi chạy, hai tay nắm hờ
lỏng nên chóng mệt mỏi

và thả lỏng cẳng tay, cổ tay

2. Khi di chuyển không quan sát tình 2. Mắt khơng nhìn xuống đất mà quan sát
hình trên sân chỉ tập trung vào một nhìn các hướng.
vị trí nên dễ xảy ra va chạm.
1. 2.2. Chạy biến tốc
Đây là phương pháp tốt nhất thoát khỏi sự kèm chặt của đối phương và di
chuyển đến chỗ khơng người kèm.
Khi đang chạy bình thường muốn chạy nhanh thì dùng sức đạp chân của nửa
trên hai bàn chân về hướng sau, 4 – 5 bước đầu tiên cần ngắn song thực hiện với
tốc độ nhanh. Muốn chạy chậm lại thì chân bước dài, người hơi ngả về phía sau,
hai tay khi chạy thả lỏng.
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Trong di chuyển thay đổi tốc độ 1. Kẻ trên sân bóng rổ những vạch cách
khơng tự nhiên.


nhau khoảng 10m, chạy chậm đến vạch
này, chạy nhanh đến vạch kia.

2. Độ ngả của thân người không phù 2. Tập chạy nhanh chậm với nhịp độ
hợp với tốc độ chạy.

chậm, sau đó nhanh dần.

1.2.3. Chạy lùi
Trong bóng rổ khi cần quan sát ngược với hướng di chuyển thì người ta
sử dụng kỹ thuật chạy lùi. Chạy lùi là phương pháp tốt nhất để nhận những quả
bóng từ dưới lên, hoặc trong phịng thủ để quan sát tình hình tấn cơng của đối
phương trên sân.
Khi chạy đầu gối hai chân luôn gấp, thân trên hơi ngả về trước, lưng quay
về hướng định di chuyển.
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa


Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Trong di chuyển thực hiện động 1. Người hạ thấp, hai gối gấp nhiều, tập
tác này hay bị ngã

làm quen với tốc độ chậm và sau đó
nhanh dần .

2. Khi chạy khơng theo dõi được ở 2. Tập cảm giác cơ thể như: mắt, thân,
phía sau lưng.


chân, tay... khi có người ở phía sau.

1.2.4. Chạy nghiêng
Trong thi đấu bóng rổ để dễ quan sát được tình hình trên sân, người học
thường sử dụng động tác chạy nghiêng. Khi chạy nghiêng động tác chạy như
chạy tự nhiên, hai mũi chân luôn hướng về phía di chuyển song thân trên và mặt
vẫn quay về phía có bóng để quan sát.
+ Sai lầm thường mắc: Khi chạy thường xuyên cả thân và chân về hướng
bóng
+ Cách sửa:
- Khi tập chạy hai mũi chân phải luôn hướng về phía di chuyển.
- Tập làm quen với tốc độ chậm và sau đó nhanh dần .
1.2.5. Chạy biến hướng
Đang chạy người học đột ngột thay đổi hướng di chuyển nhằm mục đích
thốt khỏi người kèm.
Khi chạy muốn đổi hướng cần sử dụng chân nghịch với hướng muốn di
chuyển đạp xuống đất nghịch hướng với đường di chuyển, thân người và các
bước tiếp theo xoay về hướng đó để di chuyển. Muốn chạy chuyển hướng có kết
quả khi có người phịng thủ thì phải dấu được ý định trước khi làm động tác, tốc
độ trước khi chuyển hướng chậm, sau đó chuyển hướng phải nhanh (Hình 1).


Hình 1
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Động tác chuyển hướng không 1. Tập phối hợp di chuyển với tốc độ từ

nhịp nhàng.

chậm tới nhanh .

2. Không đạt hiệu quả khi chuyển 2. Trước khi đổi hướng phải dấu được ý
hướng.

định, bước thứ nhất khi chuyển hướng
phải nhanh, ngắn.

1.3. Nhảy
Trong bóng rổ nhảy được sử dụng như những động tác độc lập là 1 phần
quan trọng của nhiều động tác kỹ thuật khác. Trong thi đấu các động tác tranh
bóng, chuyền bắt bóng, ném rổ và cướp bóng dưới rổ…đều yêu cầu người học
cần có kỹ thuật bật nhảy tốt. Có 2 cách thực hiện kỹ thuật nhảy: Nhảy bằng 2
chân và nhảy bằng 1 chân.
1.3.1. Nhảy bằng 2 chân.
Động tác này thường được thực hiện khi đứng tại chỗ và được dùng nhiều
trong nhảy tranh bóng, ném rổ và cướp bóng dưới rổ.
Trong khi nhảy, 2 chân khuỵu gối, hạ thấp trọng tâm sau đó dùng sức
mạnh đạp 2 chân từ gót chuyển lên mũi bàn chân vươn mạnh thân đồng thời 2
tay vung từ dưới đưa ra trước - lên trên để thực hiện tranh bóng.
1.3.2. Nhảy bằng 1 chân.


Thường được thực hiện khi có chạy đà. Để sử dụng tối đa quán tính chạy
đà, bước cuối cùng trước khi giậm nhảy cần dài hơn trước đó và đặt gót chân
chạm đất. Tiếp đó khuỵu gối để hạ thấp trọng tâm và khi bật lên thì đạp mạnh
chân từ gót lên mũi, đồng thời 2 tay vung từ thấp lên cao, chân lăng đánh mạnh
từ sau ra trước, lên trên để góp phần đẩy cơ thể lên cao. Sau khi bật nhảy lên cao

để thực hiện các động tác kỹ thuật vận động viên cần chuẩn bị để có thể tiếp đất
nhẹ nhàng bằng việc gập chân để giảm chấn động.
1.4. Dừng
Là loại động tác được thực hiện đột ngột để thốt khỏi người phịng thủ.
Người tấn cơng đang di chuyển đột nhiên dừng lại để thoát khỏi đối phương khi
có bóng trong tầm tay, hoặc để nhận bóng của đồng đội chuyền cho. Có 2 loại
dừng.
1.4.1. Dừng bằng 2 bước.
Thường áp dụng khi tốc độ di chuyển nhanh. Khi đang chạy muốn dừng
bằng 2 bước thì bước thứ nhất đặt gót chân và xoay ra phía ngồi so với hướng
chạy, trọng tâm hạ thấp. Bước thứ hai miết bàn chân xuống đất để giảm tốc độ,
người xoay chếch theo mũi bàn chân của bước thứ nhất (Hình 2).

Hình 2: Hai bước dừng
1.4.2. Nhảy dừng
Thường áp dụng khi tốc độ di chuyển vừa phải. Khi đang chạy muốn
dừng lại thì dùng một chân đạp đất để nhảy lên khơng, thân trên hơi ngả ra sau.
Khi rơi xuống hai chân cùng một lúc hoặc lần lượt chạm đất. Khi chạm đất
người hơi ngả về phía sau, 2 chân khuỵu dùng mép bàn chân miết xuống đất
(Hình 3).


Hình 3: Nhảy dừng
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Khi dừng hai chân thường di 1. Tại chỗ tập miết bàn chân xuống đất,
chuyển nên phạm luật chạy bước.


khi làm tốt mới sử dụng tốc độ nhanh

2. Không giữ được thăng bằng khi 2. Trọng tâm cơ thể phải hạ thấp, ln
dừng.

ngả người về phía sau, kết hợp với hai
tay đánh mạnh để giữ cho thân người
thăng bằng
1.5. Kỹ thuật quay người
Quay người thường dùng để thoát khỏi người phịng thủ, tránh được hành

động phá cướp bóng của đối phương. Có hai cách quay người là quay trước và
quay sau: Nếu chân di chuyển quay ra trước mũi chân trụ gọi là quay trước, nếu
chân di chuyển quay ra sau gót chân trụ thì gọi là quay sau.
Khi quay người, hai gối trùng, trọng tâm thấp, hai chân rộng bằng vai,
trọng tâm dồn vào chân trụ. Dùng nửa bàn chân trên của bàn chân trụ thực hiện
động tác quay, khi quay thì đạp mạnh kết hợp với động tác xoay thân trên về
trước hoặc sau, trọng tâm giữ nguyên, chân sau khi đạp đất phải chủ động bước
về hướng quay.
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa


1. Khi quay thường phạm luật chạy 1. Lấy nửa bàn chân trên của bàn chân
bước do di chuyển bàn chân trụ.

làm trụ, không được chuyển chận trụ từ

chân này sang chân làm trụ kia.

2. Quay người không hết và mất 2. Khi quay thân người không di chuyển
thăng bằng .

nhấp nhô, chân quay sau khi đạp đất phải
chủ động bước về hướng quay.

3. Không biết thực hiện động tác 3. Phải chủ động kết hợp cả vai, hông và
quay sau.

tay đánh chéo về hướng sau cùng với sức
của chân quay đạp đất.

2. KỸ THUẬT KHỐNG CHẾ BÓNG
2.1. Kỹ thuật bắt bóng
* Tầm quan trọng của kỹ thuật bắt bóng.
Bắt bóng là một động tác mà nhờ nó người học có thể kiểm sốt bóng một
cách chắc chắn và áp dụng những động tác tấn cơng có bóng tiếp theo.
Bắt bóng cũng là tư thế ban đầu để tiến hành tiếp theo các động tác
chuyền bóng, dẫn bóng và ném rổ. Vì vậy cấu trúc của động tác bắt bóng phải
đảm bảo để có thể thực hiện các động tác tiếp theo một cách hợp lý. Nếu bắt
bóng khơng tốt thì sẽ mất cơ hội tấn cơng và đối phương bắt được bóng thì sẽ bị
phản cơng ngược lại.
* Phân loại kỹ thuật bắt bóng.
Bắt bóng

Đặc điểm di chuyển

Tốc độ bay của bóng


Hướng bóng đến

Bóng bật đất

Đang lăn

Dưới thấp

Trước ngực

Trên cao

Bằng một tay
Bóng bật đất

Đang lăn

Dưới thấp

Trước ngực

Trên cao

Bằng hai tay


Bên cạnh

Cùng hướng

di chuyển

Chính diện

Chậm

Trung bình

Nhanh

Bật nhảy

Di động

Tại chỗ

2.1.1. Kỹ thuật bắt bóng bằng 2 tay.
* Đặc điểm sử dụng.
Bắt bóng bằng 2 tay là động tác được sử dụng nhiều trong thi đấu, có thể
bắt bóng từ mọi hướng đến vì nó rất cơ bản, bắt dễ dàng, bảo vệ bóng tốt, tiện
cho làm động tác tiếp theo, song phạm vi bắt bóng hẹp.
* Phân tích kỹ thuật.
+ TTCB hai chân đứng song song hoặc trước sau, khoảng cách rộng bằng
vai, gối khuỵu, thân trên quay về hướng bóng đến.
+ Khi bắt bóng hai tay mở thành
hình túi, các ngón tay mở thả lỏng tự
nhiên, hình thành giống như chiếc
phễu, khoảng cách giữa 2 tay nhỏ hơn
đường kính của bóng, 2 ngón cái tạo
thành hình chữ A (hình 4), chủ động

đưa ra đón bóng theo hướng bóng

Hình 4: Hình tay bắt bóng

đến.
Bộ phận tiếp xúc đầu tiên với bóng là các ngón tay sau đó nhanh chóng
hỗn xung đưa bóng nằm gọn vào 2 lịng bàn tay, đồng thời khép cổ tay gần vào
nhau và 2 tay hơi gập lại ở khớp khuỷu và kéo về ngực để bảo vệ bóng chuẩn bị
làm động tác tiếp theo (hình 5).


Hình 5: Kỹ thuật bắt bóng bằng 2 tay
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Hình tay bắt bóng khơng đúng 1. - Tập mơ phỏng hình tay bắt bóng.
nên khơng bắt được bóng.

- Tập cách cầm bóng đúng hình tay.
- Tại chỗ tự tung bóng lên và bắt bóng hoặc

2. Khi bắt bóng, bóng bị bật khỏi chuyền vào tường và bắt bóng đúng hình tay.
tay hoặc bóng bị lọt ra phía sau.

2. Chủ động đưa tay đón bóng và hỗn xung.

2.1.2. Kỹ thuật bắt bóng bằng 1 tay.
* Đặc điểm sử dụng.

Động tác được sử dụng nhiều trong thi đấu, để bắt những quả bóng xa
thân người mà hai tay không bắt được. Phạm vi khống chế của động tác này
rộng hơn sơ với bắt bóng bằng 2 tay, song khó và khơng chắc chắn.
* Phân tích kỹ thuật.
+ TTCB đứng chân trước chân sau, khoảng cách rộng bằng vai, gối
khuỵu, thân trên quay về hướng bóng đến.
+ Khi thực hiện động tác, cần chủ động đưa tay ra đón bóng. Bàn tay và
ngón tay khơng giữ căng, hướng về phía bóng tới. Khi bóng vừa chạm các ngón
tay, thì đưa tay ra sau xuống thấp dùng lực hỗn xung của cổ tay và các ngón tay
giữ bóng lại (dường như tiếp tục chuyển động theo đường bay của bóng) đồng
thời quay người một chút về phía tay bắt bóng để hỗ trợ cho động tác này.
Kết thúc giữ bóng bằng 1 tay, sau đó giữ chặt bóng bằng 2 tay để sẵn sàng
thực hiện động tác tiếp theo (Hình 6 )


Hình 6: Kỹ thuật bắt bóng bằng 1 tay
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Khi bắt, bóng bị rơi xuống đất 1. - Chủ động đưa tay đón bóng.
hoặc bật khỏi tay.

- Dùng lực hỗn xung kéo bóng về nhanh
và chủ động giữ lấy bóng.

2. Khi kéo bóng về thường bị rơi 2. Khi bắt bóng phải kết hợp giữa xoay
mất bóng ảnh hưởng đến động tác cổ tay, cánh tay cùng với cẳng tay cho tới
tiếp theo.


khi kéo bóng tới vị trí trước ngực.

2.2. Kỹ thuật chuyền bóng
* Tầm quan trọng của kỹ thuật chuyền bóng.
Trong thi đấu bóng rổ, chuyền bóng tốt là cơ sở cho sự phối hợp chính
xác giữa các cầu thủ trên sân thi đấu. Nếu chuyền bóng khơng tốt thì khơng có
điều kiện ném rổ được. Trong tấn công trận địa nếu chuyền bóng khơng chính
xác dễ bị đối phương cắt bóng hoặc đồng đội nhận được bóng trong điều kiện
khó khăn thì hiệu quả tấn công không tốt, khả năng giành thắng lợi sẽ khơng
cao.
* Phân loại kỹ thuật chuyền bóng.
Chuyền bóng
Bằng hai tay

Bằng một tay


Sau lưng

Dưới thấp

Bên mình

Ngang vai

Ngang sau
lưng

Ngang ngực


Vượt lên trước

Ngược chiều

Hướng di chuyển của đồng
đội

Gần

Trung bình

Xa

Khi bật nhảy

Khi di chuyển

Cự ly

Ngang đầu

Trên cao

Dưới thấp

Trước ngực

Ngang vai


Trên cao
Tại chỗ

Đặc điểm di chuyển

* Yêu cầu chung về chuyền bóng.
Trong thi đấu bóng rổ có thể vận dụng các kỹ thuật chuyền bóng khác
nhau. Muốn chuyền bóng tốt cần phải chú ý những điểm sau:
- Sau khi bắt bóng phải làm động tác chuẩn bị chuyền bóng ngay để tranh
thủ thời cơ tấn cơng.
- Khi chuyền bóng cần dùng sức của cổ tay và các ngón tay là chủ yếu,
sức cánh tay và thân người là động tác hỗ trợ.
- Phải dựa vào tốc độ của đồng đội mà chuyền cho phù hợp.
- Phải tùy vào vị trí của đồng đội ở trên sân mà chuyền xa hay gần, mạnh
hay nhẹ để đồng đội bắt được một cách dễ dàng.
2.2.1. Kỹ thuật chuyền bóng hai tay trước ngực
* Đặc điểm sử dụng: Đây là phương pháp cơ bản cho phép chuyền bóng
nhanh và chính xác cho đồng đội ở khoảng cách gần hay trung bình. Kỹ thuật
này dùng nhiều khi đối phương khơng kèm chặt.
* Phân tích kỹ thuật.


+ TTCB đứng chân trước, chân sau
khoảng cách 2 chân rộng bằng vai, gối khuỵu
mắt qua sát hướng chuyền.
Hai tay cầm bóng ở 2 bên lùi về nửa sau
của bóng, các ngón tay xịe tự nhiên, bóng tiếp
xúc vào phần chai tay và các ngón tay, long bàn Hình 7: Động tác cầm bóng 2
tay khơng chạm bóng. Cánh tay thả lỏng tự
tay khi chuyền

nhiên, bóng để ở trước bụng trên (hình 7).
+ Khi chuyền ngả người nhanh về trước chân sau đạp đất hai tay đưa từ
dưới lên tạo thành một đường vòng cung nhỏ, cổ tay hơi bẻ và duỗi cánh tay về
hướng chuyền. Khi tay gần thẳng hết dùng lực cổ tay, các ngón tay (trỏ, giữa và
cái) đẩy bóng đi, bóng dời tay cuối cùng ở ngón trỏ và ngón giữa. Để tạo lên
đường bóng đi mạnh, các ngón tay phải miết đều vào bóng và khi bóng rời tay
lịng bàn tay hơi xoay ra ngồi. Sau khi bóng dời khỏi tay, hay tay duỗi thẳng,
trọng tâm dồn về hướng chuyền, kết thúc động tác 2 lưng bàn tay hướng vào
nhau (hình 8).
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa

1. Chuyền bóng khơng đúng, 1. - Tập cầm bóng đúng vị trí khi chuyền.
khơng sử dụng được lực của cổ - Tập mô phỏng động tác chuyền khơng
tay khi chuyền.

bóng và động tác ra tay cuối cùng.
- Tập chuyền bóng với tốc độ chậm sau đó
nhanh dần.

2. Phối hợp động tác khơng nhịp 2. - Cầm bóng cố định, tập chuyển sức từ
nhàng giữa tay, chân và thân.

chân tới tay.
- Tập miết đều 2 tay vào bóng.
- Tập chuyền ở cự ly gần sau đó kéo dài cự
ly.



Hình 8: Kỹ thuật chuyền bóng 2 tay trước ngực
2.2.2. Kỹ thuật chuyền bóng hai tay bật đất
* Đặc điểm sử dụng
Kỹ thuật chuyền bóng hai tay bật đất thường được dùng ở cự ly gần và
trung bình, động tác này được sử dụng để chuyền vượt qua người phòng thủ cho
đồng đội. Động tác này đặc biệt có hiệu quả khi chuyền qua đối phương có tầm
vóc cao hoặc đối phương đứng phịng thủ cao.
* Phân tích kỹ thuật.
+ Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước, chân sau khoảng cách 2 chân rộng
bằng vai, gối khuỵu, trọng tâm thấp, 2 tay cầm bóng để ở trước bụng trên, cánh
tay thả lỏng tự nhiên.
+ Khi chuyền: Hai tay đưa từ dưới lên trên ra trước tạo thành một đường
vòng cung nhỏ, khi đưa tay đến ngang ngực thì xoay hai cổ tay và lòng bàn tay
hướng xuống mặt sân nơi chuyền, duỗi cánh tay về phía hướng chuyền, khi tay
gần thẳng hết dùng lực cổ tay, các ngón tay đẩy bóng đi, các ngón tay phải miết
đều vào bóng. Điểm chạm bóng của động tác chuyền bóng bật đất ở 1/3 khoảng
cách giữa người bắt và người chuyền (điểm chạm nền 2/3 khoảng cách tới người
chuyền, 1/3 khoảng cách tới người bắt). Nếu người phịng thủ cách xa người
chuyền bóng thì điểm chạm nền ở ngay cạnh chân người phịng thủ. Kết thúc
động tác hai tay duỗi thẳng, lòng bàn tay hơi xoay ra ngoài, trọng tâm dồn về
hướng chuyền (hình 9).


Hình 9: Kỹ thuật chuyền bóng 2 tay bật đất
Những sai lầm thường mắc và phương pháp sửa chữa
Những sai lầm thường mắc

Phương pháp sửa chữa


1. Chuyền bóng dễ bị đối phương 1. - Căn cứ vào vị trí đứng của người
phịng thủ để chọn điểm chạm nền nảy lên
đốn được ý định chuyền
thích hợp.
- Động tác thực hiện phải tự nhiên, khi
chuyền nên kết hợp với các động tác giả
- Tập chuyền bóng nhanh và kín.
2. Khi kéo bóng về thường bị rơi 2. - Tập chuyền với hai tay dùng lực đều,
mất bóng ảnh hưởng đến động tác xoay cổ tay, miết các ngón tay đều vào
tiếp theo.

bóng.
- Dùng lực của các ngón tay(trỏ, cái, giữa)
kết hợp duỗi tay và sức của chân, hơng,
thân người đẩy bóng đi.

2.2.3. Chuyền bóng hai tay trên đầu
* Đặc điểm sử dụng
Kỹ thuật này thường được sử dụng để chuyền bóng ở khoảng cách trung
bình khi đối phương phịng thủ chặt hoặc khi bắt bóng ở trên cao và muốn
chuyền bóng ngay. Vị trí bóng ở trên đầu tạo ra khả năng ném bóng chính xác
cho đồng đội vượt qua tay của người phòng thủ.


×