Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận cao học - Vấn đề bản thể luận trong triết học cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.95 KB, 38 trang )

VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

1


CHƯƠNG THỨ NHẤT
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỎ ĐẠI
1. VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội của Hy Lạp cổ đại và sự xuất
hiện những tư tưởng triết học đầu tiên
Những tư tưởng triết học đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thời kỳ
diễn ra những diễn biến sâu sắc trong quan hệ xã hội, trước hết là sự tan rã chế
độ thị tộc và sự thiết lập chế độ chiến hữu nô lệ, chế độ xã hội có giai cấp đầu
tiên trong lịch sử lồi người. Đó là một q trình lâu dài, phức tạp, với những
cuộc chiến tranh và xung đột triền miên.
Lãnh thổ Hy Lạp xưa rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao gồm
phần đất liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egie, vùng duyên hải Balcan và tiểu
Á. Từ cuộc di thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII - VI TCN, người Hy Lạp chiếm thêm
miền nam Ý, đảo Sicile, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp. Những cuộc
viễn chinh toàn thắng của Alexandre xứ Macedoine vào cuối thế kỷ IV TCN đã
đưa đến sự ra đời các cuốc gia Hy Lạp hóa trải rộng từ Sicile ở phía tây Ân Độ ở
phía đơng, từ biển Đen ở phía bắc đến khu vực tiếp giáp sơng Nil ở phía nam.
Tuy nhiên trung tâm của Hy Lạp cổ đại, trải qua bao thăng trầm, vẫn là vung
biển Egie, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp đạt tới sự phồn thịnh cao nhất
của mình.
Vào thời đại Homère (thế kỷ XI- IX TCN), ở Hy Lạp, đã chớm bắt đầu quá
trình tan rã của công xã thị tộc, được thú đẩy bởi sự phân công lao động, diễn ra
trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn ni. Đồng tiền kim khí chưa xuất
hiện, thương nghiệp và nghề thủ công chiếm tỷ trọng không đáng kể trong đời


sống. Đọc Homère, người ta dễ dàng nhận thấy rằng, những nhân vật trong
trường ca sử thi Iliade và Odyssei không phải là nhưng lực sĩ trên đồng ruộng,
giỏi khẩn hoang, làm cỏ, cày xới, mà thiên về phơ trương sự thiện chiến của
mình. “Chiến tranh” và “xung đột” là những từ ngữ thường thấy trong các sang
2


tác thần thoại, nghệ thuật thời kỳ này. Đằng sau những câu chuyện về chiến
tranh giữa các vị thần đã ẩn chứa các sự kiện lịch sử đầy bi kịch. Chiến tranh tạo
ra và tôn vinh thủ lĩnh, thủ lĩnh khẳng định quyền lực của mình bằng cách dấn
thân vào những cuộc phiêu lưu bằng máu.
“Polis”, khái niệm chung để lối tổ chức nhà nước độc đáo của người Hy
Lạp xuất hiện từ rất sớm, nhưng vào thời Homere, nó chưa được hiểu như thị
quốc, mà chỉ như một cụm dân cư, sống có tổ chức, được thành lũy kiên cố xung
quanh bao bọc(1). Chữ viết chưa ra đời, truyền thống cơng xã cịn khá mạnh với
uy lực gần như tuyệt đối của các tộc trưởng. Tuy nhiên, trong nội bộ công xã đã
bắt đầu diễn ra những xung đột từ việc hôn nhân đến việc phân chia tài sản giữa
các thế hệ. Cuối cùng là sự việc phân định quyền lực. Biểu hiện đầu tiên của
phân hóa xã hội là xuất hiện hai loại người có địa vị và quyền lợi đối lập nhau những người được chia nhiều đất (policler) và những người khơng có đất canh
tác (acler).
Bước sang thế kỷ VIII TCN, kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát
triển với nhịp độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông nghiệp và tiến những
bước đáng kể. Nghành đóng tàu được khuyến khích nhằm phục vụ cho thương
nghiệp và chiến tranh. Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích q trình vượt biển
tìm đất mới, xâm chiếm lãnh thổ các xứ láng giềng, bắt người làm nơ lệ. Bên
cạnh đó, cơng cuộc di thực cũng thúc đẩy khả năng giao lưu văn hóa, khoa học
giữa Hy Lạp và các dân tộc khác.
Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan rã
của nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các lực
lượng xã hội, sự thơn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế độ

công xã thị tộc là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến chỗ suy
vong, và bị thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những quan hệ xã
hội mới. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên con đường phát
triển lịch sử của nhân loại. Nhà nước chiếm hữu nô lệ phục vụ cho thiểu số dân
chúng đang ngày một giàu thêm, nhất là từ sau khi đồng tiền kim khí được phát
1. Xem thêm Nguyễn Mạnh Tường: Aiskhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hy Lạp, NXB giáo dục, 1996, tr 25-28.

3


hành vào thế kỷ VII TCN. Bắt đầu từ đây những sung đột xã hội mang dấu ấn
của những trận chiến giai cấp, lúc âm ỉ, lúc quyết liệt diễn ra liên tục.
Cùng với sự hình thành các thị quốc - tổ chức nhà nước đặc thù, nền văn
hóa mới cũng được xây dựng, trở thành bộ phận hữu cơ của toàn bộ đời sống xã
hội Hy Lạp cổ đại. Những biểu hiện chủ yếu của hệ thống các giá trị tinh thần
mới là sự duy lý hóa tư duy, ý thức về nhân cách, ca ngợi tính tích cực, lòng quả
cảm và năng lực con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, tinh thần ái quốc,
quan niệm về tự do như phạm trù đạo đức - chính trị cao quý nhất… sự hình
thành những cơ sở của văn hóa Hy Lạp khơng diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà
là sự kế thừa những giá trị truyền thống, thể hiện trong các sáng tác dân gian,
trong thần thoại, trong các hình thức sinh hoạt tơn giáo, trong những mầm mống
của tri thức khoa học. Tư tưởng triết học phát sinh và phát triển như một thành
tố không tách rời của văn hóa mới ấy. Với tính cách là tinh hoa tinh thần của
thời đại, nó cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp lý, có hệ
thống về những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con người trong thế giới và
thế giới của chính con người, do con người tạo ra cùng những giá trị, những
chuẩn mực, những định hướng cho mình. Các chiết gia đầu tiên (Pythagore
chẳng hạn) gọi mình là “Những người yêu mến sự thông thái” (philosophos). Sự
thông thái giờ đây đã được “Thế tục hóa”, trở thành sở hữu của con người, chứ
khơng cịn là đặc quyền của thần linh như trong các câu chuyện thần thoại xưa

vẫn đề cập. Từ đó, mới có định nghĩa triết học là “ yêu mến sự thông thái”
(philosophos), suy rộng ra, là sự khát vọng hiểu biết, khám phá, khát vọng
hướng tới chân lý. Sau này, theo tinh thần đó, G.W.F. Hegel xem lịch sử triết học
là con đường hướng tới chân lý. “Các triết ra đầu tiên”, - T.I. Oizerman viết,
- sở dĩ là những triết gia, vì họ đoạn tuyệt với thế giới quan thần thoại
truyền thống”(1). Nhận định vừa nêu cho thấy sự ra đời của triết học đánh dấu
bước chuyển từ thần thoại sang sự lý giải độc lập, sâu sắc hơn của con người về
những gì cần quan tâm, và điều đáng nhấn mạnh là những sét đốn ấy khơng cịn

1. T. l. Oizerman: những vấn đề khoa học lịch sử triết học, Moskva, 1982, tr. 20 (tiếng Nga)

4


bị giàng buộc vào những tác động từ bên ngoài. Chúng đã là tiếng nói của con
người thực sự và vì con người.
2. Từ thần thoại đến triết học.
Sự ngạc nhiên trước thế giới rộng lớn và đầy bí hiểm đã thúc đẩy con người
tìm hiểu thế giới ấy. Ở buổi đầu lịch sử, hạn chế của nằng lực nhận thức được bù
đắp bằng trí tưởng tượng về các hiện tượng tự nhiên, thần thánh hóa chúng.
Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng của con người với tự
nhiên.
Thần thoại (tiếng Hy lạp mythologia, trong đó, mythos là câu chuyện,
truyền thuyết; logos – lời nói, học thuyết) ngự trị trong ý thức đại chúng cùng
với thuyết nhân hình xã hội nguyên thủy, vật linh thuyết, vật hoạt luận… người
nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng; những
quan điểm của họ về sự vật hãy còn mơ hồ, rời rạc, phi lơgic. Các yếu tố tư
tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và
chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần thoại cịn chưa
bị phân lơi. Tuy nhiên thần thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định

ghi dấu các mức độ trưởng thành của ý thức. Đỉnh cao phát triển của thần thoại
cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó, sự thay thế nó bằng hình
thức thế giới quan mới, đáp ứng nhu cầu nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc
hơn của con người. Quá trình này bắt đầu từ thời đại Homère. Anh hùng ca
Iliade và Odyssée của Homère về cơ bản là tác phẩm thần thoại – nghệ thuật
nhưng lại gợi cho con người đọc những suy nghĩ mà truyền thống chưa từng biết
đến thứ nhất, đó là tính cách của các vị thần. Ở đây, thần và người giường như
khơng khác nhau về tính cách. Đằng sau số phận của các vị thần và các thủ lĩnh
siêu phàm, tài ba là những thông điệp của cuộc sống, những bài ca về lịng u
nước, tình đồng đội, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, anh em. Các vị thần cũng mắc
phải những thói hư tật sấu như con người: ghen tng, hiềm khích, đố kị, lừa
dối… thứ hai, là sự chắp nối các câu chuyện về sinh hoạt của thần và người: có

5


thể thấy những phác thảo sơ lược của Homère về nguồn gốc thế giới, về các
hành chất, về trời, đất, đại dương…(10).
Nếu ở Homère, các lực lượng lịch sử - tự nhiên cịn ẩn mình trong vỏ bọc
siêu nhân, thì đến Hésiode bức tranh sinh thành và biến hóa của thế giới đã
mang dáng vẻ của một vũ trụ quan sơ khai trong thần hệ (Théogonie) Hésiode
trình bày các thế hệ thần linh nối tiếp nhau, có đầy đủ các quan hệ, kết giao, sinh
hoạt như ở người. Thế hệ đầu tiên là Chaos, tượng trưng cho vũ trụ lúc cịn ở
trạng thái hỗn mang. Ở đây, Hỗn mang khơng phải là một cái gì đó vơ trật tự,
lộn xộn, mà theo từ nguyên Hy Lạp, là sự nứt ra, nở ra thành vực thẳm chứa đầy
sương mù và bóng tối, tạo nên khoảng cách giữa đất và trời. Hỗn mang là thế hệ
thứ nhất của Thần hệ. Hai thế hệ tiếp theo là thần Gaia có bộ ngực vĩ đại, được
hiểu như Đất mẹ nuôi dưỡng vạn vật; thần Eros lộng lẫy, tượng trưng cho sức
mạnh đàn ông, đảm bảo q trình sinh thành và biến hóa của vũ trụ; thần bóng
tối; thần ban đêm… Ở thế hệ thứ ba thần Gaia sinh ra thần Uran – bầu trời, cịn

thần bóng tối và thần ban đêm lần lượt sinh ra những mặt đối lập của mình là
thần ánh sáng (Aither) và thần ban ngày (Hemèra). Sự kết giao giữa thần Gaia
và thần Uran ở thế hệ thứ tư sinh ra những quái vật trăm tay, năm mươi đầu,
hoặc một mắt, khuynh đảo cả vũ trụ. Cái ác bắt đầu xuất hiện như mặt trái tất
yếu trong cuộc tranh chấp triền miên. Thần Zeus, thần của các thần, giành vị trí
tối cao trong đẳng cấp vũ trụ sau những xung đột vào thế hệ thứ năm. Quá trình
vận hành từ hỗn mang đến Zeus là quá trình đi tới trật tự, ánh sáng và sự tổ chức
xã hội trong vũ trụ. Và Hésiode.
Tóm lại, vấn đề thế giới quan cơ bản ở Homère là vấn đề quan hệ giữa
con người, vũ trụ và thần linh, tượng trưng cho các hiện tượng khác nhau của xã
hội và tự nhiên, giữa hiện thực và tưởng tượng. Trong Thần hệ của Hésiode con
người tồn tại chỉ như sản phẩm ngẫu nhiên, bất tất, nhưng lại đe doạ quyền lực
của thần linh. Hiện tượng Prométei lấy trộm lửa của thần Zeus hàm chứa ý nghĩa
sâu xa: lửa – biểu tượng của sức mạnh và lý trí – khơng cịn là đặc quyền của
thần linh nữa, mà đã cố hữu nơi con người, cho dù bằng con đường “không hợp
1. Xem Homère: lliade. Gồm hai quyển, bản dịch của Hoàng Hữu Đản, NXB văn học, Hà Nội, 1997, đọc trong
24 khúc ca.

6


pháp”, đáng bị trừng phạt. Tương tự như vậy, sự ra đời của logos, Lời lý trí
thiêng liêng, thách thức vị trí của thần tối cao. Ở một bình diện khác, bình diện
lịch sử, văn hố, logos dự báo sự khủng hoảng của thế giới quan thần thoại và sự
manh nha thế giới quan triết học. Thuật ngữ logos, phát nguyên từ thần thoại, về
sau được làm sâu sắc thêm ở ý nghĩa triết học, trở thành khái niệm trung tâm của
phép biện chứng chất phát Héraclite.
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII – đầu thế kỷ thứ VI TCN, các thị quốc
bước vào thời kỳ phát triển khá thịnh vượng. Sự phân công lao động lần thứ hai
(tách nghề thủ công ra khỏi nghề nông) và xuất hiện đồng tiền kim khí đã tạo

nên những khởi sắc trong các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là sự hình thành
các nhóm người sống bằng lao động trí óc, biết tích hợp những tinh hoa văn hố,
khoa học vào trong những cách ngơn, những tản văn có giá trị nhận thức cao.
“Bảy nhà thông thái” được lịch sử biết đến như những người mở đường cho một
nền triết học thực sự. Trong số họ nổi bật Thalès, người mà Aristote gọi là nhà
triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Với Thalès triết học đã ra đời, thay thế thần
thoại và tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức khoa học vào
trong một hệ thống mang tính khái quát cao. Triết học ra đời như sự giải quyết
mâu thuẫn giữa bức tranh thần thoại về thế giới, được xây dựng trên tưởng
tượng, với nhận thức và tư duy mới, như sự phổ biến tư duy từ diện hẹp ra diện
rộng, từ tản mạn đến hệ thống. Con đường từ thần thoại đến triết học, theo
Hegel, là con đường đi từ lý tính hoang tưởng đến lý tính tư duy, từ hình thức
diễn đạt thơng qua biểu tượng đến hình thức diễn đạt bằng khái niệm(1). Nếu thần
thoại là sự đối thoại giữa con người với tự nhiên và với cả các lực lượng siêu
nhiên do con người tưởng tượng ra, thì triết học cố gắng tìm hiểu vấn đề quan hệ
giữa con người với tự nhiên và với chính mình. Nếu trước đây người ta đi tìm
một Hố cơng vũ trụ, thì giờ đây truy tìm bản nguyên, cái làm cơ sở của mọi tồn
tại. Câu hỏi “vị thần nào cai quản thế giới?” được thay thế bằng câu hỏi “thế giới
bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”. Triết học mong muốn đem đến lời giải đáp
thiết thực, làm thoả mãn khát khao hiểu biết của con người. Nói cách khác, nó
1. Xem G. W. H. Hegel: Toàn tập, T. IX, Moskva, 1934, tr.14.

7


“đặt ra kiểu tự quy định mới: không thông qua thói quen truyền thống, mà thơng
qua lý trí cá nhân. Triết gia nói với mơn đệ của mình: chớ đưa tất cả về lòng tin,
mà hãy tự suy nghĩ…”(1).
Triết học ra đời khơng có nghĩa thần thoại mất đi, mà tiếp tục tồn tại trong
tôn giáo và nghệ thuật, trong những sáng tác văn chương, kịch nghệ, …nhưng

được giới hạn bởi triết học ở ý nghĩa thế giới quan của mình. Đằng sau những
câu truyện thần thoại là cả một triết lý sống, thể hiện những chuẩn mực, những
giá trị, những bài học đạo đức, nhân văn. Niềm tin chất phác, ngây thơ vào sự
tồn tại của thần được thay thế bằng những luận giải của lý trí. Đó cũng là sự
phân biệt đầu tiên, có tính ngun tắc, giữa hai hình thức thế giới quan - thế giới
quan thần thoại và thế giới quan triết học. Lẽ đương nhiên triết học ở thời khai
nguyên chưa thể chấm rứt ngay những ràng buộc với thần thoại, song về cơ bản
sự xuất hiện các tư tưởng triết học là bước ngoặt lớn trong sự phát triển ý thức
con người.
3. Giao lưu văn hố tây – đơng
Vào các thế kỷ VIII – VII TCN những chuyến vượt biển tìm đất, việc trao
đổi buôn bán thường xuyên với các nước phương Đông, nhất là với Ai Cập,
Babylon, làm cho Hy Lạp có gì tiếp xúc, học hỏi và hoà hợp với các nền văn hoá
khác lâu đời hơn Hy Lạp rất nhiều. Cần biết rằng vào thời đại anh hùng ca (thời
đại Homère), ở Hy Lạp chưa xuất hiện chữ viết. Cho những năm tám mươi của
thế kỷ XX khảo cổ học không tìm thấy trên lãnh thổ Hy Lạp xưa một mẫu văn
tự nào thuộc về thế kỷ XI – IX TCN. Sau nhiều năm gián đoạn người ta mới
phát hiện những mẫu văn tự cổ thuộc về thế kỷ VIII TCN. Phải chăng vì thế mà
các nhân vật trong anh hùng ca của Homère đều không biết đọc biết viết? ngược
lại từ rất sớm Ai Cập, Mésobotamie, Ấn Độ, Trung Quốc đều phát triển thịnh
vượng, tạo nên những thành quả văn hố cực kỳ đặc sắc, chữ viết tượng hình,
tượng thanh xuất hiện tại Ai Cập, Mésobotamie và một số dân tộc khác từ
khoảng 2700 TCN. Đến thế kỷ thứ VIII TCN người Phénicie, sau đó người Hy
Lạp, rồi người La Mã cải biến và hoàn thiện thêm cho nhu cầu của mình, xác
1. Nhập mơn triết học, Chủ biên l. T. Phrolov, Q.l, Moskva, 1987. tr. 79.

8


lập hệ thống chữ viết như ngày nay. Các ngành khoa học ở phương Đơng như

tốn học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp đều có lịch sử lâu
đời, ảnh hưởng ít nhiều đến sự phát triển của tri thức khoa học Hy Lạp. Người
Ai Cập tính được số pi (π), diện tích hình tam giác, hình chữ nhật, hình bình
hành, hình thang, hình trịn. Hệ thống lịch pháp được xác lập vào đầu thiên niên
kỷ II TCN. Nếu người Ai Cập, theo khẳng định của sử gia Héradotus, đã phát
minh ra tính thời gian một năm (bằng 365 ¼ ngày đêm) sớm nhất thế giới, thì
Babylon lại có cơng hồn thiện thêm một bước. Tại đó, hiện cịn lưu giữ được
một chỉ dụ của hồng đế Hammurabi (1792 – 1750) về tháng bổ sung, để kéo
âm lịch (12 tháng với 354, 36 ngày đêm) đến gần với năm dương lịch (365, 24
ngày đêm). Cách tính giờ hiện nay cũng xuất phát từ cách tính của Babylon.
Ở phương diện lý luận, ý tưởng về sự bất tử của thần linh cũng tồn tại
song song với ý tưởng về tính vĩnh cửu của vũ trụ như sự kết hợp thế giới quan
thần thoại với tri thức khoa học và những mầm mống của tư duy triết học.
Nhưng Ai Cập và Mésopotamie (Babylon) chỉ dừng lại ở đó, mà chưa tiến xa
hơn, đến tầm mức của lý luận trừu tượng và siêu hình, khám phá cõi sâu thẳm
của tự nhiên. Nhưng huyền học và thuật chiêm tinh thì có vị trí vững chắc trong
sinh hoạt xã hội. Tại Babylon, các nhà tiên tri dùng những hiểu biết về trời đất,
trăng sao để giải mã số phận con người. Chiêm tinh là một nghề cao quý; nhà
chiêm tinh thậm chí tham dự vào cả cơng việc triều chính, tham mưu cho nhà
vua các kế hoạch đối nội, đối ngoại, tiến cử nhân sự, v.v… tại Ai Cập, những
pho tượng khổng lồ đầu người mình thú, đặt bên cạnh những kim tự tháp uy
nghi tráng lệ, cho thấy rằng người Ai Cập quan tâm sâu sắc tới thế giới bên kia
vương giả, cao siêu, lâu bền, vĩnh cửu. Với thời gian, những yếu tố triết lý chất
phác về cơ sở vật chất của tồn tại, về dòng chảy sinh thành biến hóa của tự
nhiên,… len lỏi vào thần thoại và các sang tác dân gian khác, nhưng triết học
đúng nghĩa vẫn chưa hình thành. Trong nhiều bản văn có thể hiện một số hồi
nghi vào thuyết nhân hình xã hội, chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa khắc kỷ cổ sơ,
nhưng hiếm thấy những cơ sở tư tưởng vững chắc. Các cách ngôn thường thấy
trong thi ca, đại loại như “Tôi là tôi”, “Đã vào cõi tử làm sao trở về”, “Đừng
9



uổng phí thời gian”, v.v., mang tính chất nhận thức luận và đạo đức nhất định,
đụng chạm đến thế giới quan thần thoại – tôn giáo đang đi vào khủng hoảng,
nhưng chỉ là sự bộc bạch yếu ớt, bị chìm ngập giữa vương quốc của những nghi
lễ thần thánh quanh năm. Tại Babylon, sau thời kỳ hưng thịnh, nhờ những cuộc
chinh phục tàn bạo các nước láng giềng dưới triều Nebuchadrezzar, những đơ thị
giầu có và sa đọa bắt đầu suy vong, và sau cùng bị xóa tên trên bản đồ thế giới
với tính cách một đế quốc. Sự kiện Babylon sa đọa và sụp đổ đã được nêu ra
trong Kinh thánh Cơ đốc giáo.
Phương Đông, cụ thể Cận đông và Ai Cập, tác động đến tư duy của người
Hy Lạp bởi những tuyệt tác nghệ thuật, những thành tựu khoa học (toán học,
thiên văn học) và một số yếu tố huyền học. Các nhà triết học đầu tiên phần lớn
đồng thời là các nhà khoa học, thường xuyên đi du lịch sang phương Đông, hoặc
sinh tại khu vực Cận đông, như Thalès, Pythagore, Héraclite, Anaxagore. Trong
vũ trụ quan sơ khai của người Hy Lạp, hẳn in dấu ấn huyền học của người
phương Đơng. Song nói như vậy khơng có nghĩa là Hy Lạp chỉ làm công việc
của người thừa kế, mà ngược lại sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp
là kết quả của sự phát triển logic nội tại của tinh thần Hy Lạp, được thể hiện
phần nào trong truyền thống thần thoại và tín ngưỡng mang phong cách riêng,
độc đáo, không lặp lại. triết học Hy Lạp, trong sự giao lưu tích cực với những
giá trị văn hóa tinh thần phương Đơng, vẫn tạo ra những đương nét trưng, tiêu
biểu cho phong cách tư duy phương Tây. Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư
xâm chiếm. Ách thống trị của Ba Tư đã đẩy văn minh Ai Cập, cũng như
Babylon trước đó, lùi về phía sau, nhưng ngọn lửa trí tuệ đã được nhen nhóm lên
và rực sang ở một vùng đất khác.
4. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp cổ đại.
Quá trình hình thành, phát triển và sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ
ở Hy Lạp đã được phản ánh sinh động trong các sáng tác văn chương, nghệ
thuật, triết học. Sự phân kỳ triết học Hy Lạp có cách căn cứ trên sự phát triển nội

tại của triết học, hoặc căn cứ trên những thời kỳ lịch sử, gắn với sự tồn vong của
xã hội chiếm hữu nô lệ; mỗi cách đều có cơ sở hợp lý nhất định.
10


- Triết học thời sơ khai, hay thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên (còn
gọi là triết học thời kỳ trước socrate). Đây là thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu
nô lệ. Triết học thay thế thần thoại, mong muốn tìm kiếm lời giải đáp nghiêm
túc, hợp lý cho những vấn đề của tồn tại và nhận thức. Nhu cầu của đời sống
kinh tế thúc đẩy sự phát triển các tri thức về thiên văn, địa lý, hàng hải. Phần lớn
các triết gia, tập trung trong các trường phái Milet, trường phái Pythagore,
trường phái Héraclite, trường phái Elée, đồng thời là các nhà khoa học, hoặc có
những am hiểu nhất định về khoa học. Triết học tách khỏi sự ảnh hưởng của thế
giới quan thần thoại, tôn giáo nguyên thủy, chập những bước đi đầu tiên trên con
đường chinh phục thế giới, tìm hiểu bản nguyên và bản tính thực sự của nó (vũ
trụ bắt đầu từ đầu và quay về đầu? thế giới có trải qua q trình phát sinh, phát
triển và diệt vong hay khơng? Có vận động hay khơng? Nếu có, thì sự vận động
diễn ra theo tính quy luật bên trong của thế giới, hay do sự tác động của lực
lượng bên ngoài siêu nhân nào đó?...). Thế giới quan triết học cịn ở trìnhđộ sơ
khai, chất phát, ấu trĩ, nhưng đã mang tính hệ thống và tính phân cực rõ ràng.
Triết học tự nhiên chiếm ưu thế (nhằm vượt qua thần thoại, thế hệ các triết gia
đầu tiên cố gắng lý giải những nguyên nhân của thế giới từ chính những chất
liệu sẵn có của thế giới), những vấn đề nhận thức luận, nguồn gốc sự sống cũng
được đặt ra. Thời kỳ khai nguyên triết học là thời kỳ hình thành trong dạng phôi
phai những khuynh hướng và những phương pháp tư duy cơ bản nhất.
- Triết học thời cực thịnh, gắn với những bước thăng trầm của nền dân chủ
nơ (cịn gọi là triết học thời kỳ Socrate). Sự quan tâm về tự nhiên đã đưa đến sự
ra đời các học thuyết triết tự nhiên. Thế nhưng, trong suốt hàng thế kỷ, những
cuộc tranh luận triền miên về bản nguyên và bản tính của thế giới khơng đem
đến lời giải đáp cuối cùng, thực sự thuyết phục. Câu chuyện khôi hài về hình

ảnh triết ra, nhà khoa học Thalès rơi tóm xuống giếng do mải mê hướng mắt lên
trời cao, mà khơng để ý những gì diễn ra dưới chân mình và xung quanh mình,
đã ngụ ý cái hụt hẫng, chơi với của triết học thời sơ khai: triết lý hướng tầm nhìn
ra vũ trụ với thái độ ngạo mạn, óc chinh phục, thống trị, nhưng lại quên những
vấn đề thiết than và nhạy cảm – vấn đề con người, vị trí của con người trong thế
11


giới, số phận và triển vọng của nhân loại. Các nhà biện thuyết dường như đã
cảm nhận sự hụt hẫng ấy, và thực hiện bước chuyển quan trọng trong đối tượng
nghiên cứu. Tuyên bố “con người – thước đo của vạn vật” là thơng điệp có ý
nghĩa đầu tiên của triết học Hy Lạp trong việc tìm kiếm hướng đi mới. Tuy
nhiên sự đề cao đến mức thái quá của các nhà biện thuyết đối với chủ thể nhận
thức đã đưa họ đến chỗ hoài nghi chân lý khách quan, biến những mệnh đề
thành trị chơi ngơn ngữ thuần túy. Tác giả của bước ngoặt từ triết học tự nhiên
sang triết học đạo đức, từ nguyên lý về vũ trụ sang nguyên lý về hoạt động của
con người, là Socrate. “Bước ngoặt Socrate” ghi dấu ấn trong triết học Hy Lạp
như một đột phá có tính lịch sử, thẩm định lại quan niệm về đối tượng và thiên
chức của triết học. Song “bước ngoặt Socrate” lại cũng tạo ra thế đứng vững
chắc cho chủ nghĩa duy tâm, thay thế “triết học tự nhiên”, hay chủ nghĩa duy vật
chất phác. Chủ nghĩa duy tâm, sự thổi phồng, tuyệt đối hóa một mặt, một khía
cạnh của nhận thức(1), vốn ẩn mình trong vật hoạt luận của Thalès, yếu tố nhân
hình hóa của Empédocle, trí tuệ vũ trụ (Nous) của Anaxagore, gời đây đã
khuếch chương thành một hệ thống. Cũng từ đây sự tranh luận thế giới quan
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, hay nói như V.I.Lenin, giữa
“đường lối Démocrite” (đại diện cho duy vật) và “đường lối Platon” (đại diện
cho duy tâm) trở lên hiện tượng phổ biến trong lịch sử phát triển của triết học.
Sau Socrate, triết học Hy Lạp một mặt vẫn tiếp tục những đề tài truyền
thống, mặt khác dành nhiều tâm huyết lý giải những vấn đề liên quan đến vị trí
và số phận con người, ý nghĩa của cuộc sống, năng lực và phương pháp nhận

thức, tiến trình lịch sử, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên xã hội. Đây là
thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của triết học Hy Lạp cổ đại, thời kỳ sản sinh ra
những tên tuổi lớn, làm rạng danh nền văn hóa Hy Lạp: Démocrite, Platon,
Aristote… nó được thúc đẩy bởi những khởi sắc trong các lĩnh vực của đời sống
chính trị - xã hội, mà tiêu biểu là sự xác lập nền dân chủ - phát minh chính trị
của người Hy Lạp. Dân chủ là hình thức tổ chức nhàn nước ưu việt nhất của thế
giới cổ đại.
1. Xem V. l. Lenin: toàn tập, T 29, NXB Tiến Bộ, Moskva, 1981, tr. 385.

12


- Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa. Người Hy Lạp nạp phát minh ra dân chủ,
những đó là nền dân chủ dành cho thiểu số ít ỏi các “cơng dân tự do”. Nô lệ
không được gọi là con người, mà chỉ là thứ cơng cụ biết nói, hàng hóa trao đổi
giữa các chủ nô. Nhiều triết gia trở thành nạn nhân của dân chủ, bởi họ dám
thách thức các nghi lễ tín ngưỡng cổ hủ. Hơn nữa, trong khi Athènes, nền dân
chủ đang được thực hiện, thì tại Sparte láng giềng lại tồn tại chế độ cai trị hoạt
đầu. Chiến tranh Péloponnèse (430 - 404 TCN) giữa Sparte và Athènes đã đưa
đất nước tới chỗ suy vong. Philippe xứ Macédoine lợi dụng thời cơ đánh chiếm
Hy Lạp năm 387. Sau khi philippe chết, con trrai là Alexander đã cai trị Hy Lạp
một cách tàn bạo và đem quân chinh phục các nước phương Đông như Ba tư, Ai
Cập, Babylon, Ấn Độ, các nước vùng Trung Á. Trong vòng mười năm vua
Alexander xây dựng được một đế quốc rộng lớn, nhưng ông lại chết sớm, khi
mới 33 tuổi (năm 323 TCN). Suốt hai năm trời các tướng lĩnh chỉ lo tranh giành
quyền lực, khiến xã hội sa vào tình trạng kiệt quệ. Cuối cùng cả Hy Lạp,
Macédoine và đế quốc của Macédoine bị La Mã dung vũ lực chinh phục và thơn
tính. La Mã đơ hộ Hy Lạp về qn sự và chính trị, nhưng về văn hóa chính Hy
Lạp đã ảnh hưởng ngược trở lại, nên thời kỳ này sử sách gọi là thời kỳ Hy Lạp
hóa (Hellénisation). Tuy nhiên tinh thần khám phá và sáng tạo khơng cịn mãnh

liệt như thời kỳ nền dân chủ Athènes. Đỉnh cao phát triển đã lùi lại phía sau. Thế
hệ mới khơng đủ sức vượt qua những cây đại thụ tư tưởng, nhưng không thể
chấp nhận sự lặp lại quá khứ, cho dù là quá khứ oanh liệt vàng son. Bị cuốn vào
vịng xốy nghiệt ngã của chiến tranh, bạo lực, khủng bố, các triết gia khơng cịn
mấy tâm trí bàn đến những vấn đề phổ quát, siêu hình, lớn lao, mà lay hoay với
thế giới nội tâm, cuộc sống tình cảm, ham muốn, dục vọng, hoặc né tránh tranh
luận, tự bằng long với cõi riêng yên tĩnh của mình, khuyên người khác cũng
hành sử như vậy, hoặc chìm đắm trong suy tư về định mệnh, về sự hòa đồng
huyền diệu con người – vũ trụ - thần linh.
Vào năm 529 (tính đến lúc đó triết học Hy Lạp, La Mã đã có ngót một thiên
niên kỷ tồn tại) trường phái Palaton tại Athènes chính thức bị đóng cửa, nhưng
cái chết của triết học cổ đại đã được báo trước ngay từ thời điểm Cơ Đốc giáo ra
13


đời trên mảnh đất của đế quốc La Mã, và sau đó vài thế kỷ đã nghiễm nhiên trở
thành hình thức sinh hoạt tơn giáo chính thống, loại trừ đa thần giáo trong ý thức
con người.
II. VẤN ĐỀ THỂ LUẬN
SỰ RA ĐỜI CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ĐẦU TIÊN.
Triết học Hy Lạp ngay từ khi mới ra đời đã quan tâm đến những vấn đề bản
thể luận về thế giới. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?” trở thành
điểm xuất phát cho các cuộc tranh luận, nhưng ngay vì hướng đến thần linh như
trước đây đã nỗ lực truy tìm “nguyên nhân cuối cùng”, bản nguyên của vạn vật
ngay trong long vạn vật. Bản nguyên không chỉ đơn giản là một thứ vật chất như
cách hiểu của vật lý học hay hóa học hiện đại, mà là một cái gì đó làm cơ sở cho
sự xuất hiện giới tự nhiên và sự sống. Một khuynh hướng nghiên cứu mới,
nghiêm túc đã mở ra – dung lý trí xét đốn mọi thứ. Khuynh hướng ấy xuất phát
từ xứ Ionie, nơi khai sinh ra nhiều trường phái triết học tiêu biểu của Hy Lạp cổ
đại.

1. Trường phái Milet và phương án “nhất nguyên” trong chủ nghĩa duy
vật Hy Lạp cổ đại.
Milet là tên một thành phố vào loại phồn thịnh nhất của Hy Lạp, thuộc xứ
Ionie, miền Tiểu Á. Nơi đây vào thời kỳ hình thành nhà nước Hy Lạp đã nổi lên
một trường phái triết học xưa nhất, gắn liền với tên tuổi của Thalès,
Anaximandre và Anaximène. Các nhà triết học Milet là những nhà nhất ngun,
vì họ xem một hành chất nào đó là bản nguyên của thế giới, cái vừa mang tính
vật thể, vừa mang tính trí tuệ, vừa thể hiện sức mạnh huyền bí, siêu phàm.
Người sáng lập trường phái Milet là nhà toán học, nhà thiên văn, nhà triết
học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Thalès (khoảng 624 – 547 TCN) sáng tác của
Thalès chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa và khoa học phương đông (Ai Cập,
Babylon… ) ông biết nhiều tác phẩm dưới dạng tản văn như “về bản nguyên”,
“về nhiệt trí”, “về tiết phân”, “chiêm tinh thuật đường biển”, nhưng hầu hết đã
được thất lạc, chỉ còn những giai thoại.
14


Với tính cách là nhà tốn học, Thalès phát minh nhiều định lý cơ bản liên
quan đến hình học, số học. Cái mới ở đây không hẳn là bản thân những định lý,
vì người phương Đơng đã biết đến từ lâu, mà là ý nghĩa của chúng; Thalès dạy
mơn tốn không bằng thực nghiệm, mà bắt đầu sử dụng những công thức trừu
tượng, đặt cơ sở cho sự ra đời tốn học lý thuyết.
Trong lĩnh vực thiên văn, Thalès có những khám phá độc đáo. Nhờ tiên
đốn chính xác nhật thực toàn phần tại xứ lonie, diễn ra vào ngày 28 - 5 - 585
TCN Thalès đã kịp thời ngăn chặn cuộc chiến tranh giữa hai lân ban Lidis và
Mèdès. Ông có lẽ là đại biểu đầu tiên của thuyết địa tâm, vì lấy trái đất làm hệ
quy chiếu để xắp sếp trật tự Đại Thiên cầu thành ba dòng cách biệt; các vì tinh
tú, cách Mặt trăng, Mặt trời, Mặt trời có kích thước lớn hơn hai mươi lần so với
Mặt trăng và thực hiện những chu kỳ hành động quanh các hành tinh bất động
hết 365 ngày. Những giả thuyết của ông về thủy triều thuyết phân hạ chỉ tỏ ra

ngây thơ xét từ quan điểm hiện đại song đối với người xưa là một sự ngạc nhiên
thú vị.
Thalès thuộc về thế hệ các nhà triết học đầu tiên xem xét khởi nguyên sự
vật ở dạng hành chất, theo ông mọi cái đang tồn tại đều xuất phát từ một chất ẩm
ướt ban đầu – nước. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Trái đất như cái đĩa dẹt trôi
bồng bềnh trên nước được bao quanh bởi nước, các đại dương, và chia thành
năm vùng:
1. Vùng bắc nhìn thấy được;
2. Vùng hạ chí;
3. Vùng xn phân;
4. Vùng đơng chí;
5. Vùng cực nam, khơng nhìn thấy.
Theo Aristote, Thalès đến với lý tưởng này có lẽ do ơng thấy mọi đồ ăn đều
ở dạng ẩm. Nhiệt, cái mà nhờ đó các sinh thể mới tồn tại, cũng xuất hiện từ vật
chất ẩm. Cái gì mà từ đó một cái gì khác xuất hiện là khởi nguyên của tất cả.
Cây cối khơng có nước thì úa tàn, con người khơng có nước thì chết, mặt trời và
các vì sao cần sự bốc hơi nước làm thức ăn. Nước là khởi nguyên của sự ẩm,
15


cịn sự ẩm thì hiện diện ở tất cả các mầm sống. Do đó, nước bao trùm tất cả,
chở che cho tất cả, đảm bảo sự sinh thành, biến hóa, làm cho mn vật phì
nhiêu. Nước – bản chất đơn giản của sự vật, đồng thời là cội nguồn của sự
sống.(1)
Chính những quan sát trực tiếp và sự xét đốn bằng lý trí đã đưa Thalès đến
những nhận định có tính khái quát cao về nước. Tính khái quát thể hiện ở chỗ,
một là, lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn giản, tức
được nâng lên thành một khái niệm, hai là, Thalès chú trọng đến khởi nguyên
vật chất, chứ không phải khởi nguyên tinh thần. Có thể liên tưởng nước của
Thalès với Hỗn mang (chaos) của Hésiode, nhưng ở Thalès nước trước hết là

sức mạnh vật lý.
Tuy nhiên, cơng bằng mà nói, Thalès chưa thể ngay lập tức chấm dứt sự
ràng buộc với thân thoại. Đặc tính của nước được nâng lên cấp độ thần linh. Thế
giới chứa đầy thần linh. Các thần là những lực lượng vận động trong thế giới,
đồng thời cũng là những linh hồn – nguồn gốc vận động của thể xác. Nước và
tất cả những gì phát sinh từ mước đều có linh hồn, thần tính.
Để chứng minh thế giới có thần tính và sống động Thalès dẫn ra hai bằng
chứng: thanh nam châm hút được sắt, hổ phách lung linh muôn sắc dưới ánh
Mặt trời. Khi người ta hỏi: tại sao ơng biết điều đó, ơng trả lời: vì ta là bậc
thơng thái, cái ta biết, người khác không biết. Xét cho cùng nước là khởi nguyên
của vạn vật, nhưng thần là sinh lực tạo ra tất cả từ nước.
Những yếu tố vật hoạn luận (hylozoisme) và vật linh thuyết (animisme) ở tư
tưởng Thalès báo hiệu sự phân liệt của triết học Hy Lạp cổ đại. Dẫu sao chủ
nghĩa duy
Vật tự phát Thalès về căn bản đưa tới sự kết thúc vai trò thống trị của thần
thoại. Lý trí thay thế thần Zeus, giới tự nhiên dần dần cởi bỏ lớp vỏ siêu nhiên.
Con người bắt đầu giải thích nguyên nhân của thế giới từ chính thế giới.
Thalès đã tiến gần đến khái niệm bản nguyên, cố gắng trình bày dưới hình
thức ấu trĩ tính thực thể của nước (nước lưu chảy ở mọi vật, còn ở nó mọi vật
1. Xem Aristote: Tác phẩm gồm 4 tập, T. 1, Moskava, 196, tr. 71, 72, 378.

16


lưu chảy). Nhưng công lao to lớn trong việc giải thích tồn bộ thực tại từ khái
niệm “bản ngun” (archè), thực thể, cơ sở tồn tại của sự vật, thuộc về
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN), học trò và người kế tục Thalès. Bản
ngun bấy giờ khơng cịn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn. Nếu các
hành chất (đất, nước, lửa, khí) chuyển hố vào nhau, thì điều này có nghĩa ở
chúng có một cái gì đó chung làm nền. Cái chung này khơng thể là những hành

chất, mà là cái vô hạn, vô cùng, bất định, bất tử, cái mà nhờ đó mọi vật sinh ra –
thực thể apeiron. Anaximandre giải thích các đặc tính của apeiron như sau:
-

Apeiron vơ hạn, vì nó là một bản nguyên, không thể bị tiêu hao, cạn kiệt;

-

Apeiron vô cùng, để có thể làm cơ sở cho mọi sự chuyển hố lẫn nhau của sự
vật;

-

Apeiron khơng xác định, để liên kết những cái xác định;

-

Apeiron trường tồn, bất tử, để làm nên nguồn suối vô biên của sự sống.
Tất cả những đặc tính ấy cùng quy về đặc tính chung nhất là vận động. Sự
vận động của thực thể apeiron quyết định quá trình hình thành của vũ trụ và con
người. Apeiron tự nó và từ nó sinh ra hết thảy. Khi vận động theo soáy ốc,
apeiron tạo nên những cực đối kháng - ẩm và khô, lạnh và nóng. Kết hợp cặp
đơi những tính chất ấy sẽ dẫn đến hình thành đất (khơ và lạnh), nước (ẩm và
lạnh), khí (ẩm và nóng), lửa (khơ và nóng). Từ trung tâm, những kết cấu vật chất
dần dần cô đọng lại, trước tiên là đất như cái nặng nhất được bao quanh bởi
nước, khí và lửa. Sau đó diễn ra những tác động lẫn nhau giữa nước và lửa, khí
và lửa. Dưới tác động của lửa, một phần nước bốc hơi, cịn đất thì tụ lại giữa đại
dương. Trái đất, đã hình thành như vậy. Bầu trời phân chia ra ba vịng, do khí
bao quanh. Nó tương tự như ba vành của bánh xe rỗng bên trong, bơm đầy lửa.
Vành dưới nhiều lỗ hổng, chứa lửa, là các vì sao. Vành giữa một lỗ hổng là Mặt

trăng. Vành trên cùng một lỗ hổng là Mặt trời.
Sự sống phát sinh ở chỗ ráp ranh giữa đại dương và đất liền tức bùn lầy,
dưới tác động của ánh nắng mặt trời. Những sinh thể đầu tiên sống ở đại dương;
một số sau đó dời đại dương lên đất liền, cỏi bỏ lớp vảy, trở thành động vật trên
cạn. Con người có thể chất yếu đuối, khơng có vỏ cứng bảo vệ, nên sinh ra và
17


phát triển trong bụng một loài cá khổng lồ. Đến lúc trưởng thành, cứng cáp, con
người mới lên đất liền sinh sống.
Bức tranh về thế giới và sự sống do Anaximandre xây dựng quả là ấu trĩ,
nhưng đã đánh dấu bước tiến trong tư duy triết học. Cái vĩ đại của tư tưởng có
vẻ nghèo nàn, trừu tượng này thể hiện ở sự toan tính dũng cảm giải thích thế
giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, ở tư
tưởng biện chứng về tính phổ biến của vận động, biến đổi, về sự thống nhất các
mặt đối lập, những tuyên đoán về quá trình hình thành sự sống từ thế giới vơ cơ,
con người từ lồi vật.
Khơng chấp nhận lối suy nghĩ có phần trừu tượng, lạ lùng của
Anaximandre, Anaximènne (588 - 525 TCN) quay trở về với phương án Thalès,
nghĩa là đồng nhất bản nguyên với những hành chất cụ thể. Nhưng nước không
phải là bản nguyên thế giới, mà chỉ là điều kiện sống của vạn vật. Thalès đã
nhầm lẫn điều kiện và bản chất, cịn Anaximandre thì khơng chỉ ra tính quy định
apeiron. Để tìm hiểu bản ngun thế giới cần hình dung thế giới như một quá
trình, mà cơ sở của nó phải là một hành chất rất năng động. hành chất đó,
Anaximène, là khơng khí – apeiros, bao quát hơn cả Apeiron, cái chỉ đáng xem
như thuộc tính của nó. Chính ở khơng khí diễn ra các q trình tán và tụ, quy
định sự hình thành, tồn tại và phát triển của vạn vật. Khi tán khí hố thành lửa,
rồi sau đó thành aither; lúc tụ khí biến ra gió, mây, nước, đất và đá, tuỳ thuộc
vào mức độ tụ của nó. Sự tán gắn với q trình đốt nóng sự tụ - q trình lạnh
đi.

Khơng chỉ là bản ngun thế giới, khơng khí cịn là nguồn gốc sự sống và
các hiện tượng tâm lý. Linh hồn là sự thở, khí của linh hồn và khí của thế giới
vật chất thống nhất với nhau. Thần linh cũng xuất hiện từ khí. Với quan niệm
Anaximène mở đường cho cách nhìn mới về thần linh.
Cả Thalès, Anaximandre và Anaximène đều là những nhà khoa học, đúng
hơn, những nhà vật lý, vì họ trú trọng tìm hiểu những vấn đề của vũ trụ, giới tự
nhiên (physis theo từ nguyên Hy Lạp là tự nhiên). Bên cạnh đó, họ cịn đưa triết
học của mình những yếu tố của huyền học (occultisme). Nước được nâng lên
18


cấp độ nước thần, là biểu tượng của sự nhất trí và hồ hợp; Apeiron là ngun lý
sinh hố của vận vật; khí khơng chỉ là yếu tố vật lý mà còn biểu thị sức sống
năng động của vũ trụ và con người; quan niệm về ngày tận thế là (eschatologie –
học thyết về ngày tận thế, xuất phát từ tiếng Hy Lạp eschatos – cực điểm, cuối
cùng, kết thúc) là sự vận dụng luật bù trừ trong thiên nhiên để giải thích quy luật
biến thiên của các hiện tượng; kiếp người thường được liên tưởng tới kiếp của
mn lồi: có sinh có diệt, tội ác phải đền bằng cái chết. Héraclite, Empédocle
và Anaxagore sau này đều đi theo xu hướng nhân bản hoá ấy(1).
2. trường phái, hay liên minh Pythagore
Sau hai thế kỷ tồn tại và phát triển khá hưng thịnh, xứ Ionie bị rơi vào tay
xâm lược Ba Tư. Năm 496 TCN nỗ lực cuối cùng của người Ionie khôi phục lại
quyền tự chủ bị đàn áp đẫm máu. Milet chìm trong hoang tàn và đổ nát. Thực ra
ngay từ thời kì di thực vào cuối thế kỷ thứ VI TCN trung tâm triết học đã chuyển
dần từ Ionie sang phía tây, sang Đại Hy Lạp, bao gồm những vùng mà người Hy
Lạp chiếm ở Đại Trung Hải và biển Đen. Tại đây các trường phái triết học thay
nhau ra đời, trong đó nổi lên trường phái Pythagore với chiều dài lịch sử khá
đầy đặn, từ thế kỷ thứ VI TCN đến tận ngày chấm dứt triết học cổ đại. Tuy
nhiên, giai đoạn giàu ý nghĩa nhất trong sự tồn tại của trường phái Pythagore là
giai đoạn sơ – trung kỳ (VI – IV TCN) khi nó đạt được những đỉnh cao đáng

nhớ: đỉnh cao chính trị (nửa đầu thế kỷ thứ V TCN) đỉnh cao triết học (nửa đầu
thế kỷ thứ IV TCN) đỉnh cao khoa học (nửa đầu thế kỷ thứ IV TCN). Ngay ở
giai đoạn này trường phái Pythagore cũng đã trải qua nhiều thăng trầm. Trước
tiên Pythagore sáng lập trường phái vào thế kỷ thứ VI TCN, có ảnh hướng tới
đời sống chính trị ở Đại Hy Lạp. Sự thống trị về chính trị bị phá sản vào thế kỷ
thứ V TCN. Tiếp đó liên minh Pythagore phát tán, Philolais khôi phục lại những
giá trị khoa học của nó (nửa sau thế kỷ thứ V TCN). Yếu tố khoa học và những
cơ sở triết học thực sự phát triển vào nủa thế kỷ thứ IV TCN găn với tên tuổi của
Archyte xứ Tarente.
1. Xêm Lê Tô Nghiêm: lịch sử triết học phương tây thời kỳ khai nguyên triết học Hy Lạp, Sài Gòn, 1970, tr. 73
– 86.

19


Trường phái (liên minh, dịng tu) Paythagore hình thành trong bối cảnh
diễn ra phong trào phục hưng tôn giáo ở Hy Lạp vào thế kỷ VI TCN vào công
cuộc di thực ồ ạt từ Tây sang Đông, Ionie sang miền Nam nước Ý và Sicile.
Liên minh được tổ chức chặt chẽ theo hình thức khép kín và một lối sống dựa
trên các thang bậc giá trị đạo đức, mà cao nhất là cái đẹp và sự mực thước, thứ
đến là điều lợi, và cuối cùng – sự khả ái. Cơ sở đạo đức của Liên minh là học
thuyết và sự hoà tiết và thanh tẩy – chiến thắng trước cám dỗ, chế ngự bản năng,
lễ phép, sùng bái tình bạn, kính trọng Pythagore. Theo điều lệ, các cơng dân
khơng phân biêt giới tính, có phẩm chất trí tuệ và đạo đức xứng đáng, được thử
thách qua thời gian, đều đủ điều kiện ra nhập Liên minh. Các thành viên Liên
minh phân ra hai loại: exịterikos (người thường, những mơn sinh) và esịterikos
(những bậc thần thơng quảng đại, bác học, người truyền bá và bảo vệ cân lý).
Trong Liên minh mọi thứ thuộc về của chung, mọi sinh hoạt đều tuân theo kỷ
luật nghiêm ngặt. Tất cả mọi thành viên thức dạy trước lúc mặt trời mọc, cùng ra
biển đón bình minh, rồi tập thể dục, làm những công việc được phân công. Buổi

chiều đi tắm chung, ăn tối chung, tổ chức các nghi lễ cúng các vị thần, đọc
chung. Trước lúc đi ngủ từng thành viên kiểm điểm công việc đã qua, suy nghĩ
về ba điều: ta đã sống như thế nào? Ta làm được điều gì? Ta chưa làm được gì?
với lối tổ chức sinh hoạt như thế nhiều người lầm tưởng Liên minh Pythagore
chỉ là một trong vô số những dịng tu, những hội kín mọc lên nhan nhản ở Hy
Lạp thời kỳ di thực. Nhưng Liên minh Pythagore không thuần về tôn giáo mà
chủ yếu là nơi tập hợp những người yêu thích hoạt động trí tuệ và sự hoạt động
của họ có những mục tiêu thực tiễn nhất định. Liên minh chú trọng nhiều đến y
học, liệu pháp tâm lý, xây dựng các phương thức phát triển năng lực trí tuệ, kỹ
năng nghe, quan sát, suy tưởng. từ Pythagore, người sáng lập Liên minh, đến
nhà khoa học và nhà hoạt động xã hội Archyte xứ Tarente yếu tố thần thoại dần
dần bị lọa trừ, nhường chỗ cho yếu tố triết học và khoa học.
Pythagore (570 – 496 TCN) sinh tại Samos, thuộc xứ Ionie, vùng cận
Đông, sau di cư sang Crotone, miền Nam nước Ý. Là nhà tốn học, Pythagore
đưa ra nhiều định lý có giá trị. trong triết học, Pythagore là nhà duy tâm tôn
20


giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý nghĩa cuộc sống và bản nguyên vũ
trụ, mang đậm dấu ấn huyền học phương Đơng. Bản tính con người, theo ơng,
có tính chất nhị ngun – thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của
cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác trong lịng,
hịa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân hồi. Triết lý, vì vậy, là hành trình
của sự giải thốt. Trong tư tưởng ở Pythagore những con số đóng vai trị chủ
đạo. Cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo được, vì thế chính những con
số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản chất và chuẩn mực của
chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ trụ thông qua những con
số. Khi ta nói “linh hồn hịa điệu” thì đó chính là quan hệ hòa điệu của các con
số. Pythagore dung tương quan chẵn – lẻ, bộ mười và bộ tứ để giải thích tính
thống nhất và đa dạng của tự nhiên, xã hội, con người, trong đó số 1 là đơn vị cơ

sở. Sau số 1 (lẻ) là mặt đối lập của nó - số 2 (chẵn). Các yếu tố của con số là
chẵn và lẻ; lẻ là cái hữu hạn, chẵn là cái vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất,
“bản nguyên hoạt động”, chi phối tất cả, nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10 bao
gồm 10 tương quan các mặt đối lập: giới hạn – vô hạn, chẵn – lẻ, đơn - đa, phải
– trái, nam – nữ, động – tĩnh, thẳng – cong, sáng – tối, tốt – xấu, tứ giác – đa
diện. Đây chính là những phạm trù đầu tiên của tư tưởng trong cố gắng lý giải
mọi thực tại, nhưng theo Hegel, đó là cố gắng vơ vọng, khơng vượt qua khn
khổ của sự liệt kê đơn giản, ngây thơ, ngẫu hứng và thiếu sâu sắc. Cái đáng trận
trọng là ở chỗ Pythagore đã nâng cao con số lên trình độ của khái niệm, hiểu nó
như tồn – tại – tự - thân – trong – nó, cho – nó và cho – cái – khác.(1)
Tương quan các con số thể hiện rõ nhất trong tương quan không gian. Khi xem
xét không gian chúng ta bắt đầu từ điểm – sự phủ định đầu tiên cái trống rỗng.
Điểm tương ứng với đơn vị không phân chia, và là sự bắt đầu của đường như
quan hệ giữa hai điểm. Sau đó quan hệ hai chiều giữa những con số lần lượt tạo
ra mặt phẳng, khối lập thể. Từ các con số hình thành nên những vật thể, những
hành chất (nước, khí, lửa) và tồn thể vũ trụ nói chung. Vũ trụ được cấu thành từ
mười thiên hà – con số 10 hoàn thiện. Ngồi 9 thiên niên hà nhìn thấy được,
1. Xem G. W. H. Hegel: Toàn tập, T. IX, Moskva, 1934, tr. 236, 237, 238

21


gồm giải ngân hà (“chòm sao bất động”), sao Thổ, sao Mộc, sao Kim, sao Hỏa,
sao Thủy, Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất, cịn có một đối cực với Trái đất, hay
“một Trái đất khác” do Pythagore nghĩ ra. Quan hệ các con số cũng tạo ra những
cung bậc khác nhau của sự hòa điệu trong vũ trụ. Sự hòa điệu của những con số
còn là âm nhạc cuộc sống. Tri giác của chúng ta về hòa âm và nghịch âm khơng
chỉ là phép so sánh tốn học, mà cịn hàm chứa ý nghĩa đạo đức. Tuy vậy không
thể đưa lẽ cơng bằng, tự do về những con số, vì đó là những khái niệm trừu
tượng, khơng bao giờ trở nên cụ thể hồn tồn trong hiện thực. Chúng khơng đo

đếm được nhờ những con số.
Quan điểm triết học của Pythagore thể hiện sự liên hệ giữa những mầm
mống của tư duy khoa học với thế giới quan tôn giáo, thần thoại.
Ngay từ thời Pythagore trong nội bộ Liên minh đã diễn ra những bất đồng
giữa những đại diện của exòterikos và esòterikos. Hippias, sống cùng thời với
Pythagore, là người đầu tiên chống lại sự phân biệt đẳng cấp và nền độc tài
trong khoa học, những luật lệ hà khắc, phản dân chủ trong sinh hoạt. Về triết
học, ông đưa con số đến gần với logos của Héraclite. Con số là hình mẫu của sự
sáng tạo thế giới, cịn lửa là bản nguyên bất diệt. Những bất đồng về lối sống và
thế giới quan giữa các thành viên đã đưa đến sự rạn nứt và tan rã của Liên minh.
Vào nửa sau thế kỷ V TCN Philolais và các môn đệ khôi phục lại tư tưởng nền
tảng của Pythagore, đẩy nó phát triển một bước, đồng thời cố gắng loại bỏ
những yếu tố tôn giáo bảo thủ, không phù hợp.
Cũng như Pythagore, Philolais đưa các con số về những hình ảnh tượng
trưng. Số đơn giản, không triển khai ra thành những số nhân được, thì tạo nên
những điểm khơng gian, nếu kết nội lại sẽ thành đường. Đó là “con số đường
thẳng”. Những số triển khai ra thành hai số nhân bằng nhau là những “con số
hình vng” (số 4, 9… ), thành hai số nhân không bằng nhau – nhưng “con số
hình chữ nhật” (số 6, 12… ), thành ba số nhân – những hình ảnh khơng gian (vật
thể). Như vậy số 1 tương ứng với điểm không gian, số 2 –đường, số 3 – mặt
phẳng, số 4 – khối vật thể đơn giản. Riêng số 10 (decade) Philolais khơng trình
bày như con số hình chữ nhật, với các cạnh là 5 và 2, mà như hình tam giác cân
22


với 10 chấm đen, xếp theo 4 dẫy, lấy từ 4 dẫy đầu của dẫy số tự nhiên 1, 2, 3, 4
(1+2+3+4=10). Do chỗ số 1, số 2, số 3 và số 4 là sự thể hiện số học của điểm,
đường thẳng, mặt phẳng và khối, nên số 10 chứa đựng trong nó cả bốn hình thức
tồn tại của sự vật.
Các số khác cũng mang ý nghĩa tượng trưng, chẳng hạn số 5 – phẩm và

sắc, số 6 – tính sống động, số 7 – trí tuệ, sức khỏe, ánh sáng, số 8 – tình yêu và
tình bạn, sự mẫn tiệp và hào hoa. Vũ trụ được tạo từ Giới hạn và Vơ hạn kết hợp
với nhau. Hịa điệu là sự thống nhất những cái khơng thống nhất, sự đồn kết
những cái bất đồng. Giới hạn thể hiện ở những con số, cịn Vơ hạn (apeiron) là
khơng gian phi tất định. Nhờ những con số mà không gian vật thể được tổ chức
lại. Ở đâu thiếu vắng những con số và giới hạn, ở đó ngự trị Chaos và Chimaira.
Thiên nhiên trong Hịa điệu là thiên nhiên chân chính, thiên nhiên Vô hạn là
thiên nhiên của giả dối và thù hận, thiên nhiên vơ trí và vơ tri. Đại khơng gian,
theo Philolais, có ba bộ phận – Olimpos, Kosmos, Uranos, với nhất thể đầu tiên
– Geestia, ngôi nhà của Zeus, ngọn lửa trung tâm vĩnh hằng. Lửa ở đây không
phải là lửa Mặt trời, mà là vòm lửa Olimpos, Philolais cho rằng Trái đất không
phải là trung tâm vũ trụ, mà bay lượn như những hành tinh chưa hoàn thiện
khác. Nếu Pythagore là người tiên phong của thuyết địa tâm, thì Philolais theo
hướng ngược lại, song chưa phải là người tiên phong của thuyết nhật tâm, vì
Mặt trời đối với ông chỉ là khối tinh thể lạnh, phản chiếu ánh sáng từ nơi khác,
từ Vòm lửa thiêng liêng.
Philolais đã biến sự thanh tẩy có tính nghi lễ của phái Orpée thành sự
sung bái lý trí. Hơn nữa sự phân tích thế giới bao quanh ta không như hỗn
nguyên, mà như Kosmos, như Vũ trụ, đã giúp ơng “thế tục hóa” luật Hòa điệu
linh thiêng của trường phái Pythagore.
Về cuối đời Philolais trở lại cố hương, tìm chốn lương thân ở Terente, nơi
học trị số một của ơng, Archyte, đang chấp chính.
Archyte thuộc nhóm “bác học” – nhóm cấp tiến của trường phái
Pythagore, chuyên tâm nghiên cứu triết học, khoa học và nghệ thuật, đối lập với
nhóm “khổ tu” (Acousmatiques), chỉ lo giữ lấy những kỷ luật hà khắc, bảo thủ,
23


xa rời văn hóa và khoa học. Archyte là một thiên tài nhiều mặt – nhà toán học,
nhà sáng chế, triết gia, nhà soạn nhạc, vị tướng, nhà hoạt động chính trị -, nhưng

trên hết là một con người trọng lẽ phải và công bằng. Ở Archyte tinh thần khoa
học chẳng những vượt qua tơn giáo, mà cịn chiếm ưu thế trước triết học. Ơng
xem tốn học, đặc biệt số học, như sự hồn thiện của tri thức. Tốn học còn
thâm nhập cả vào sinh hoạt xã hội. Con số khơng chỉ là bản chất vật lý, mà cịn
biểu thị những quan hệ giữa người với người. Một phép tính song phẳng hợp lý
sẽ ngăn ngừa đại họa. Yếu tố tơn giáo vẫn cịn, nhất là tơn giáo Orphée, nhưng
khơng quá huyền bí, mà ít nhiều đặt trên cơ sở logic. Triết học Archyte nghiêng
về xu hướng duy lý hóa nhận thức, trong vũ trụ luận vắng dần hình ảnh các vị
thần, thay bằng những xét đoán kết hợp trực quan và khả năng trí tuệ. Archyte
hỏi: “Đằng sau những tinh tú mà ta nhìn thấy là cái gì?”, rồi tự trả lời: “là cái
chưa nhìn thấy”. Vũ trụ vơ hạn, cũng tựa như sự vô hạn của đường chân trời.
Theo nghĩa đó Archyte là người đã viết lên những trang mới cho trường phái
Pythagore Trung kỳ.

trạng thái vật chất. Đất với vàng, nước với máu, lửa với khí, chẳng cái nào
có trước cái nào. Bản ngun vơ hạn về số lượng, tràn ngập khắp nơi, thâm nhập
vào mọi thứ, và từ mọi thứ mà tách ra. Bản nguyên là phần bé nhất, siêu cảm
giác, khơng nhìn thấy của lửa, nước, vàng, máu, những thứ mà Anaxagore gọi là
những hạt giống của muôn vật, những mầm sống, hay những chất đồng nhất
(homoiomeria)(1). Những hạt giống của máu chứa đựng tất cả những chất của
máu, những hạt chất của sắt – những chất của sắt. Hạt giống vĩnh cữu, bất biến,
nhưng các sự vật liên kết với nhau, chuyển hóa vào nhau bằng con đường kết
hợp và phân tích: “Mọi thứ trong tất cả, và ở tất cả có một phần của tất cả”. Suy
rộng ra, trong bất kỳ vị trí, trạng thái nào của vũ trụ cũng đều chứa đựng những
homoiomeria của tất cả các sự vật. “Người ta không thể dùng rìu mà cắt rời
nóng khỏi lạnh, lạnh khỏi nóng”, càng khơng thể dùng sức mạnh phá vỡ tồn thể
1. Homoiomeria, xuất phát từ tiếng Hy Lạp homoios, nghĩa là sự tương đồng

24



vũ trụ như một khối thống nhất bao gồm vô số các sự vật, hiện tượng liên kết
với nhau, hút nhau hoặc đẩy nhau, đan xen nhau.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, tuy mỗi sự vật hàm chứa trong mình những hạt
giống của tất cả các sự vật, nhưng các tố chất của nó được quy định bởi các tố
chất của những homoiomeria chiếm ưu thế. Do đó, sự biến đổi về chất của sự
vật thể hiện sự thay thế phần lớn hạt giống (chất) của nó chứa đựng tại đó.
Chẳng hạn khi tuyết tan thành nước, nước chỉ hơi đục, bởi vì trước đó ở thể rắn
(tuyết) tính chất lạnh và trắng chiếm ưu thế so với tính chất đục và nóng.
Tồn tại thống nhất, nhưng khơng thống nhất không thống nhất tuyệt đối
theo cách lý giải của Parménide. Sự vật đồng nhất hiểu như cái toàn vẹn, nhưng
những yếu tố cấu thành hết sức đa tạp. Nguyên lý vạn vạt đồng nhất của trường
phái Elée được Anaxagore mở rộng thêm: sự vật vừa vô cùng lớn, vừa vô cùng
bé, vì “khơng có cái bé nhất, chỉ có cái bé hơn và bé hơn nữa”. Thoạt nhìn quan
niệm đó có tính biện chứng, nhưng đó là phép biện chứng nửa vời. Bản ngun,
theo Anaxagore, khơng có tính chuyển hóa, “cái đồng nhất xuất phát từ cái đồng
nhất, không thể có sự chuyển hóa vào mặt đối lập, càng khơng thể có sự chuyển
hóa vào mặt đối lập”(1). Mọi sự thay đổi đối với ông chỉ là sự kết hợp và tách rời
những cái đồng nhất, còn sự thay đổi đích thực bị coi như là sự phủ định chính
mình. Ông chỉ biết rằng “thịt chuyển thành thịt, vàng chuyển thành vàng, còn
mọi sự kết hợp khác chỉ là một conglomelatus, sự kết hợp khiên cưỡng, vô trật
tự, chứ không phải là phép cấu thành sống động” (2). Tính chất thiếu nhất quán
của triết học Anaxagore càng thể hiện rõ trong khái niệm “NOUS”.
Nous của Anaxagore, tương tự như Philia và Neikos của Empédocle, là
khái niệm dùng để chỉ một bản nguyên ngoại tại tích cực, tác động đến vạn vật,
khởi động và nhận thức thế giới làm cho thế giới trở nên hồn chỉnh,có trật tự,
thốt li khỏi trạng thái hỗn độn ban sơ.

1. G. W. F. Hegel: Toàn tập. T IX. Moskva, 1934, tr. 331
2. G. W. F. Hegel: Toàn tập. T IX. Moskva, 1934, tr. 331


25


×