Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Một vài ý kiến hay về việc có hay không chữ viết trong thời kì Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.04 KB, 5 trang )

MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ VẤN ĐỀ CĨ HAY KHƠNG CHỮ VIẾT
TRONG THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG
Tóm tắt: Nhà nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương là có thật trong
lịch sử, nó thuộc về nền văn minh sơng Hồng. Nhiều vấn đề về thời đại Hùng
Vương đã được giải mã. Tuy nhiên cho đến nay vấn đề có hay khơng chữ viết
trong thời đại Hùng Vương vẫn chưa thật sự thống nhất. Vậy để biết được thời
đại Hùng Vương trong lịch sử nước ta có chữ viết hay khơng? Các nhà khoa
học, các sử gia của Việt Nam đã dày công nghiên cứu về vấn đề này. Dựa trên
ghi chép của sử sách, kết quả nghiên cứu của khảo cổ học nói chung và các di
vật nói riêng chúng ta có thể tin được thời đại Hùng Vương của nước ta đã có
chữ viết.
Từ khóa: Hùng Vương, chữ viết, Mường.
NỘI DUNG
Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đồ họa được sử dụng để cố định hóa ngơn
ngữ âm thanh. Chữ viết có quan hệ mật thiết với ngơn ngữ âm thanh. Chức năng
của chữ viết là đại diện cho lời nói. So với lời nói thì chữ viết xuất hiện sau.
Trước khi có chữ viết thì ngơn ngữ âm thanh trong một thời gian dài là công cụ
duy nhất để con người giao tiếp và truyền đạt các giá trị cho đời sau. Tuy nhiên
ngơn ngữ âm thanh có những hạn chế nhất định về mặt không gian, thời gian.
Chỉ khi chữ viết ra đời mới khắc phục được những hạn chế đó. Khơng phải ngẫu
nhiên mà người ta gọi thời kì có chữ viết trong q trình phát triển của lồi
người là giai đoạn lịch sử cịn thời kì trước đó là giai đoạn tiền sử hoặc dã sử.
Nhà nước, chế độ hôn nhân và chữ viết là những tiêu chí để đánh giá một
nền văn minh. Nhà nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương là có thật trong
lịch sử, nó thuộc về nền văn minh sơng Hồng. Nhiều vấn đề về thời đại Hùng
Vương đã được giải mã. Tuy nhiên cho đến nay vấn đề có hay không chữ viết
trong thời đại Hùng Vương vẫn chưa thật sự thống nhất.
Để khẳng định thời đại Hùng Vương nước ta có chữ viết hay chưa thì
chúng ta nên căn cứ dựa trên ghi chép của sử sách, kết quả nghiên cứu của khảo
cổ học nói chung và các di vật nói riêng.
Sách “Đại Việt sử lược” chép thời Hùng Vương “chính sự dùng lối thắt


nút”, sách “Đại Việt sử kí tồn thư” thì chép “buộc nút dây mà làm chính trị” [2,
tr.115]. Những ghi chép này cho thấy phải chăng thời kì Hùng Vương thì tổ tiên
ta đã dùng những sợi dây thắt nút để làm phương tiện truyền đạt ý nghĩa của sự
vật và thể hiện một con số hay một thơng tin nào đó?


“Thắt nút dây” là thời kì mà các nhà sử học Trung Quốc và Việt Nam chỉ
thời đại “trước khi có chữ viết”. Lão Tử là người muốn “ngu dân” tiêu biểu,
muốn đưa dân Trung Quốc trở về thời “thắt nút dây” để dễ cai trị. Tác giả của
“Đại Việt sử lược” và “Đại Việt sử kí tồn thư” chưa tìm thấy dấu vết của chữ
cổ Việt Nam nên mới khẳng định thời Hùng Vương “chính sự dùng lối thắt nút”
hoặc chép “buộc nút dây mà làm chính trị”.
Sách “Thơng giám cương mục” do Chu Hi đời Tống biên soạn có viết:
“Năm Mậu Thân (2352 trước cơng ngun), đời Đường Ngiêu có Nam di Việt
Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Cũng thời Tống, Tịnh Triều soạn sách
“Thơng chí” cũng viết : “Đời Đào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều
lần thông dịch, đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn 3
thước, trên lưng có chữ khoa đẩu1, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay.
Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy lịch”[5, tr.53]. Việt Thường thị chính là 1
trong 15 bộ thời Hùng Vương, địa bàn tương đương tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) là một vị minh quân, một nhà văn hóa
trong lịch sử Việt Nam. Ông để lại nhiều tác phẩm thơ văn cho đời, trong đó có
tập “Thánh Tơng di cảo” gồm 20 truyện kí. Trong đó có 1 câu chuyện lạ, đại ý :
Một hôm vua Lê Thánh Tông đi chơi, gặp phải trời mưa nên nghỉ đêm bên hồ
Trúc Bạch, nằm mộng thấy hai người con gái thời vua Lý Cao Tông hiện lên
dâng bức thư bày tỏ nỗi oan ức gồm một bài thơ bằng chữ Hán và một tờ tâu
bằng chữ bản địa có 71 chữ ngoằn ngoèo. Sáng mai vua đưa tờ tâu cho các triều
thần nhưng không ai đọc được. Ba năm sau nhà vua lại nằm mộng và được giải
thích về 71 chữ ấy như sau “Chữ ấy là lối chữ cổ của nước Nam. Nay Mường
Mán ở núi rừng có người cịn đọc được, nhà vua vời họ đến thì tự khắc sẽ

biết”[6, tr.26].
Giấc mộng trên chính là điều day dứt, trăn trở của một vị minh quân, một
nhà văn hóa rằng nước ta từng tồn tại chữ viết bản địa trước khi chữ Hán xâm
nhập. Những trăn trở của vua Lê Thánh Tơng khơng phải là khơng có căn cứ.
Q gốc của vua Lê Thánh Tơng ở Thanh Hóa, nơi có nhiều người Mường
sinh sống, đây mà một sắc tộc có quan hệ gần gủi với người Kinh (Việt). Người
Mường đã sáng tạo ra chữ cổ ngoằn ngoèo như con nòng nọc. Phải chăng trong
một lần nào đó nhà vua đã từng thấy chữ cổ đó nên đã trăn trở về một chữ cổ
của người Kinh.
Trong cuốn “Thanh Hóa quan phong” của Vương Duy Trinh thời nhà
Nguyễn đã dẫn ra bằng chứng chữ Mường và lập luân : “Người ta thường nói
nước ta khơng có chữ, tơi nghĩ rằng khơng phải. Thập châu (chỉ vùng phía tây
1

Chữ Khoa đẩu là chữ giống hình con Nịng nọc.


Thanh Hóa) vốn là đất nước ta. Trên châu có chữ, lẽ nào dưới chợ (vùng đồng
bằng) lại không? Lối chữ châu là chữ nước ta đó…Nước ta nội thuộc kể đã dư
ngàn năm, từ khi Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) dạy chữ Trung Quốc mà lối chữ nước ta
bỏ đi hết. Thập châu bởi là nơi biên viễn cho nên lối chữ ấy hãy còn”[2, tr.117].
Nguyễn Đổng Chi trong cuốn “Việt Nam cổ văn học sử” đã đưa ra 35 chữ cái
của dân tộc Mường ở Thanh Hóa mà ơng sưu tầm được [6, tr.30].
Cuối thế kỉ XIX, Trương Vĩnh Ký trong cuốn “Sách mẹo An Nam” cũng
khẳng định trước thời Bắc thuộc cha ơng ta có chữ viết riêng, đó là chữ ghi âm
[2, tr.118].
Giáo sư Hà Văn Tấn, ông Lê Trọng Khánh, giáo sư Bửu Cầm, giáo sư Đỗ
Quang Vinh… đã nhiều lần khẳng định thời Hùng Vương có lạo “chữ khoa
đẩu”. Tháng 12/2015 trong học chuyên đề “Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVII –
XIX” thì PGS.TS Trần Thuận cũng khẳng định thời đại Hùng Vương có chữ

viết.
Đầu năm 2013, tại Hà Nội ơng Đỗ Văn Xuyền đã cơng bố cuốn sách
“Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” do Nxb Hồng Đức Hà Nội ấn hành. Trong
cuốn sách ông khẳng định và chứng minh thời Hùng Vương đã có một loại “chữ
khoa đẩu” tương đối giống chữ cổ của dân tộc Thái. Học giả An Chi đã phản đối
mạnh mẽ cuốn sách này với những lời lẽ nặng nề như “lố bịch”, “bôi tro trát
trấu”…
Tại thung lũng Mường Hoa tại huyện Sa Pa (Lào Cai) có bãi đá cổ Sa Pa,
thuộc địa phận 3 xã Hầu Thào, Sử Phan, Tả Van. Trong thung lũng này có nhiều
tảng đá nằm lấp trong cây, xen trong cỏ, mang những hình khắc bí ẩn, kì lạ.
Năm 1923, nhà Đông phương học người Pháp gốc Nga là Victor Goloubev
trong một chuyến khảo sát điền dã đã phát hiện ra những tảng đá này. Ông đã
viết bài giới thiệu trên một số tập san khảo cổ học. Cho đến nay đã phát hiện
159 tảng đá có hình khắc thuộc các loại sau : đường vạch song song, hình
vng, hình chữ nhật, hình trịn, hình người… và cả dấu vết chữ viết. Năm
1994, Bộ Văn hóa thơng tin đã đưa bãi đá cổ Sa Pa vào “Di tích lịch sử văn hóa
quốc gia”[5, tr.49].
Vào khoảng những năm 1970, các nhà khảo cổ học phát hiện được một
chiếc trống đồng ở Lũng Cú – Hà Giang, trên mặt trống có những đường cong
lạ mà các nhà nghiên cứu đặt vấn đề có thể là chữ viết [6, tr 31]. Khi nghiên cứu
về các hoa văn trên trống đồng, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong cuốn “Thời
Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại” đã có sự khẳng định “hình ảnh
của người đọc văn bản trên trống đồng”.
Qua các dẫn chứng nêu trên tơi có một số ý kiến sau:


Thứ nhất: Trong các thư tịch cổ của Trung Quốc thừa nhận có loại “chữ
khoa đẩu” giống hình con nịng nọc ở các tộc Việt bờ nam Dương Tử. Dân tộc
Choang ở tỉnh Quảng Đơng là một ví dụ điển hình. Họ bị Hán hóa thành người
Trung Qc, đất của họ bị sát nhập thành lãnh thổ Trung Quốc vĩnh viễn. Cịn

cư dân Văn Lang – Âu Lạc dù có mất nước nhưng vẫn khơng bị đồng hóa, về
sau vẫn giành lại độc lập .Như vậy xét về sức mạnh văn hóa thì dân tộc Choang
yếu hơn dân tộc Việt. Dân tộc Choang đã được chứng minh có tồn tại “chữ khoa
đẩu” khơng lẽ nào người Việt lại khơng có.
Thứ hai: người Thái, người Mường đều sáng tạo ra chữ cổ của riêng mình.
Đặc biệt là người Mường có quan hệ gần gủi với người Kinh (Việt). Người
Kinh với một trình độ cao hơn hẳn sao lại khơng thể tạo ra chữ viết cho riêng
mình?
Thứ ba: Thời đại Hùng Vương có niên đại kéo dài hơn 500 năm, nó đã
định hình văn hóa, bản sắc của người Việt Nam, đủ sức chống chọi với sự đồng
hóa của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Một nền văn minh
cao, đã có cơng cụ đồ sắt, kĩ thuật đúc trống đồng điêu luyện, chế tạo những vũ
khí lợi hại từng làm cho kẻ thù phương Bắc khiếp vía, đã tạo ra cơng trình qn
sự khoa học… Với một trình độ phát triển cao như vậy chẳng lẽ cư dân ở đó lại
khơng thể tự sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình? Họ từng biết khắc chữ lên mai
rùa để sang đi sứ Trung Quốc chẳng lẽ không biết khắc chữ lên trên đá để
truyền lại cho thế hệ sau?
Thứ tư: Đó là thái độ khi tranh luận khoa học. Tôi không tán thành thái độ
của học giả An Chi khi dùng những từ nặng nề như “lố bịch”, “bôi tro trát
trấu”.. sau khi ông Đỗ Văn Xuyền đã công bố cuốn sách “Cuộc hành trình đi
tìm chữ Việt cổ” do Nxb Hồng Đức, Hà Nội ấn hành. Thay vì dùng những lời
nặng nề, thiếu khách qua, có tính “đố kị” thì học giả An Chi nên tranh luận khoa
học với ông Đỗ Văn Xuyền. Nếu chúng ta không tôn trọng những người đặt nền
móng đầu tiên, khơng động viên giúp đỡ, tranh luận với nhau một cách khoa
học thì biết đến bao giờ mới có một Champollion thật sự để giải mã vấn đề chữ
cổ trong thời đại Hùng Vương ở Việt Nam.
Đến đây tơi có thể khẳng định rằng “thời đại Hùng Vương thì người Việt
cổ đã sáng tạo ra chữ viết của mình”.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền
thoại, Nxb Văn hóa Thơng tin, 1999.
2. Lê Thái Dũng, Tìm hiểu văn hóa thời đại Hùng Vương, Nxb Quân đội
nhân dân, 2010.
3. Lê Phụng Hoàng chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục,
2003.
4. Phan Duy Kha, Bí ẩn những hình khắc trên đá ở Sa Pa, Nhìn lại lịch sử,
Nxb Văn hóa Thơng Tin, 2003.
5. Phan Duy Kha, Thử lý giải giấc mơ của vua Lê Thánh Tơng, Nhìn lại
lịch sử, Nxb Văn hóa Thơng Tin, 2003.
6. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Khoa học xã hội, 2011.
7. Viên Như, Người Việt – Chủ nhân của Kinh dịch và chữ vuông, Nxb
Hồng Đức, 2014.
8. Đặng Đức Siêu, Chữ viết trong các nền văn hóa, Nxb Văn hóa, 1982.
9. Đỗ Văn Xuyền, Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ, Nxb Hồng Đức,
2013.
Người viết:
Lê Thị Lê
Học viên cao học, khóa I
Chuyên ngành lịch sử Việt Nam
Gmail:
SĐT: 01674650969



×