Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích các đặc điểm của hoạt động nhận thức học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.69 KB, 5 trang )

Phân tích các đặc điểm của hoạt động nhận thức học sinh tiểu học?
1. Tri giác
1.1. Đặc điểm:
Tri giác của học sinh tiểu học mang tính tổng thể, ít đi sâu vào chi tiết và nặng về
tính khơng chủ định, do đó mà các em phân biệt các đối tượng cịn chưa chính xác, dễ mắc
sai lầm, có khi cịn lẫn lộn. Ở học sinh các lớp đầu bậc tiểu học, khả năng phân tích một
cách có tổ chức và sâu sắc khi tri giác còn yếu nên các em thường thâu tóm sự vật về tồn
bộ, về đại thể để tri giác.
Học sinh các lớp đầu bậc tiểu học khi tri giác thường gắn với hành động, với hoạt
động thực tiễn của bản thân. Đối với các em, tri giác sự vật có nghĩa là phải làm cái gì đó
với sự vật như cầm nắm, sờ mó vào sự vật ấy. Những gì phù hợp với nhu cầu của các em,
những gì các em thường gặp trong cuộc sống và gắn với các hoạt động của chúng, những
gì giáo viên chỉ dẫn thì mới được các em tri giác.
Tính cảm xúc thể hiện rất rõ khi các em tri giác. Học sinh tiểu học tri giác trước hết
là những sự vật, những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em những xúc
cảm. Vì thế, cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây
ấn tượng tích cực cho các em.
Tri giác về thời gian và không gian cũng như ước lượng về thời gian và không gian
của học sinh tiểu học cịn hạn chế. Một số cơng trình nghiên cứu đã đi đến kết luận: học
sinh tiểu học thường khó hiểu khoảng cách về thời gian của các sự kiện, những niên đại
lịch sử cũng rất khó hiểu đối với các em.
1.2. Kết luận sư phạm:
Tri giác của học sinh tiểu học khơng tự nó phát triển được. Trong quá trình học tập,
khi tri giác trở thành hoạt động có mục đích đặc biệt, trở nên phức tạp và sâu sắc, trở thành
hoạt động có phân tích, có phân hóa hơn thì tri giác sẽ mang tính chất của sự quan sát có tổ
chức. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, vai trò của giáo viên tiểu học rất lớn. Giáo
viên là người không chỉ dạy trẻ kỹ năng nhìn, kỹ năng nghe mà cịn hướng dẫn các em
xem xét, dạy các em biết lắng nghe, tổ chức một cách đặc biệt hoạt động của học sinh để
tri giác một đối tượng nào đó nhằm phát hiện những dấu hiệu bản chất của sự vật và hiện
tượng.



2. Trí nhớ
2.1.Đặc điểm:
Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan – hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ
- lơgic. Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt
hơn những định nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Nguyên nhân là do ở lứa tuổi này,
hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất chiếm ưu thế hơn.
Học sinh ở các lớp một, lớp hai có khuynh hướng ghi nhớ máy móc bằng cách lặp
đi lặp lại nhiều lần, có khi chưa hiểu những mối liên hệ, ý nghĩa của tài liệu đó. Các em
thường học thuộc lòng tài liệu theo từng câu, từng chữ mà không sắp xếp lại, diễn đạt lại
bằng lời lẽ của mình. Đặc điểm này là do:
Học sinh chưa hiểu cụ thể cần phải ghi nhớ cái gì, ghi nhớ trong bao lâu. Trong khi
đó giáo viên lại ít quan tâm hướng dẫn các em cách ghi nhớ theo điểm tựa.
Ngôn ngữ của học sinh lớp một, lớp hai còn bị hạn chế. Đối với các em, việc nhớ
lại từng câu, từng chữ dễ dàng hơn dùng lời lẽ của mình để diễn tả lại một sự kiện, hiện
tượng nào đó.
Nhiều học sinh tiểu học còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết sử
dụng sơ đồ lôgic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần
ghi nhớ.
Hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định do tính tích cực học tập của học sinh quy
định. Tất nhiên, điều này còn tùy thuộc vào kỹ năng nhận biết và phân biệt các nhiệm vụ
ghi nhớ (như xác định được cần ghi nhớ nguyên văn bài thơ, công thức quan trọng, nhớ ý
chính của đoạn văn,…). Hiểu mục đích của ghi nhớ và có tâm thế thích hợp là những điều
kiện rất quan trọng để học sinh tiểu học ghi nhớ tốt tài liệu học tập.
2.2. Kết luận sư phạm:
Nhiệm vụ của giáo viên tiểu học là là hình thành cho học sinh tâm thế học tập và
ghi nhớ, hướng dẫn các em thủ thuật ghi nhớ tài liệu, chỉ cho các em đâu là điểm chính,
điểm quan trọng của bài học để tránh tình trạng các em phải ghi nhớ quá nhiều, ghi nhớ
máy móc, học vẹt.
3. Tư duy



3.1 Đặc điểm
Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực
quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Theo J. Piaget (nhà tâm lý học Thụy Sĩ), tư duy
của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi còn ở những thao tác cụ thể. Điều này được thể hiện rất rõ qua
những tiết học đầu tiên khi trẻ bước vào lớp một. Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời để yêu cầu trẻ
làm phép tính: 2 + 3 thì nhiều em không làm được (trừ những em đã được học trước). Nếu
câu hỏi gắn với một vật cụ thể thì các em sẽ làm được. Chẳng hạn hỏi em có 2 quyển vở,
em được cô cho thêm 3 quyển vở nữa thì em có mấy quyển vở, các em sẽ trả lời là em có 5
quyển vở.
Trong tư duy của học sinh đầu bậc tiểu học, tính trực quan cụ thể thể hiện rất rõ. Ví
dụ: cơ giáo ra bài tốn “nếu con vịt có 3 chân thì 2 con vịt có bao nhiêu chân?” thì nhiều
em lúng túng, chúng thắc mắc làm gì có vịt 3 chân. Như vậy tư duy của các em chưa thốt
khỏi tính cụ thể.
Q trình học tập theo phương pháp nhà trường giúp cho tư duy của học sinh tiểu
học dần dần chuyển từ nhận thức các mặt bên ngoài của các sự vật, hiện tượng đến nhận
thức được các dấu hiệu bản chất của chúng. Điều đó có tác dụng hình thành ở học sinh khả
năng tiến hành thao tác khái hóa đầu tiên, thao tác so sánh đầu tiên, tiến tới có được khả
năng suy luận sơ đẳng.
Đối với học sinh tiểu học, kỹ năng phân biệt các dấu hiệu bản chất và tách các dấu
hiệu đó ra khỏi sự vật, hiện tượng mà chúng ẩn tàng trong đó là phẩm chất tư duy khơng
dễ có ngay được. Vì ở lứa tuổi này, tri giác phát triển sớm hơn và đối với các em tri giác
trước hết là nhận biết những dấu hiệu bên ngoài, mà những dấu hiệu này chưa chắc đã là
bản chất của sự vật, hiện tượng đang được các em xem xét. Đó là những khó khăn, khiếm
khuyết của học sinh tiểu học trong quá trình lĩnh hội khái niệm.
Hoạt động phân tích – tổng hợp của học sinh tiểu học còn sơ đẳng, học sinh các lớp
đầu bậc tiểu học chủ yếu tiến hành hoạt động phân tích – trực quan – hành động khi tri
giác trực tiếp đối tượng. Đến cuối bậc học, các em có thể phân tích đối tượng mà khơng
cần tới những hành động trực tiếp với đối tượng, các em đã có khả năng phân biệt những

dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Việc học


tiếng Việt và số học có tác dụng tích cực trong việc hình thành và phát triển thao tác
phân tích – tổng hợp cho học sinh tiểu học.
Học sinh tiểu học cịn gặp nhiều khó khăn khi phải xác định và hiểu mối quan hệ
nhân quả. Các em còn lẫn lộn giữa nguyên nhân và kết quả, hiểu mối quan hệ chưa sâu
sắc, thấu đáo.
3.2. Kết luận sư phạm:
Những đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học nêu trên chỉ có ý nghĩa tương đối.
Trong q trình học tập ở nhà trường, tùy thuộc vào nội dung, phương pháp và phương
thức tổ chức cho các em thực hiện hoạt động học mà tư duy của các em phát triển, thay
đổi cũng có phần khác nhau. Nếu nội dung, phương pháp dạy học được thay đổi tương
ứng với nhau thì trẻ em có thể có được một số đặc điểm của tư duy khoa học.
4. Tưởng tượng
4.1. Đặc điểm:
So với trẻ em trước tuổi đến trường, tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát
triển và phong phú hơn nhiều. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít có tổ
chức, hình ảnh của tưởng tượng cịn đơn giản, hay thay đổi, chưa bền vững.
Càng về cuối bậc học, do đã có kinh nghiệm phong phú và đã lĩnh hội được các
tri thức khoa học do nhà trường đem lại nên tưởng tượng của học sinh tiểu học gắn với
hiện thực hơn, ví dụ: đồ chơi của học sinh tiểu học phải “thật” hơn đồ chơi của trẻ mẫu
giáo. Về mặt cấu tạo hình tượng, tưởng tượng của học sinh tiểu học chỉ lặp lại hoặc thay
đổi chút ít về kích thước, về hình dạng so với những hình ảnh đã tri giác được. Ví dụ:
các em học sinh lớp một thường vẽ người ném viên đá có tay to hơn chân. Các em học
sinh lớp bốn, lớp năm đã có khả năng nhào nặn, gọt rũa những hình tượng cũ để sáng
tạo ra những hình tượng mới. Sở dĩ như vậy là vì các em đã biết dựa vào ngơn ngữ để
xây dựng hình tượng mang tính khái quát và trừu tượng hơn.
4.2. Kết luận sư phạm:
Trong dạy học ở tiểu học, giáo viên cần hình thành cho học sinh biểu tượng



thơng qua sự mơ tả bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ của mình. Điều này cũng được xem như
là phương tiện trực quan trong dạy học.
kỳ quan trọng của giáo viên và nhà trường tiểu học. Trong quá trình dạy học, giáo viên
cần chú ý làm giàu vốn từ cho trẻ, dạy trẻ biết đọc đúng ngữ điệu và diễn cảm, giúp trẻ
phát âm chuẩn xác, uốn nắn kịp thời những sai sót trong ngơn ngữ của trẻ, nhất là những
thói quen nói ngọng, nói lắp.



×