PHỤ LỤC
PHẦN I : LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Khái quát về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1.Một số khái niệm liên quan
a) Mang thai hộ
b) Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
2. Ý nghĩa
3. Mục đích
II. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Điều kiện đối với người mang thai hộ
2 . Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ
III. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
1. Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ
2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ
IV. Xác định cha, mẹ, con trong mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Xác định cha mẹ
2. Xác định con
3. Giải quyết tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
V. Đánh giá vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật hiện hành
1. Thực trạng
2. Bất cập, vướng mắc cụ thể
3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân
PHẦN III: KẾT LUẬN
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Được làm cha, mẹ là niềm hạnh phúc của tất cả mọi người. Tuy nhiên, do nhiều lý do
khác nhau mà có một số cặp vợ chồng khơng thể tự mình mang thai. Nhờ vào sự phát
triển của khoa học kỹ thuật ngành y tế, trong thực tiễn, hình thức mang thai hộ được ra
đời. mặc dù đây là hạn vi vì mục đích nhân đạo nhưng trên thực tế vẫn có nhiều đối
tượng lợi dụng cách thức này để thực hiện các giao dịch thương mại và gây ra nhiều
hậu quả cho các bên. Mang thai hộ là một trong những quy định mới được ghi nhận
trong Luật Hơn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014 và là một bước đột phá
trong công tác lập pháp, mở ra niềm hy vọng mới cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh
hiếm muộn không thể sinh con. Trong thực tế cuộc sống, các trường hợp vơ sinh hiếm
muộn xảy ra ngày càng nhiều và có nguy cơ tăng cao tại nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì
Việt Nam đang là một trong những quốc gia tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương có
tỷ lệ sinh thấp nhất nhưng tỷ lệ vơ sinh thì lại cao nhất. Một mặt các quy định về mang
thai hộ sẽ tạo khung pháp lý an toàn trong các giao dịch mang thai hộ và có cơ chế
phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại như hiện nay
đồng thời giúp các cơ quan chức năng có thể kiểm sốt được một phần nào đó nhu cầu
mang thai hộ hiện nay. Các quy định pháp luật về mang thai hộ giúp bảo vệ tốt hơn
quyền của bà mẹ và trẻ em. Mặt khác, việc pháp luật cho phép mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo đã giúp cho các cặp vợ chồng vơ sinh, hiếm muộn có cơ hội được làm
cha làm mẹ, giải tỏa được gánh nặng tâm lý gia đình, hạn chế được sự đổ vỡ của hơn
nhân. Có thể nói đây là quy định mang tính nhân văn, góp phần ổn định xã hội cơng
bằng, dân chủ và văn minh. Trong chuyên đề này sẽ đề cập đến một số vấn đề về
mang thai hộ theo pháp luật hiện hành.
2
PHẦN 2: NỘI DUNG
I.
Khái quát về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Một số khái niệm liên quan
a) Mang thai hộ ( khoản 22,23 Điều 3 LHNGĐ)
- “ Mang thai hộ” :Theo Luật hơn nhân và gia đình hiện hành thì có 02 hình thức
mang thai hộ:
1) Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, khơng vì
mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của
người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào
tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
2) Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho
người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế
hoặc lợi ích khác.
=> Như vậy, Luật hơn nhân và gia đình chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại.
b) Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ( khoản 21 Điều 3 LHNGĐ)
- Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân
tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
2. Ý nghĩa của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
- Thứ nhất, giữ vững được tính nhân văn, mang thai hộ là vì mục đích sản sinh con
người đáp ứng nguyện vọng của những cặp vợ chồng khơng có khả năng sinh đẻ
mong muốn có con, chứ không phải để đem ra trao đổi mua bán.
- Thứ hai, chế định này đặt ra trở thành khung pháp lý an toàn trong các giao dịch
mang thai hộ và có cơ chế phân biệt được với trường hợp mang thai hộ vì mục đích
thương mại như hiện nay.
- Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em.
- Thứ tư, các cơ quan chức năng phần nào đó có thể kiểm sốt được nhu cầu mang
thai hộ đang diễn ra trong xã hội.
- Thứ năm, pháp luật điều chỉnh thì các bên sẽ có cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn để ràng
buộc lẫn nhau, tránh tình trạng vi phạm như không chịu trả con hoặc không chịu nhận
con, có những căn cứ để giải quyết các tranh chấp
3. Mục đích của việc mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
3
Luật HNGĐ đã đưa ra hai khái niệm liên quan đến mục đích của việc mang thai hộ, cụ
thể:
– Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, khơng vì
mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của
người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào
tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
– Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho
người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế
hoặc lợi ích khác.
– Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân
tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
II. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
- Khoản 1 điều 95 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và
được lập thành văn bản”. Sự tự nguyện ở đây hồn tồn xuất phát từ ý chí của cả hai
bên: người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ mà không bị đe dọa, ép buộc, lừa
dối bởi bất kì bên thứ ba nào. Ngồi ra, pháp luật cịn quy định hình thức thỏa thuận
phải được lập thành văn bản mới có giá trị pháp lý.
1. Điều kiện đối với người nhờ mang thai hộ ( khoản 2 Điều 95 Luật HNGĐ)
Phải là cặp vợ chồng vô sinh và là cặp vợ chồng hợp pháp.
Quy định này nhằm đảm bảo ràng buộc pháp lý giữa các bên trong quá trình thực
hiện mang thai hộ cũng như đứa trẻ trong tương lai. Do đó, người phụ nữ độc thân hay
các cặp đơi đồng tính, song tính và chuyển giới cũng không được phép nhờ mang thai
hộ do pháp luật vẫn chưa thừa nhận hôn nhân của họ là hợp pháp.
•
Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ khơng thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.
Mang thai hộ là giải pháp cuối cùng để có thể có con. Quy định này đặt ra nhằm
tránh việc nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi, hạn chế việc lợi dụng vì
mục đích thương mại khi người phụ nữ vẫn còn khả năng làm mẹ.
•
Vợ chồng đang khơng có con chung.
Có nghĩa là việc mang thai hộ sẽ chỉ được thực hiện một lần nếu thành công.
Trong trường hợp nhờ mang thai hộ mà thai bị hỏng, bị sẩy, đứa trẻ sinh ra bị chết…
thì sẽ tiếp tục được nhờ mang thai hộ. Trường hợp cặp vợ chồng đã có con chung
nhưng đã chết và đáp ứng đủ các điều kiện khác theo luật định về quyền nhờ mang
thai hộ thì vẫn có quyền nhờ mang thai hộ. Đối với những cặp vợ chồng đã có một
•
4
con mà con mắc bệnh down, các bệnh liên quan đến thần kinh, bệnh hiểm nghèo,…
hoặc bị dị tật thì khơng có quyền nhờ mang thai hộ.
Được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý
Cặp vợ chồng nhờ mang thai phải được tư vấn về y tế, tâm lý và pháp lý để đảm
bảo họ hiểu rõ bản chất của vấn đề mang thai hộ, tránh xảy ra sai sót cũng như tranh
chấp trong tương lai vì thiếu hiểu biết.
•
2. Điều kiện đối với người mang thai hộ ( khoản 3 Điều 95 LHNGĐ)
• Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.
Khoản 19 điều 3 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014:“Người thân thích là người
có quan hệ hơn nhân, ni dưỡng, người có cùng dịng máu về trực hệ và người có họ
trong phạm vi ba đời”.
Trong khi đó, “người thân thích” được hiểu theo quy định tại khoản 7 điều 2 Nghị
định 10/2015/NĐ-CP như sau: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên
chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng
mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cơ, con cậu, con dì của họ; anh rể,
em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha với họ”.
Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần.
Mang thai và sinh con là một quá trình đặc biệt, việc đã từng sinh con sẽ giúp
người phụ nữ chuẩn bị về mặt tâm lí, tinh thần, cũng như có kinh nghiệm, kĩ năng
trong việc chăm sóc bản thân và thai nhi nhằm đảm bảo thực hiện việc mang thai hộ.
Quy định chỉ mang thai hộ một lần nhằm tránh tình trạng lợi dụng để đạt đạt được
mục đích thương mại.
•
Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền.
Pháp luật lại chưa có quy định thế nào là độ tuổi phù hợp. Có thể suy đốn đó là
độ tuổi sinh đẻ nói chung theo các nghiên cứu khoa học và quan điểm xã hội. Thông
thường độ tuổi sinh đẻ tốt nhất là từ 20 tuổi đến 30 tuổi, lúc này cơ thể người phụ nữ
đã phát triển đầy đủ về cả tâm sinh lí cho việc làm mẹ. Điều kiện có xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền không chỉ nhằm đảm bảo cho sức khỏe người nhận mang thai
hộ mà còn đảm bảo sức khỏe cho đứa trẻ, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
•
Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng
văn bản của người chồng.
Luật Hơn nhân và gia đình 2014 đặt ra nguyên tắc xây dựng gia đình tiến bộ, các
thành viên trong gia đình có nghĩa vụ tơn trọng, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Việc
mang thai hộ khơng chỉ làm cho người vợ có nguy cơ với một số biến chứng, ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe và tâm lí người thân trong gia đình, các mối quan hệ gia
đình. Chính vì vậy, vấn đề này cần phải được sự bàn bạc, thống nhất, thỏa thuận và
đồng ý bằng văn bản của người chồng.
•
5
Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Các nội dung y tế cần được tư vấn như các nguy cơ, tai biến có thể xảy ra khi
mang thai như sẩy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết, khả năng đa thai, em bé dị tật
phải bỏ thai,…Việc tư vấn này nhằm cung cấp những thông tin về nguy cơ, tai biến
ảnh hưởng tới sức khỏe mà người nhận mang thai có thể mắc phải.
•
• Ngồi ra, người nhận mang thai cũng cần được tư vấn về tâm lí, tình cảm gia
đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ, tâm lí đối với con ruột của mình.
III. Xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Xác định cha, mẹ
- Theo điều 94 LHNGĐ 2014 quy định về việc xác định cha, mẹ trong trường hợp
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Điều 94. Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ
chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
- Khái niệm con chung được quy định tại khoản 1 điều 88 Luật HNGĐ 2014:
Điều 88. Xác định cha, mẹ
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân
là con chung của vợ chồng.
2. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được
coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
3. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của
vợ chồng.
Có thể hiểu là con được người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc người vợ có thai
trong thời kỳ hơn nhân nhưng khi sinh đứa bé ra vợ chồng đã ly hôn là con chung của
vợ chồng. Nhưng theo luật đứa trẻ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo vẫn được xác nhận là con chung nhưng không do người vợ (người nhờ mang
thai hộ) sinh ra không vi phạm nguyên tắc xác định con chung mà luật quy định
2. Xác định con:
Điều 89 Luật HNGĐ quy định về xác định con như sau: “Người không được nhận
là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác định người đó là con mình.
Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác định người đó
khơng phải là con mình.” Khi mà người mang thai hộ sau khi sinh con xong không
muốn giao lại con thì vợ, chồng bên nhờ mang thai có thể u cầu Tịa án xác định đó
6
là con mình. Ngược lại, nếu vợ chồng nhờ mang thai hộ cho rằng đứa trẻ được giao
không phải con mình, cũng có thể u cầu Tịa án xác định đó khơng phải con mình.
IV.
Quyền và nghĩa vụ các bên trong thỏa thuận mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo.
1. Quyền và nghĩa vụ bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ( điều 95
LHNGĐ)
Quyền của bên mang thai hộ:
- Người mang thai hộ sẽ được hưởng chế độ thai sản theo các quy định của pháp luật
dành cho những người mang thai như hưởng các ưu tiên dành cho thai phụ, thời gian
làm việc được giảm so với thời gian làm việc bình thường, được nghỉ khám thai mà
vẫn được hưởng lương, được nghỉ thai sản khi đứa bé sinh ra. Trong trường hợp kể từ
ngày sinh đến thời điểm giao đứa bé mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60
ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày.
Đảm bảo sức khỏe sản phụ sau sinh.
- Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có
quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Nhà nước ta dự liệu
trường hợp này là bảo vệ cho người mang thai hộ khi mà người nhờ mang thai hộ
không nhận con, lý do người mang thai hộ không nhận con là đứa bé không như mong
muốn của họ, có thể là do đứa trẻ ốm yếu, hay giới tính khơng như họ mong đợi.
- Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai thực hiện hỗ trợ, chăm sóc
sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự
phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai,
việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật y tế về
chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nghĩa vụ của bên mang thai hộ
- Người mang thai hộ phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ theo đúng như hai
bên giao kết ghi nhận trong thỏa thuận mang thai hộ. Người mang thai hộ không thực
hiện giao con đúng như sự thỏa thuận cho bên nhờ mang thai hộ thì bên nhờ mang thai
hộ có quyền u cầu Tịa án buộc người mang thai hộ giao con. Quy định này giúp
cho mong muốn của bên nhờ mang thai hộ được đảm bảo, đứa trẻ là con của bên nhờ
mang thai hộ nên phải giao cho đứa trẻ này cho bên nhờ mang thai hộ chăm sóc, ni
dưỡng.
- Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có nghĩa vụ như cha mẹ trong
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, ni dưỡng con cho đến thời điểm giao
đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Từ quá trình mang thai hộ đến khi giao đứa trẻ cho
bên nhờ mang thai hộ thì người mang thai hộ phải có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng
đứa trẻ như con của chính mình. Tránh những trường hợp suy nghĩ đứa trẻ này khơng
phải là con của mình nên khơng thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng chăm sóc làm ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe đứa trẻ. Quy định này nhằm bảo vệ cho đứa trẻ được chăm
sóc tốt nhất trước khi được giao cho bên nhờ mang thai hộ.
7
- Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để
phát hiện, điều trị bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế. Người
mang thai hộ phải tuân thủ các quy định về thăm khám sẽ giúp cho việc phát triển bào
thai diễn ra bình thường. Bên cạnh đó, có thể phát hiện và điều trị các bất thường và dị
tật một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Đồng thời tránh những biến chứng khi
mang thai, bảo vệ được người mang thai hộ và cả đứa trẻ mà người mang thai hộ đang
mang trong người.
2. Quyền và nghĩa vụ bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ( điều 98
LHNGĐ)
Quyền của bên nhờ mang thai hộ:
- Cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có quyền là cha, mẹ đứa trẻ kể từ khi đứa bé được
sinh ra. Vợ, chồng nhờ mang thai hộ họ ln khát khao có con để được thực hiện
quyền làm cha làm mẹ, quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ra đời cũng trên
cơ sở nguyện vọng, khát khao đó nó đảm bảo quyền làm cha mẹ của bên nhờ mang
thai hộ, khi đứa bé chào đời thì họ trở thành cha mẹ hợp pháp của đứa bé.
- Người mẹ nhờ mang thai hộ sẽ được hưởng chế độ thai sản khi đứa con đủ 06 tháng
tuổi để người mẹ có đủ điều kiện ni dưỡng và chăm sóc cho đứa trẻ. Tại khoản 2,
Điều 98 của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của
bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, đảm bảo quyền cho bên nhờ mang thai
hộ thực hiện quyền cha mẹ đối với đứa trẻ được mang thai hộ kể từ khi đứa trẻ được
sinh ra.
Nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ
- Chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy
định của Bộ Y tế. Việc thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là để đáp ứng
nguyện vọng của bên nhờ mang thai hộ có được đứa con, nên những chi phí phát sinh
từ việc thực hiện mang thai hộ thì do bên nhờ mang thai hộ thanh tốn. Những chi phí
này là những chi phí thực tế, và phải phát sinh từ việc chăm sóc sức khỏe theo quy
định của Bộ Y tế. Ngoài những chi phí này thì bên nhờ mang thai hộ khơng có nghĩa
vụ thanh tốn. Bởi vì đây là quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khơng phải
vì mục đích thương mại.
- Nghĩa vụ của người nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể
từ thời điểm con được sinh ra. Thời điểm đứa con được sinh ra là thời điểm pháp luật
công nhận đứa trẻ này là con chung của vợ chồng người nhờ mang thai hộ nên họ phải
có nghĩa vụ đối với con của mình. Trong khoảng thời gian từ thời điểm đứa trẻ được
sinh ra tới lúc đứa trẻ được giao cho vợ chồng nhờ mang thai hộ thì hai bên thực hiện
mang thai hộ có nghĩa vụ giống như cha mẹ đứa bé, nên trong khoảng thời gian này
đứa bé được chăm sóc ni dưỡng từ cả hai bên.
- Bên nhờ mang thai hộ phải có nghĩa vụ nhận con đúng như thỏa thuận mang thai hộ
giữa các bên đã thỏa thuận. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con
hoặc vi phạm nghĩa vụ về ni dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và bị xử lý theo quy định của
pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường.
8
3. Giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo ( điều 99 LHNGĐ)
Điều 99. Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Tịa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản, mang thai hộ.
2. Trong trường hợp chưa giao đứa trẻ mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì bên mang thai hộ có quyền nhận ni đứa trẻ;
nếu bên mang thai hộ khơng nhận ni đứa trẻ thì việc giám hộ và cấp dưỡng đối với
đứa trẻ được thực hiện theo quy định của Luật này và Bộ luật dân sự.
- Những tranh chấp phát sinh trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thuộc
“các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định”. Tịa án Nhân
dân cấp Huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
V. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1.Thực trạng vấn đề mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề về kỹ thuật y khoa khơng cịn là vấn đề khó khăn. Chỉ khó về mặt thủ
tục pháp lý. Tuy mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã được thừa nhận cùng
với sự ra đời của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định
10/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 01 năm 2015 quy định về sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Nhưng trên thực tế vẫn có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn gặp
phải vấn đề nan giải về mặt pháp lý.
Một số tình huống cụ thể như sau:
- Trường hợp của chị T và anh H ở Hà Nội, lấy nhau được 5 năm nhưng khơng có
con, chị T sức khỏe lại yếu, hai vợ chồng đã đi đến nhiều bệnh viện để thực hiện thụ
tinh nhân tạo nhưng qua nhiều năm vẫn không thành công và tiêu tốn nhiều tiền bạc
cũng như thời gian. Khi Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 ra đời sửa đổi, quy định
thừa nhận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, anh chị rất mừng rỡ khi được thắp
lên hi vọng về một đứa con. Nhưng, sau khi tìm kiếm hết những người thân thích
trong họ đáp ứng được quy định của pháp luật thì khơng có, nhà ít anh chị em, người
thì vừa kết hơn chưa sinh nở bao giờ, người thì quá độ tuổi quy định, trong khi có một
số người họ hàng xa và bạn bè của vợ chồng chị T đồng ý có ý định giúp đỡ.
- Hay như trường hợp chị N ở thành phố Hồ Chí sau khi kết hơn 10 năm, chị khơng
có con. Qua thăm khám các bác sĩ phát hiện, chị khơng có tử cung bẩm sinh, tức là
không thể mang thai. Tuy nhiên, buồng trứng của chị vẫn có chức năng tốt, có thể đáp
ứng điều kiện mang thai hộ. Thật may mắn khi đúng lúc đó quy định về mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo ra đời cùng Nghị định hướng dẫn về điều kiện mang thai hộ.
Chị đã nộp hồ sơ đăng ký để đợi xét duyệt. Sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý, vợ
9
chồng chị N cùng với chị M (chị họ của chị N) đã khám và theo dõi tại bệnh viện.
Ngay lần chuyển phôi đầu tiên, sản phụ may mắn đậu thai với kết quả siêu âm song
thai. Sau đó, sản phụ được theo dõi kỹ lưỡng tại bệnh viện. 9 tháng sau chị M sinh
một bé trai kháu khỉnh. Không may mắn, vợ chồng chị N đều qua đời sau một tai nạn
giao thơng, gia đình lại neo người, bố mẹ hai bên đều nhiều tuổi, điều kiện kinh tế đều
khơng ổn định, khó có thể nhận ni bé. Chị M vừa cảm thơng với hồn cảnh của em
mình lại rất mực yêu quý cháu bé muốn nhận nuôi cháu nhưng lại khơng đủ điều kiện
được nhận ni vì chị đang chấp hành quyết định xử phạt hành chính nên không tiến
hành được thủ tục nhận nuôi.
- Bên cạnh một vài trường hợp gặp vướng mắc thì những niềm hạnh phúc của
những gia đình, của cặp vợ chồng hiếm muộn khi thực hiện thành cơng mang thai hộ
khó có thể diễn tả. Dưới đây là một trường hợp điển hình của đơi vợ chồng ở Khánh
Hịa. Sáng ngày 18 tháng 3, bác sĩ Trần Ngọc Hải, Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp,
Bệnh viện Từ Dũ cho biết, hai bé trai chào đời vào ngày 16 tháng 3. Mặc dù sinh non,
chào đời ở tuần thai thứ 35, nhưng hai bé đều có sức khỏe tốt. Đây là một trong những
thành tựu của thành phố Hồ Chí Minh cả về góc độ y khoa lẫn xã hội. Theo bác sĩ Hải,
cha mẹ ruột của 2 em bé ngụ ở Khánh Hòa. Cả hai vợ chồng còn rất trẻ. Người mang
thai là chị N (34 tuổi) cũng ngụ ở tỉnh Khánh Hòa, là chị họ của cha em bé. Chị đã có
chồng và sinh được 2 con. Vì thương em nên chị tự nguyện mang thai hộ giúp đỡ em
mình.
2. Một số bất cập, hạn chế trong vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
- Việc cho phép vợ chồng chỉ được nhờ mang thai hộ khi chưa có con chung có phần
bất hợp lí bởi sẽ có những trường hợp con đầu của họ mắc một số chứng bệnh, dị tật
khiến những đứa trẻ đó khơng có khả năng nuôi sống bản thân và thực hiện trách
nhiệm phụng dưỡng cha, mẹ lúc về già. Sau khi có đứa con chung, vì ngun nhân đó
khiến cho hai vợ chồng vơ sinh, thì theo quy định hộ khơng thể nhờ mang thai hộ đáp
ứng nguyện vọng của họ.
- Quy định người mang thai hộ chỉ có thể là người thân thích để hạn chế mang thai hộ
vì mục đích thương mại là không khả quan. Vừa hạn chế đối tượng mang thai hộ, gây
thiệt thịi cho những người mà khơng có người thân thích để nhờ hoặc người thân
thích khơng muốn hộ thì họ vẫn sẽ tiến tới con đường thuê mang thai . Càng khơng có
gì để đảm bảo giữa những người thân thích khơng phát sinh mang thai hộ vì mục đích
thương mại.
- Luật Hơn nhân gia đình quy định về điều kiện được nhờ người mang thai hộ của là
phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ khơng thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Tức là, trước khi nhờ
mang thai hộ phải sử dụng biện pháp áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng khơng
thành cơng. Chi phí cho một ca thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm không
phải con số nhỏ, rơi vào mức vài chục triệu đồng, cộng thêm chi phí tiếp đó mang thai
hộ tổng chi phí phải lên đến cả trăm triệu đồng. Như vậy, sẽ có rất nhiều gia đình
khơng đủ khả năng chi trả, điều luật không khả thi với người nghèo, chỉ tác động lên
số ít trong xã hội.
10
- Mặc dù lên án vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại, cấm mang thai hộ vì
mục đích thương mại. Nhưng chế tài xử phạt cho hành vi này không được đề ra, hậu
quả là các hành vi không bị ngăn chặn mà vẫn tiếp diễn, không có tính răn đe đối với
người dân dẫn đến khó áp dụng pháp luật.
3. Các giải pháp khắc phục hạn chế của vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
- Sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định này, tránh tình trạng áp dụng
khơng thống nhất do cách hiểu khác nhau.
- Quy định điều kiện người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích của bên
vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Khiến hạn chế đối tượng mang thai hộ, theo quy
định này đối tượng mang thai hộ có thể nói bị thu hẹp ở mức tối thiểu. Nên mở rộng
người được nhờ mang thai hộ tránh tình trạng tái diễn mang thai hộ vì mục đích
thương mại.
- Đối với quy định có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quy
định trên nên ghi nhận là có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ
không thể mang thai và sinh con, chứ không cần phải áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
- Cần có những chế tài riêng, thích đáng cho những hành vi mang thai hộ vì mục đích
thương mại mới có thể phần nào ngăn chặn được hành vi trái pháp luật này.
KẾT LUẬN
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một biện pháp giúp những cặp vợ chồng
hiếm muộn có khả năng vẫn được làm cha mẹ.. Nó đem lại những giá trị cốt lõi hết
sức to lớn đối với mọi cá nhân. Mặt khác, qua quá trình làm bài tập cá nhân lần này,
em đã tìm hiểu được những quy định của pháp luật về vấn đề mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo và vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong thực tiễn. Những
mặt tích cực và tiêu cực của vấn đề này. Cũng từ đó, phân tích đồng thời đánh giá
những quy định của vấn đề này. Chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một
chế định mới lần đầu tiên được quy định trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, tuy
đáp ứng được nguyện vọng của các cặp vợ chồng vơ sinh, nhưng mặt khác cịn nhiều
những hạn chế mà cho đến nay pháp luật vẫn chưa điều chỉnh được. Cần phải có
những giải pháp khắc phục nhanh chóng để vấn đề mang thai vì mục đích nhân đạo
khơng bị biến tướng so với tinh thần nhân văn ban đầu mà nhà nước đặt ra cho nó.
Tóm lại, để chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự là giải pháp tốt, thân
11
thiện và ít tranh chấp nhằm giúp cho các cặp vợ chồng vơ sinh đáp ứng nhu cầu có
được một đứa con theo nguyện vọng chính đáng thì người làm luật cần nghiên cứu và
hoàn thiện thêm quy định pháp luật trong thời gian tới. Có như vậy, pháp luật điều
chỉnh về quan hệ mang thai hộ mới có sức sống lâu dài và ổn định, đồng thời nâng cao
niềm tin của người dân vào pháp luật. Khi được pháp luật điều chỉnh thì các bên sẽ có
cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn để ràng buộc lẫn nhau, tránh tình trạng vi phạm như khơng
chịu trả con hoặc khơng chịu nhận con hoặc những trường hợp mang thai hộ vì mục
đích thương mại trái quy địn của pháp luật. Việc sửa đổi pháp luật này sẽ giúp đi vào
thực tế đời sống hiệu quả hơn, tạo điều kiện tốt nhất cũng như bảo vệ quyền lợi của
mẹ và con.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật HNGĐ Việt Nam năm 2014.
2. Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam năm 2015.
3. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2012.
5. Diễn đàn pháp luật
6. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em trong mang thai hộ
12
13