Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N (giám đốc một doanh nghiệp). Chiều 07022010, lợi dụng gia đình ông N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.03 KB, 15 trang )

BÀI TẬP LỚN NHÓM 2

Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về
việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ơng N (giám đốc một doanh nghiệp). Chiều
07/02/2010, lợi dụng gia đình ơng N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà
đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà P (57 tuổi, là người giúp việc) là đến để
chúc tết gia đình. Khơng nghi ngờ gì, bà P đã mở cửa cho K và H vào nhà. Sau
khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống rồi xơng vào đe doạ và định trói bà P. Bà
P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy, tơi chỉ là người giúp
việc thơi”
K và H phá két sắt của gia đình, lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng
một số ngoại tệ .Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng. Sau khi K,
H lấy được tài sản và bỏ đi thì bà P mới chạy ra đường hơ hốn. K, H bị bắt giữ
ngay sau đó.
Có 3 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a. K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi
gian dối đánh lừa người giúp việc.
b. K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia
đình ơng N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp
việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng


hồn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp
tài sản.
c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng cơng khai lấy
tài sản trước mắt người giúp việc.
Hỏi:
1. K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh. (3 điểm)
2. Hãy phản bác các ý kiến mà anh (chị) cho là sai. (4 điểm)

BÀI LÀM


1. K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh.
- Luận điểm: K và H phạm tội cướp tài sản ( Điều 133 BLHS 2015)
- Luận chứng: theo quy định tại điều 133 BLHS :
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho
người tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản..”
Như vậy: Tội cướp tài sản xâm phạm tới khách thể là quyền sở hữu đối với tài
sản, ngồi ra cịn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân.
* Chủ thể: là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ đủ 14 tuổi trở
lên, không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình).
* Khách thể:
- Các quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân.
- Khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thơng qua đó người phạm tội
xâm phạm khách thể là quan hệ tài sản.
* Mặt khách quan của tội phạm:


- Hành vi dùng vũ lực: Là hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, dùng sức
mạnh vật chất tác động vào cơ thể của nạn nhân là con người (như: đấm, đá, bóp
cổ, trói, bắn, đâm, chém….) để chiếm đoạt tài sản. Hành vi này có thể khiến nạn
nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe hoặc tử vong, nhưng cũng có thể chưa gây
ra thương tích đáng kể.
- Hành vi đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc: Là hành vi dùng lời nói hoặc
hành động nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì hành động vũ lực sẽ
được thực hiện ngay (như dí dao vào cổ đe dọa người bị hại giao nộp tài sản nếu
không sẽ bị đâm).
- Đe dọa dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe dọa, vừa sử
dụng vũ lực với người bị hại thì vẫn bị coi là dùng vũ lực.
- Hành vi làm người bị tấn công lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được: Là

hành vi không dùng vũ lực, không đe dọa sử dụng vũ lực nhưng làm cho người bị
tấn cơng lâm vào tình trạng không thể chống cự được (như đánh thuốc mê người bị
hại, khiến người bị hại không thể chống cự được và sau đó cướp tài sản)
* Hậu quả của tội phạm
- Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm
- Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về tính mạng thì cần phân biệt các trường hợp:
+) Người phạm tội giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về hai tội : Tội giết người và tội cướp tài sản
+) Nếu người phạm tội khơng có ý định giết người mà chỉ có ý định cướp tài sản
nhưng chẳng may nạn nhân bị chết thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết làm chết người
+) Nếu sau khi cướp tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà giết người để tẩu thốt
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả về tội giết người
- Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nếu bị hại có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên.
- Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về nhân phẩm, danh dự mà hành vi xâm phạm của
người phạm tội khơng có liên quan gì đến mục đích chiếm đoạt thì ngồi tội cướp
tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm
phạm danh dự, nhân phẩm.
* Mặt chủ quan của tội phạm


- Lỗi cố ý
- Mục đích chiếm đoạt tài sản
* Hình phạt
 Hình phạt chính:
- Phạt tù từ 3 năm đến 10 năm
- Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:
+) Có tổ chức;

+) Có tính chất chun nghiệp;
+) Tái phạm nguy hiểm;
+) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
+) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
+) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
+) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người khơng có khả năng tự vệ;
+) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+) Gây hậu quả nghiêm trọng.
- Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:
+) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
+) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng;
+) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Phạt tù từ 18 năm đến 20 năm, tù chung thân nếu thuộc một trong các
trường hợp:
+) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
+) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức


khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên;
+) Làm chết người;
+) Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
 Hình phạt bổ sung
- Phạt tiền: Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến

một trăm triệu đồng;
- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;
- Phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Ngoài ra, Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Luận cứ:
Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi:
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người
tấn công lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được. Tội phạm được thực hiện
dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích vụ lợi, do chủ thể là người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Mà K và H không những
xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu của gia đình ơng N đối với số tài sản bị
H và K lấy mất mà cịn xâm phạm đến sức khỏe tính mạng của bà P (người giúp
việc nhà ông N). Cụ thể là K và H đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc “xông vào đe doạ và định trói bà P” tác động trực tiếp vào bà P – người quản
lý tài sản (Trong đề bài đưa ra, bà P tuy không phải là chủ sở hữu chính thức đối
với tài sản bị cướp vì chủ sở hữu là ông N, nhưng bà P được ông N giao cho quản
lý tài sản, do bà P là người giúp việc trong gia đình). K và H xác định và cho rằng
bà P (người quản lý tài sản) có thể là người sẽ cản trở việc thực hiện hành chiếm
đoạt tài sản gia đình ơng N của chúng, nên chúng đã đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc với bà P. Xét về cách thức đe dọa, chúng đã chọn thời điểm gia đình ơng N
đi vắng chỉ cịn bà P ở nhà, địa điểm: chúng đã vào được tận trong nhà. Bà P là


một người phụ nữ, tuổi cũng đã cao lại (57 tuổi) vào hồn cảnh một mình ở trong
nhà, trong khi đó K(37 tuổi) và H(41 tuổi) là 2 người đàn ơng cịn khá trẻ, họ có
sức khỏe. So sánh tương quan cả về số lượng, tình trạng sức khỏe hiện tại thì ta
dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch rõ rệt và khi bị dùng vũ lực thật sự thì bà P là rất
khó có thể chống cự được. Do đó, khi K và H vào được trong nhà, thấy K và H có
hành vi “xơng vào đe dọa” ‘định trói” thì bà P hiểu rằng, nếu khơng để K và H lấy
tài sản thì lập tức bà sẽ bị chúng sử dụng vũ lực ngay tức khắc. Do đó bà có biểu

hiện “sợ hãi van xin” qua biểu hiện này ta thấy, những hành vi của K và H đã làm
cho bà P nhận thức được tính mạng, sức khỏe của bà đang bị đe dọa. Dẫn tới việc
ý chí phản kháng của bà P bị tê liệt, sức chống cự của bà P đối với hành vi của
chúng khơng cịn, do đó bà khơng thể biểu hiện được hành vi ngăn cản việc thực
hiện tội phạm của chúng, và đã nói “Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người
giúp việc thôi”. Sau khi K và H lấy được tài sản và bỏ đi, bà P mới có điều kiện
để “chạy ra đường hơ hốn”, lúc này bà khơng cịn bị tê liệt về ý chí nữa, bà đã
biểu hiện sự phản kháng thông qua việc thông báo cho mọi người biết về hành
vi phạm tội của K và H.
Sau khi thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với bà P, K và
H thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, chúng “phá két sắt của gia đình, lấy đi 70
triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là
460 triệu đồng”. Đây là một số lượng tài sản lớn, phản ánh mức độ xâm hại quan
hệ sở hữu cao.
Về mặt chủ quan: K và H thực hiện tội cướp tài sản với hình thức lỗi cố ý
trực tiếp. Giữa K và H đã có sự “bàn bạc trước rất kỹ càng” chúng đã có sự tính
tốn về việc chiếm đoạt tài sản gia đình ơng N. Đối tượng chúng định cướp là
gia đình ơng N – chủ doanh nghiệp- như vậy chúng xác định, trong nhà ông N
chắc chắn sẽ có nhiều tài sản có giá trị. Chúng cịn xác định thời gian gia đình


ông N đi vắng lúc nào, tìm hiểu rõ trong nhà chỉ cịn mình bà P là người giúp
việc. K và H đã chủ động đưa ra thông tin sai lệch để được vào trong nhà ơng N
(nói là đến chúc tết). Chúng tạo cho mình những điều kiện thuận lợi để thực
hiện việc cướp tài sản của gia đình ông N được nhanh chóng và dễ dàng nhất.
Về lý trí, khi thực hiện hành vi cướp tài sản K và H nhận thức được hành vi đó
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật. K và H cũng đều nhận thức và
biết rõ về hậu quả chung mà cả 2 phải gánh chịu khi tham gia thực hiện. Về ý
chí K và H có ý thức mong muốn đạt được mục đích chiếm đoạt được tài sản (K
và H cướp được tài sản, tổng giá trị tài sản lớn). Mục đích của chúng là cướp

được tài sản của nhà ông N. Tổng số tiền chúng cướp được là 460 triệu đồng,
điều này biểu thị tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi K và H gây ra mang
tính nguy hiểm cao.
Về mặt chủ thể: K và H đều đạt độ tuổi theo luật định Vũ K (37 tuổi) và Trần
Kim H (41 tuổi) họ hoàn tồn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. K và H ở một tuổi đã chín chắn trong nhận thức và điều khiển hành vi.
Với sức khỏe của mình, họ hồn tồn có thể kiếm những đồng tiền lương thiện
nhưng họ đã chọn cách thực hiện tội phạm để chiếm đoạt tài sản.
Từ những phân tích nêu trên, ta xác định K và H phạm tội Cướp tài sản quy
định tại điều 133 BLHS với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy
định tại điểm b, khoản 3 điều 133 BLHS “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai
trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.
Ngoài ra, theo đề bài, ta nhận định K và H là đồng phạm về tội Cướp tài sản
theo điều 133 BLHS với vai trò của cả 2 đều là người thực hành. Vì: việc thực
hiện tội phạm giữa K và H đã thỏa mãn dấu hiệu về số lượng; các hành vi của K
và H có sự liên kết với nhau (họ cùng xông vào định trói bà P, cùng phá két sắt,
cùng lấy tiền…); họ cùng cố ý thực hiện tội phạm, họ đã có sự bàn bạc trước


với nhau về thời gian gây án, mong muốn có sự tham gia thực hiện của người
kia, họ cùng mục đích chiếm đoạt tài sản của nhà ơng N(xác định từ trước mục
tiêu là tài sản của ông N), cùng nhận thức được hành vi trái pháp luật của mình
gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới các quan hệ xã hội mà pháp
luật bảo vệ nhưng vẫn thực hiện…
Hãy phản bác những ý kiến mà anh (chị) cho là sai.
a) K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian
dối đánh lừa người giúp việc.
=> Theo em, đây là quan điểm SAI. Vì:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu đối với
tài sản.Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hai hành vi: hành vi lừa dối

(hành vi đưa ra thông tin không đúng sự thật) và hành vi chiếm đoạt, trong đó,
hành vi lừa dối là biểu hiện cụ thể của thủ đoạn gian dối–dấu hiệu đặc trưng của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thơng tin sai sự thật nhưng mong
muốn người khác tin đó là sự thật. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể có
NLTNHS và đạt độ tuổi theo luật định.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phân biệt với tội cướp tài sản đặc trưng nhất
bởi cách thức có được tài sản của tội phạm. Ở tội cướp tài sản, người phạm
tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
người bị tấn cơng rơi vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản, do được miêu tả trong điều luật bằng các hành vi phạm tội nên tội cướp
tài sản có CTTP hình thức. Cịn ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội
thông qua hành vi lừa dối (đưa ra thông tin khơng đúng sự thật) làm cho chủ tài
sản tin đó là sự thật và tự nguyện giao tài sản, đây là tội có CTTP vật chất.
Vận dụng vào bài ra, ta có: Lúc đầu, K và H đã thực hiện thủ đoạn gian dối. :


K và H đã đưa ra thông tin không đúng sự thật về việc đến để chúc tết. Chúng
“lợi dụng việc gia đình ơng N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ
cửa nhà ông N và nói với bà P là đến để chúc tết”, như vậy, K và H đã giả danh
người quen biết của gia đình ơng N để tạo lịng tin của bà P (người được giao
quản lý tài sản) bà P tin K và H đến chúc tết thật và cho phép K và H vào trong
nhà một cách dễ dàng. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi gian dối của chúng chỉ
dừng lại ở việc tiếp cận được tài sản, giữa chúng và bà P khơng có diễn ra một
hợp đồng nào khiến bà P tự nguyện giao tài sản cho K và H. Mặt khác, tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản chỉ được coi là hoàn thành khi người phạm tội nhận được
tài sản trên cơ sở người quản lý tài sản do nhầm lẫn, tin người phạm tội mà tự
nguyện giao tài sản, nhưng trong theo bài ra ta có: việc chúng có được tài sản là
do chúng đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với bà P và tự chúng thực hiện
hành vi chiếm đoạt “phá két sắt lấy tiền…”Trong trường hợp này, không có hợp

đồng nào được xác lập, cũng chưa có hành vi tự nguyện giao tài sản của người
được giao quản lý tài sản (bà P). Khi đưa ra thông tin gian dối để vào được
trong nhà thì K và H lại có những hành vi đặc trưng của tội cướp tài sản, chúng
“xơng vào đe dọa” “ định trói” bà P, làm tê liệt ý chí phản kháng của bà P và sau
đó chúng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy hành vi gian dối của K
và H khơng có quan hệ chặt chẽ với hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối
mà K và H thực hiện chỉ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho K và H tiếp cận được
tài sản và thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của tội cướp tài sản.
Tài sản mà chúng chiếm đoạt được là do chúng tự thực hiện hành vi chiếm đoạt
chứ khơng có sự “tự nguyện” đưa cho của chủ tài sản.
Như vậy, ta kết luận quan điểm “K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
vì chúng đã có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc.” là sai.


b) K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình ông
N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc, không
phải là chủ sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hồn cảnh đó để
lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản.
Thứ nhất, về quan điểm “K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi
lợi dụng lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là
người giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó”. Đây là quan điểm
sai.Tội trộm cắp tài sản xâm hại đến quyền sở hữu đối với tài sản. Trộm cắp tài sản
là hành vi lén lút, bí mật, trốn tránh sự phát hiện của người quản lý tài sản để
chiếm đoạt tài sản. Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm
đoạt với đặc trưng thể hiện ở dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ (đang
có người quản lý). Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do người có
NLTNHS và đạt độ tuổi theo quy định thực hiện.
Tội cướp tài sản phân biệt với tội trộm cắp tài sản đặc trưng nhất qua tính chất
hành vi chiếm đoạt. Ở tội cướp tài sản, tính chất hành vi là dùng vũ lực đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm

vào tình trạng khơng thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản, ở đây, mức độ đe
dọa được thể hiện cao độ, tình chất nguy hiểm của tội phạm được biểu hiện rõ,
thông qua việc tác động vào ý chí của chủ sở hữu tài sản, người phạm tội mới
chiếm đoạt được tài sản. Còn ở tội trộm cắp tài sản, người phạm tội không tác động
vào chủ tài sản, mà lén lút, tránh sự phát hiện của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản,
chủ tài sản không gặp thiệt hại hoặc đe dọa bị gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
ở đây, mức độ nguy hiểm của tội phạm thấp hơn tội cướp tài sản.
Theo tình huống, ta có: Xét về dấu hiệu tài sản đang có chủ. Tuy gia đình ơng
N(chủ sở hữu đích thực của tài sản) đi vắng, nhưng bà P là người giúp việc, bà P
đương nhiên là người có trách nhiệm, nghĩa vụ trơng coi quản lý tài sản. Tức là, tài


sản của gia đình ơng N – đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt của K và H
vẫn đang có người quản lý (bà P đang trơng coi bảo vệ, tài sản thuộc sự chiếm hữu
của bà P), như vậy, khi K và H có hành vi lấy tài sản trước mặt bà P không thể
được coi là việc lén lút. Mặt khác, việc K và H “mang theo một túi quà” và “nói
với bà P là đến chúc tết gia đình” đây khơng phải là việc bằng cách này hay cách
khác trốn tranh sự phát hiện của người quản lý tài sản, cũng không phải là hành vi
lén lút, bí mật. Việc K và H đến bà P biết, thậm chí bà cịn “mở cửa cho K và H
vào nhà”, việc làm của K và H biểu hiện rõ ràng việc không trốn tránh sự phát hiện
của bà P – người được giao quản lý tài sản, mà chúng cịn được cơng khai tiếp cận
tài sản. Việc K và H hành vi chiếm đoạt tài sản là do chúng đã tác động vào bà P
“xông vào đe dọa” “định trói” bà P mà đạt được. Như vậy, xét về dấu hiệu đặc
trưng của tội trộm cắp tài sản là “tính lén lút, trốn tránh sự phát hiện của người
quản lý tài sản” trong quá trình thực hiện tội phạm của K và H khơng có, khơng
thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm này, do đó, nói “K và H phạm tội trộm cắp tài sản
vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình ơng N đi vắng để lấy tài sản, tuy bà P ở
nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản
đó” là sai.
Thứ hai, về quan điểm “giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ

thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản” đây là quan điểm sai. Trong
trường hợp này, bà P phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm hại đến quyền sở hữu đối với tài
sản.Mặt khách quan biểu hiện qua hành vi chiếm đoạt tài sản mà người chủ tài sản
đã tín nhiệm giao cho một cách ngay thẳng hợp pháp. Việc được giao tài sản không
phải do người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối mà do do có lịng tin từ trước. Mục
địch chiếm đoạt xuất hiện sau khi được giao tài sản.
Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản qua


dấu hiệu thời điểm người phạm tội nảy sinh ý thức phạm tội và cách thức có được
tài sản. Tội trộm cắp tài sản phát sinh khi người phạm tội chưa có được tài sản,
người phạm tội phải thực hiện hành vi lén lút, trốn tránh sự phát hiện của chủ tài
sản để chiếm đoạt tài sản. Còn ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tài sản
có được là do người chủ tài sản tin tưởng giao cho và ý thức phạm tội xuất hiện sau
khi người phạm tội đã có được tài sản.
Theo bài ra, ta có: Việc chuyển giao tài sản giữa ơng N và bà P là hồn tồn ngay
thẳng. Do có sự tin tưởng từ trước đối với bà P (bà P là người giúp việc trong nhà)
nên khi cả gia đình đi sắm tết, ông N đã không nghi ngờ và để toàn bộ tài sản trong
nhà cho bà P quản lý. Ở đây, việc bà P có được tài sản khơng phải do bà dùng thủ
đoạn gian dối do có lịng tin của ông N từ trước (việc người giúp việc trong nhà
quản lý tài sản khi chủ nhà đi vắng là chuyện đương nhiên), trách nhiệm của bà P
là phải trơng coi tài sản. Theo đề bài ra, thì bà P đang nắm giữ quản lý số tài sản
của ông N. Nhưng khi K và H có hành vi chiếm đoạt tài sản dẫn đến thiệt hại về tài
sản mà bà P lại dụng hồn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì tức là bà đã dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Bà lợi dụng việc K và H có lấy tài sản, và bà
cũng lấy tài sản. Như vậy, mọi người đều sẽ tin rằng tất cả số thiệt hại về tài sản
đều do K và H chiếm doạt, bà P sẽ không bị phát hiện về số tài sản bà lấy sau này.
Trước khi có hành vi chiếm đoạt tài sản của K và H, bà P khơng hề có ý định
chiếm đoạt mà bà đang là người quản lý tài sản. Tuy nhiên, bà lợi dụng sự việc có

thật là K, H chiếm đoạt tài sản trong nhà, P liền nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản.
Thủ đoạn gian dối của bà P biểu hiện qua việc lợi dụng vụ cướp tài sản của K và H
để chiếm đoạt tài sản mà bà đang đang quản lý. Như vậy, giả sử bà P lợi dụng hồn
cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản là
sai. Bà P phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.


c, K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng cơng
khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc.
Đây là quan điểm sai.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản. Công
nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng người chủ tài sản khơng có điều kiện ngăn cản
để công khai chiếm đoạt tài sản của họ. Mặt khách quan biểu hiện qua hành vi
công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tội phạm do chủ thể có NLTNHS và đạt độ tuổi
thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản phân biệt rõ nhât với tội cướp tài sản qua thủ
đoạn chiếm đoạt. Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, người quản lý tuy
biết việc chiếm đoạt đang xảy ra nhưng do điều kiện khách quan và chủ quan
(không do người phạm tội mang lại) nên khơng có khả năng quản lý bảo vệ tài sản,
mà người phạm tội đã lợi dụng tình trạng này của người quản lý tài sản ngang
nhiên lấy tài sản trước mắt người quản lý tài sản. Ở tội cướp tài sản, người phạm
tội bị đẩy vào tình trạng tê liệt về ý chí, khơng có khả năng quản lý và bảo vệ tài
sản, khiến cho những hành vi cản trở tội phạm không được thực hiện.
Đối chiếu vào bài, ta thấy: Đối với bà P, K và H đã dùng thủ đoạn gian dối để
tiếp cận được vào trong nhà, nơi có tài sản, khi chiếm đoạt, chúng có tính chất
cơng khai trắng trợn, tuy nhiên, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, chúng đã phải
dùng đến thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc “xông vào đe dọa và định
trói” bà P. Người được giao quản lý tài sản (tức bà P) không bảo vệ được tài sản
tuy biết việc chiếm đoạt đang xảy ra nhưng do điều kiện khách quan K và H đưa
đến (chúng xơng vào đe dọa và định trói bà P) nên bà P khơng có khả năng quản

lý, bảo vệ tài sản. Chúng không lợi dụng sơ hở của bà P khi đi rót nước mà chúng
vơ hiệu hóa sự phản kháng của bà P bằng cách đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
để chiếm đoạt tài sản bà P đang được phép trơng coi quản lý. Sau đó, dù chúng có
cơng khai, trắng trợn lấy tài sản trước mặt bà P đi chăng nữa thì cũng khơng phải là


biểu hiện của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Như vậy, quan điểm “K và H
phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng cơng khai lấy tài sản trước mắt
người giúp việc” là sai.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập 2
3. TS. Lê Đăng Doanh, Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu (Bộ
luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009), Nxb Tư pháp, Hà Nội,
năm 2013.
4. Ths. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm
tập II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002.
5. Ts. Trần Minh Hưởng, Học viện cảnh sát nhân dân, Hệ thống pháp luật hình sự
Việt Nam tập 1, Bình luận khoa học bộ luật hình sự đã được sửa đổi bỏ
sung năm 2009 thực hiện ngày 1/1/2010, Nxb Lao động, năm 2009
6. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006.
7. TS. Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động
xã hội, Hà Nội, năm 2007.





×