Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Trình bày quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm; thực tiễn thi hành qua số liệu, vụ án hình sự cụ thể mà anh, chị thu thập được; từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.26 KB, 11 trang )

ĐỀ 8: Trình bày quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tạm đình
chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm; thực tiễn thi hành qua số
liệu, vụ án hình sự cụ thể mà anh, chị thu thập được; từ đó đưa ra những kiến
nghị, giải pháp.

PHỤ LỤC
PHẦN I : LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Khái quát về tạm đình chỉ vụ án và xét xử sơ thẩm hình sự
1. Tạm đình chỉ vụ án hình sự
2. Xét xử sơ thẩm hình sự
II. Tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1. Căn cứ pháp lý
2. Phân tích Điều 281 BLTTHS:
3. Một số vướng mắc, bất cập
III. Thực tiễn vụ án cụ thể
IV. Thực trạng và nguyên nhân
V. Kiến nghị và giải pháp
PHẦN III: KẾT LUẬN
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


PHẦN 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Bộ Luật Tố Tụng Hình sự 2015 được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực thi hành
thay thế bộ luật tố tụng hình sự 2005, trải qua 5 năm thi hành, bộ luật tố tụng hình
sự 2015 đã phát huy được những tác động tích cực và có hiệu quả trong đấu tranh
phịng chống tội phạm, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã


hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cơng
dân, phục vụ tích cực cơng cuộc đổi mới đất nước…Đặc biệt, trước yêu cầu đổi
mới toàn diện đất nước, trong đó việc đổi mới tổ chức, hoạt động của cơ quan nhà
nước, tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng thì
vai trị của Bộ Luật Tố tụng hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung cần có những đổi mới để phù hợp với sự đổi mới này. Việc tiến hành xét xử
đúng người đúng tội lại càng phải đúng đắn hơn , đặc biệt tạm đình chỉ trong tố tụng
hình sự là một trong những chế định quan trọng được các Cơ quan tiến hành tố tụng
áp dụng tùy theo từng giai đoạn giải quyết vụ án hình sự. Vì sau khi có quyết định
khởi tố thì các hoạt động điều tra sẽ được tiến hành, vì vậy để đảm bảo cho hoạt
động điều tra nhanh chóng, kịp thời , cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều
tra và nghiệp vụ điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải
quyết vụ án một cách khách quan. Vì vậy, e chọn đề tài về tạm đình chỉ vụ án ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm làm đề tài nghiên cứu.

2


PHẦN 2: NỘI DUNG

I. Khái quát về tạm đình chỉ vụ án và xét xử sơ thẩm hình sự
1. Tạm đình chỉ vụ án hình sự
- Khái niệm: Tạm đình chỉ trong tố tụng hình sự là một trong những chế định quan
trọng được các Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng tùy theo từng giai đoạn giải
quyết vụ án hình sự.
−> Tạm đình chỉ vụ án là việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tạm ngừng
hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có những căn
cứ theo luật định.
- Đặc điểm:
• Phải dựa vào những căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của

pháp luật TTHS.
• Phải do người có thẩm quyền tiến hành, ra quyết định theo quy định của
pháp luật TTHS
• Việc tạm đình chỉ vụ án chỉ là tạm thời, không hạn chế về mặt thời gian, khi
lý do tạm đình chỉ khơng cịn nữa thì vụ án phải được phục hồi ( trừ trường
hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác).
• Sau khi vụ án được khởi tố, điều tra mà bị tạm dừng hoạt động tố tụng vì
những lý do luật định thì ở mỗi giai đoạn kết thúc thì phải có văn bản tố tụng
tương ứng.
• Phạm vi hiệu lực: khi người tiến hành tố tụng ra quyết định đình chỉ vụ án
mà lý do tạm đình chỉ khơng có liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì quyết
định này có hiệu lực đối với từng bị can, bị cáo.
2. Xét xử sơ thẩm hình sự
- Khái niệm: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong
đó, tồ án có thẩm quyền (cấp xét xử thứ nhất) thực hiện trên cơ sở kết quả tranh
tụng tại phiên toà xem xét, giải quyết vụ án bằng việc ra bản án quyết định bị cáo
(hoặc các bị cáo) có tội hay khơng có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp, cũng
như các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: được phân định theo sự việc, đối
tượng và lãnh thổ
 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc (Điều 268 BLTTHS)
 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng (Điều 272, 273 BLTTHS)
 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ (Điều 269, 270 BLTTHS)
- Ý nghĩa:
• Góp phần bảo vệ cơng lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, bảo vệ pháp chế.
• Răn đe đối với người phạm tội, giáo dục chung cho toàn xã hội nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật.
• Nâng cao ý thức phòng ngừa, chống tội phạm và thực hiện tốt các VBPL
- Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc của giai đoạn xét xử sơ thẩm:


3


THỜI ĐIỂM
BẮT ĐẦU

THỜI ĐIỂM
KẾT THÚC

NHẬN HSVA,
CT/QĐTT

QĐ ĐƯA VỤ ÁN
RA XÉT XỬ

MỞ PHIÊN
TỊA

RA BẢN ÁN/
QUYẾT ĐỊNH

II. Tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1. Căn cứ pháp lý ( Điều 281 BLTTHS)
"Điều 281. Tạm đình chỉ vụ án
1.Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong
các trường hợp:
a) Có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 của Bộ luật này;
b) Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử;
trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo
trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can, bị cáo được thực hiện theo quy

định tại Điều 231 của Bộ luật này;
c) Chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tịa án kiến nghị.
2. Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ khơng liên
quan đến tất cả bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị
cáo.
3. Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và các nội dung quy
định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này".
2. Phân tích Điều 281 BLTTHS:
- Căn cứ thứ nhất để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án
là khi có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 của BLTTHS.
Theo đó, khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can mắc bệnh hiểm nghèo
hoặc bị bệnh tâm thần (Người mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc các bệnh nguy
hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, phong hủi, nhiễm HIV chuyển sang giai
đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế được coi là bệnh hiểm
nghèo). Đối với trường hợp này, khi nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát chuyển sang
mà phát hiện bị can khơng có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo thì Thẩm phán phải trưng cầu giám định pháp y. Khi có kết quả giám định
pháp y mà phát hiện bị can mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh tâm thần thì Thẩm
phán sẽ ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
 Tuy nhiên, khơng phải mọi trường hợp có kết luận giám định tư pháp xác
định bị can mắc bệnh hiểm nghèo thì Thẩm phán đều phải ra quyết định tạm

4


đình chỉ vụ án. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án trong trường hợp bị
can được xác định mắc bệnh hiểm nghèo và khơng có khả năng gây nguy
hiểm cho xã hội (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 29 BLHS). Điều 285
BLTTHS cũng quy định: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại
Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29

hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tịa án đình chỉ vụ án.”
 Khi trưng cầu giám định, định giá tài sản, yêu cầu nước ngồi tương trợ tư
pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử thì việc giám
định, định giá tài sản vẫn tiếp tục cho đến khi có kết quả. Trong trường hợp
này, Thẩm phán sẽ ra quyết định tạm đình chỉ vụ án nhằm mục đích có thêm
thời gian chờ kết quả giám định, định giá tài sản.
- Căn cứ thứ hai để Thẩm phán chủ tọa phiên tịa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án là
khi không biết rõ bị can đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử, trường hợp
này sẽ áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 9 của Thông tư liên tịch số
13/2012/TTLT/BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 09/10/2012 của Bộ Công an,
Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự về
truy nã: “Khi nhận được văn bản của Tòa án yêu cầu truy nã bị can, bị cáo, Cơ quan
điều tra ra ngay quyết định truy nã và gửi thông báo quyết định truy nã theo đúng
quy định tại Điều 161 BLTTHS và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên tịch này.
 Nếu hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có cơng văn u cầu mà việc truy nã
vẫn chưa có kết quả thì Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã phải thơng báo
cho Tịa án biết để Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt người
bị truy nã theo điểm a khoản 2 Điều 187 BLTTHS”.
 Quyết định tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp này được ban hành sau khi
kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 277
BLTTHS.
- Căn cứ thứ ba để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ban hành quyết định tạm đình chỉ
vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đó là khi chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật
mà Tòa án kiến nghị. Tòa án phát hiện và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem
xét, sửa đổi các quy định của pháp luật trái với Hiến pháp, luật và các văn bản pháp
luật khác. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan thì
cần phải tạm đình chỉ vụ án trong thời gian chờ kết quả trả lời của cấp có thẩm
quyền.

- Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì có thể tạm đình chỉ đối với từng bị can nếu
căn cứ tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can khác. Đối với bị can
không liên quan đến căn cứ tạm đình chỉ thì phải tiếp tục tố tụng đối với bị can đó.
3. Một số vướng mắc, bất cập
- Thứ nhất, đối với căn cứ khi xác định bị can mắc bệnh tâm thần. Ở đây cần xác
định bị can mắc loại bệnh tâm thần nào và mắc bệnh ở giai đoạn nào. Có loại bệnh
tâm thần ln ln làm mất năng lực trách nhiệm hình sự, có loại bệnh tâm thần chỉ
làm mất năng lực trách nhiệm hình sự khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh
hồn tồn khơng làm mất năng lực này.

5


• Nếu như bị can mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức và làm chủ
hành vi khi thực hiện hành vi thì rõ ràng hành vi của bị can khơng đủ yếu tố
thành tội phạm. Vì khơng thỏa mãn yếu tố chủ thể trong cấu thành tội
phạm. Do vậy, khơng phải là căn cứ tạm đình chỉ vụ án.
• Nếu như khi có kết quả giám định tư pháp xác định bị can mắc bệnh tâm
thần làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì Thẩm phán
cũng khơng được ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can đó mà phải
xác định đó là tình tiết giảm nhẹ khi xét xử theo quy định tại điểm q Khoản 1
Điều 51 BLHS “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”.
• Trường hợp khi có kết quả giám định tư pháp xác định khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị can vẫn có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi,
còn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị can được xác định là mắc bệnh tâm
thần làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi thì mới là căn cứ để
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và Chánh án sẽ ra quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại khoản 2 Điều 451
BLTTHS và Khoản 2 Điều 44 BLTTHS.

- Thứ hai, đối với trường hợp khi có kết quả giám định tư pháp xác định bị can mắc
bệnh hiểm nghèo thuộc trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy
định tại điểm b Khoản 2 Điều 29 BLHS và là căn cứ để Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố theo quy định tại Điều 285 BLTTHS thì Thẩm phán khơng ra quyết định tạm
đình chỉ mà phải ra quyết định đình chỉ vụ án.
III. Thực tiễn vụ án cụ thể
Ngày 20/6/2017, anh Trịnh Văn H có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Đào Thị
K (cùng địa chỉ: Số nhà 406 đường B, quận TH, thành phố H). Ngày 26/6/2017, Toà
án nhân dân quận TH, thành phố H thụ lý vụ án, đến ngày 25/12/2017, chị K có đơn
xin tạm đình chỉ vụ án để đi cơng tác xa một thời gian. Cùng ngày, Tồ án nhân dân
quận TH, thành phố H áp dụng điểm h khoản 1 Điều 214 BLTTDS để ra quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hơn nhân gia đình với lý do: Bị đơn có đơn xin tạm
đình chỉ.
Ngày 03/01/2018, VKSND thành phố H nhận được phiếu kiểm sát kèm theo Quyết
định tạm đình chỉ số 16/2017/QĐST-DS do VKSND quận TH, thành phố H chuyển
lên. Ngày 04/01/2018, VKSND thành phố H yêu cầu Tòa án quận TH chuyển hồ sơ
vụ án. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, VKSND thành phố H nhận thấy: Ngày
25/12/2017, chị K có đơn xin tạm đình chỉ vụ án để đi cơng tác xa một thời gian
nhưng trong hồ sơ khơng có bất cứ tài liệu nào chứng minh chị K đi công tác, Tịa
án quận TH đã khơng xem xét đề nghị đó có hợp lý khơng và có căn cứ khơng đã ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết là khơng đúng quy định của pháp luật.
IV. Thực trạng và nguyên nhân
1. Thực trạng:

6


- Công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương
mại, lao động phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị hoặc kiến nghị cịn ít, cịn
có án bị cấp phúc thẩm xử hủy; tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trong lĩnh vực tố

tụng hình cịn ít.
- Thực trạng án hình sự đình chỉ điều tra khơng phạm tội đã gây bức xúc trong dư
luận xã hội, gây ảnh hưởng rất lớn tới người bị oan và gia đình của họ, làm giảm
niềm tin của nhân dân vào công lý; vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời gây
nhiều hệ lụy khác về tổ chức cán bộ; gây hậu quả về thiệt hại vật chất, phải bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự.
- Trong thực tiễn, vì nhiều lý do khác nhau CQĐT xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm không đầy đủ, phối hợp chưa chặt chẽ với VKS để phân loại, xử lý ngay từ
khi có kết quả xác minh thơng tin tội phạm. Việc thu thập dấu vết, tài liệu chứng cứ
và việc lập hồ sơ vụ án hình sự cịn nhiều thiếu sót, vi phạm. Đối với một số vụ án
phức tạp, việc thu thập chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ cịn thiếu khách quan và
tồn diện…
2. Ngun nhân:
- Nguyên nhân khách quan
• Các bộ luật mới như Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS năm 2015 bị lùi hiệu lực
thi hành nhưng những quy định có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng
do đó khơng tránh khỏi những lúng túng, vướng mắc trong áp dụng pháp
luật.
• Tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, các vụ án hình sự xảy ra
với tính chất ngày càng nghiêm trọng, nguy hiểm, tình tiết phức tạp, thủ đoạn
thực hiện tội phạm tinh vi xảo quyệt, nhiều vụ án, đối tượng phạm tội rồi bỏ
trốn ngay sau khi thực hiện tội phạm gây khơng ít khó khăn cho cơng tác
điều tra, xử lý.
• Chất lượng Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa cao, việc tổ chức, hướng dẫn
nghiệp vụ trình độ năng lực của cán bộ trong các cơ quan bổ trợ tư pháp còn
nhiều bất cập.
- Nguyên nhân chủ quan:
• Tinh thần, trách nhiệm, trình độ chun môn, kỹ năng nghề nghiệp và kinh
nghiệm thực tế của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế.
• Một số kiểm sát viên, chuyên viên chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm

của mình khi thực hiện nhiệm vụ.
• Cơ quan điều tra và VKS ở một số địa phương thực hiện chưa tốt việc tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, chưa kiểm tra xác
minh kỹ nguồn tin và thu thập các tài liệu hợp pháp.
• Nhận thức nội dung điều luật, các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật
chưa đầy đủ nên việc vận dụng khơng chính xác, dẫn đến oan, sai hoặc đình
chỉ điều tra do hành vi khơng cấu thành tội phạm.
• Một bộ phận Kiểm sát viên, Lãnh đạo chưa nhận thức đúng về trách nhiệm
trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án.

7


• Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo một số đơn vị chưa sâu
sát, chưa thường xuyên kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của cấp dưới, cịn tình
trạng bng lỏng quản lý cơng tác kiểm sát các vụ án tạm đình chỉ điều tra.
• Trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương cịn
nhiều thiếu sót trong chỉ đạo, kiểm tra cấp dưới…
V. Kiến nghị và giải pháp
1. Kiến nghị sửa đổi Điều 281 BLTTHS như sau:
“Thẩm phán chủ tọa phiên tịa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong
các trường hợp:
a) Khi có căn cứ xác định bị can bị mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức
thức và làm chủ hành vi sau thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội;
b) Có căn cứ xác định bị can, bị cáo mắc bệnh hiểm nghèo trừ trường hợp được
miễn trách nhiệm trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b Điều 29 Bộ luật
Hình sự và Viện kiểm sát rút quyết định truy tố theo quy định tại Điều 285
BLTTHS.
c) Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử;
trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo

trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can, bị cáo được thực hiện theo quy
định tại Điều 231 của Bộ luật này;
d) Chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến nghị.”
2. Giải pháp:
- Thứ nhất, phải xác định được tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng cơng tác quản

lý, giải quyết án tạm đình chỉ.
• Thực hiện, đầy đủ, đúng quy định các nhiệm vụ trọng tâm trong việc quản lý,
giải quyết án tạm đình chỉ tại Chỉ thị số 06/CT-VKSTC của Viện trưởng
VKSND tối cao, nhất là trong việc lập hồ sơ, theo dõi, quản lý hồ sơ án tạm
đình chỉ.
• Các trường hợp tạm đình chỉ tại Cơ quan điều tra, Tịa án đều được kiểm sát
chặt chẽ, đảm bảo có căn cứ theo đúng quy định của BLTTHS. Các vụ án
tạm đình chỉ sớm được phục hồi điều tra theo đúng quy định, hạn chế các
trường hợp phải đình chỉ vụ án do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
mà chưa xác định được bị can.
• Hồ sơ án tạm đình chỉ được quản lý chặt chẽ, khơng bị thất lạc, hư hỏng,
phục vụ tốt cho việc phục hồi và giải quyết vụ án theo đúng Quy định về việc
quản lý hồ sơ vụ án tạm đình chỉ của VKSND.
• Phối hợp tốt với Cơ quan điều tra, Tịa án rà sốt, đối chiếu số lượng án tạm
đình chỉ định kỳ, giải quyết số lượng án tạm đình chỉ. Chế độ báo cáo, thống
kê thực hiện đúng quy định, chính xác, chặt chẽ nội dung phục vụ tốt cho
cơng tác quản lý chỉ đạo, điều hành.
- Thứ hai, nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các đơn
vị. Lãnh đạo các đơn vị phải tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm, có hiệu
quả các nhiệm vụ trọng tâm.

8



- Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp với Cơ quan điều tra trong quản lý, giải
quyết án tạm đình chỉ. Các đơn vị tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra trong
việc đôn đốc, triển khai thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện người phạm
tội, truy bắt bị can bỏ trốn để phục hồi điều tra nhằm giảm dần số lượng án tạm đình
chỉ. Đồng thời định kỳ rà soát, đối chiếu số liệu với Cơ quan điều tra, Tòa án để
đảm bảo thống nhất, chính xác về mặt số liệu, đưa ra khỏi danh sách quản lý các vụ
án tạm đình chỉ đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự và tiến hành các thủ
tục đình chỉ vụ án theo đúng quy định của BLTTHS.
- Thứ tư, nâng cao chất lượng xây dựng, quản lý hồ sơ tạm đình chỉ. Các đơn vị
phải triển khai các nhiệm vụ cụ thể về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm .
- Đồng thời, tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm các quy định về việc quản lý hồ sơ
vụ án tạm đình chỉ ,đảm bảo việc quản lý hồ sơ vụ án tạm đình chỉ phải tập trung,
thống nhất, khoa học, đầy đủ, chặt chẽ, kịp thời, không bị hư hỏng, thất lạc, thuận
lợi cho công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự.
- Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác thống kê, chế độ thơng tin, báo cáo về án
tạm đình chỉ. Đồng thời, chủ động tổng hợp, báo cáo các khó khăn, vướng mắc
trong quản lý, giải quyết án tạm đình chỉ về VKSND tỉnh để được hướng dẫn, giải
đáp kịp thời.
- Thứ sáu, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của công chức, Kiểm sát viên trong
công tác kiểm sát, quản lý, giải quyết án tạm đình chỉ.

9


PHẦN 3. KẾT LUẬN
Việt Nam đã và đang thực hiện nhất quán chủ trương chủ động hội nhập quốc tế,
tham gia nhiều tổ chức quốc tế, ký kết và gia nhập nhiều điều ước quốc tế, nhất là
trong lĩnh vực đấu tranh phịng, chống tội phạm. Vì vậy, việc xây dựng BLTTHS

phải thực sự khoa học, tiến bộ, có tính khả thi cao; là công cụ pháp lý sắc bén để
đấu tranh hữu hiệu với mọi loại tội phạm, tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong thực
tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định; góp phần quan trọng
thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam XHCN”. Vấn đề tạm đình chỉ vụ án mặc dù là một nội dung nhỏ
được quy định trong BLTTHS nhưng nó có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị, xã
hội và thực tiễn, góp phần đáp ứng các yêu cầu đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp
Việt Nam nói chung và ngành Luật Tố tụng Hình sự nói riêng. Bên cạnh những tích
cực thì vẫn cịn nhiều thực trạng đáng lo ngại về vấn đề tội phạm nói chung và tạm
đình chỉ vụ án nói riêng mặc dù tình hình chung về tội phạm trên địa bàn có chiều
hướng giảm, nhưng một số loại tội phạm nghiêm trọng lại gia tăng và diễn biến rất
phức tạp. Vì vậy, cần thực hiện tốt các biện pháp khắc phục hậu quả và phát huy
điểm mạnh để góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy
kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột pháp để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, chống oan,
sai, bỏ lọt tội phạm là nhiệm vụ xuyên suốt trong xét xử để xác định đúng người
đúng tội tránh gây ra những vụ án sai, để lại những hậu quả khơng đáng có. Cải
cách mạnh mẽ hệ thống pháp luật Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm
chấp hành pháp luật của công dân, phịng chống tội phạm và thể chế hóa đầy đủ chủ
trương, quan điểm về cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn đất nước.

IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật tố tụng Hình sự (2018), Nhà xuất bản Cơng an nhân dân,
HN.
2. Giáo trình Luật tổ chức Tịa án nhân dân (2018), Nxb Chính Trị quốc gia sự
thật, HN.
3. Bộ luật Tố tụng Hình sự (2018), Nxb Chính trị quốc gia sự thật, HN.


10


4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Hà Nội.
5. Trần Văn Biên - chủ biên (2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

11



×