Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bị hại và hoàn thiện quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.19 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam đang có sự mất cân đối giữa
địa vị pháp lí của người bị hại với sự quan tâm ghi nhận và bảo vệ quyền của người
bị hại. Trong BLTTHS năm 2003 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại
vẫn có vị trí khá mờ nhạt và áp dụng vào thực tiễn thì đang tồn tại nhiều bất cập,
hạn chế, vướng mắc. Vị trí, vai trò của người bị hại chưa được xem là một mắt xích
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Và người bị hại cũng chưa hiểu rõ và ý
thức được quyền lợi của mình trong tố tụng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em
xin chọn đề bài số 02: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền
và nghĩa vụ của người bị hại và hoàn thiện quy định này”

NỘI DUNG
I.
1.

Quyền và nghĩa vụ của người bị hại theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003
Khái niệm người bị hại

Theo Khoản 1 Điều 51 BLTTHS năm 2003: “Người bị hại là người bị thiệt hại
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.”
Luật tố tụng hình sự nước ta chỉ quy định người bị hại là công dân, không coi cơ
quan tổ chức là người bị hại. Người bị hại là con người cụ thể bị hành vi phạm tội
trực tiếp xâm hại, trong đó đối tượng bị xâm hại là thể chất, tinh thần, tài sản của
họ. Thiệt hại về thể chất là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; thiệt hại về tinh thần là
thiệt hại về danh dự, nhân phẩm; thiệt hại về tài sản là tài sản bị mất, bị chiếm đoạt,
bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng.Thiệt hại của người bị hại phải là thiệt hại thực tế,
nếu thể chất, tinh thần, tài sản của một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra thì người đó không được coi là người bị hại. Người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự


1


khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi
triệu tập họ đến khai báo với tư cách người bị hại. Trong trường hợp hành vi phạm
tội không bị phát hiện và xử lí hoặc trường hợp không xác định được người bị thiệt
hại mặc dù trên thực tế có người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành
vi phạm tội gây ra thì người đó cũng không phải là người bị hại trong vụ án hình
sự.
Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có
những quyền của người bị hại. Nếu người bị hại đã chết có nhiều người đại diện
hợp pháp có quyền lợi đối lập nhau thì Tòa án phải triệu tập tất cả những người đó
để nghe họ trình bày ý kiến. Người bị hại chưa thành niên hoặc là người có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ sẽ cùng tham
gia tố tụng.
2. Quyền của người bị hại
2.1.
Đưa ra tài liệu, đồ vật,

yêu cầu (Điểm a Khoản 2 Điều 51 BTLTTHS )

Thứ nhất, người bị hại có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật: Người bị hại có thể là
người chứng kiến hành vi phạm tội, biết các tình tiết liên quan đến vụ án, nhờ vào
các tài liệu, đồ vật đó để chứng minh tội phạm đã gây thiệt hại cho mình. Ví dụ:
Hợp đồng, giấy tờ, giấy chứng nhận mức độ thương tật...
Thứ hai, người bị hại có quyền yêu cầu: người bị hại có quyền yêu cầu trong các
giai đoạn tố tụng. Ví dụ: quyền yêu cầu khởi tố vụ án và rút đơn yêu cầu khởi tố vụ
án trong một số trường hợp, quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại...
Quy định này đảm bảo luật hóa quy định tại Điều 122 BLTTHH: “Khi người
tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ
và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ
quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do”. Đồng thời đảm bảo

2


tính xác thực của vụ án (Điều 10 BLTTHS ) và đảm bảo bình đẳng trước Tòa
án(Điều 19 BLTTHS).
2.2.

Được thông báo về kết quả điều tra (Điểm b Khoản 2 Điều 51 BLTTHS)

Người bị hại được thông báo kết quả điều tra để họ biết những vấn đề thuộc nội
dung vụ án,quy định này vừa đảm bảo tình minh bạch của cơ quan điều tra ,vừa tạo
đièuu kiện cho người bị hại chuẩn bị thêm những chứng cứ cần thiết,yêu cầu để
buộc tội bị can(bị cáo) hay để chứng minh thiệt hại bị can(bị cáo) đã gây thiệt hại.
2.3.

Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này (Điểm c Khoản 2 Điều 51 BLTTHS)

Quy định này phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 43 về người có quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng có người bị hại. Và Điều 60, 61 đã quy định
về trường hợp người giám định , người phiên dịch bị thay đổi. Khi có căn cứ cho
rằng người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch không vô tư trong
giải quyết trong giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền thay đổi họ. Quyền này
của người bị hại đảm bảo cho nguyên tắc tại Điều 14 quy định về Bảo đảm vô tư
của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
2.4.


Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường(Điểm d
Khoản 2 Điều 51 BLTTHS)

Theo quy định thì người bị hại có quyền yêu cầu mức bồi thường, và các biện
pháp bảo đảm bồi thường như kê biên tài sản, phong tỏa tài sản,tạm giữ tài sản....
Mức bồi thường này sẽ được Tòa án xem xét và đưa ra mức bồi thường thích đáng
cho người bị hại. Người bị hại và người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
cho nên quy định cho họ quyền này để đảm bảo thực hiện được nguyện vọng và bù
đắp lại những thiệt hại mà bị cáo gây ra.

3


2.5.

Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình(Điểm đ Khoản 2 Điều 51 BLTTHS)

Quy định này đảm bảo theo Điều 19 bảo đảm bình đẳng trước phiên tòa. Tại
phiên tòa người bị hại có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật , trình bày ý kiến,
tranh luận để buộc tội bị cáo hoặc chứng minh mức độ thiệt hại và yêu cầu bồi
thường. Người bị hại tham gia phiên tòa còn có vai trò như người giám sát phiên
tòa, nếu chưa đồng ý với bản án của tòa án thì có thể tiến hành kháng cáo. Trong
nhiều trường hợp, sự vắng mặt của người bị hại tại phiên tòa mà gây trở ngại thì
Hội đồng xét xử phải quyết định hoãn phiên tòa (Khoản 1 Điều 191).
2.6.

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi

thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo (Điểm e Khoản 2 Điều
51BLTTHS)

Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Người có quyền khiếu nại quy định tại 325: “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có quyền khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ rằng quyết định,hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Như vậy, trong quá trình tố tụng nếu
người bị hại phát hiện thấy quyết định hoặc hahf vi của cơ quan, người có thẩm
quyền có những điểm bất hợp lí thì họ có quyền khiếu nại quyết định, hành vi đó
theo thủ tục theo quy định của BLTTHS.
Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như
về hình phạt đối với bị cáo. Khi giải quyết vụ án hình sự, quan hệ pháp luật là quan
hệ nhà nước với bị cáo, người bị hại , còn quan hệ giữa bị cáo với người bị hại chỉ
là quan hệ dân sự trong việc bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Những bồi
thường của bị cáo chỉ bồi thường được một phần về tài sản, trong khi người bị hại

4


có thể bị thiệt hại về thể chất và tinh thần không thể bù đắp hết được. Cho nên để
đảm bảo quyền lợi cho người bị hại thì họ có quyền kháng cáo về hình phạt đối với
bị cáo.
2.7.

Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa của người bị hại hoặc của người đại
diện hợp pháp của họ trong trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của
người bị hại và rút yêu cầu khởi tố vụ án quy định tại Điều 105 BLTTHS

Theo quy định tại Điều 105 quy định :

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104,
105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được
khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của
người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục
tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường
hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Trong những trường hợp tội phạm như quy định trên thì người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp là những người duy nhất có quyền khởi tố vụ án hình sự. Và chỉ
người yêu cầu khởi tố vụ án là người có quyền rút yêu cầu khởi tố.Khoản 3 Điều 51
BLTTHS: “ Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại điện hợp

5


pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” Do các tội quy định trong Điều
105 là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự; quyền tự do,
dân chủ của công dân; trật tự quản lí kinh tế ở mức độ nhẹ nhất, cho nên pháp luật
tôn trọng, thể hiện sự quan tâm tới người bị hại nên cho họ được phép buộc tội bị
cáo tại phiên tòa.
2.8.

Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ

quyền lợi của mình

Khoản 1 Điều 59 BLTTHS: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào
chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”. Theo quy định này, ngoài việc tự bảo vệ
quyền và lợi ích của mình thì người bị hai có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân
dân hoặc người khác có quyền bào chữa hỗ trợ, bảo vệ quyên lợi cho mình.
2.9.

Quyền đối với kết quả giám định

Khoản 1 Điều 158 BLTTHS: “ Bị can, những người tham gia tố tụng khác được
trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung
hoặc giám định lại”. Kết luận giám định là một trong những chứng cứ quan trọng
giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác minh sự thật khách quan của vụ án. Nếu
giám định không chính xác có thể dẫn đến đánh giá sai về tội phạm, ảnh hưởng đến
quyền lợi của người bị hại. Quyền này cũng tương ứng như quyền cung cấp đồ vật,
tài liệu của người bị hại vì đây đều là cung cấp chứng cứ cho vụ án để xác định
đúng người, đúng tội.

3. Nghĩa
3.1.


vụ của người bị hại
mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

(Khoản 4 Điều 51 BLTTHS)


6


Người bị hại cần có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Người bị hại sẽ khai báo tình tiết của vụ án, đưa ra
những tình tiết quan trọng, cung cấp nguồn chứng cứ, chứng cứ. Nhiều trường hợp,
khi không có sự hợp tác của người bị hại thì việc giải quyết vụ án sẽ gặp rất nhiều
khó khăn. Trong phiên tòa, người bị hại vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ tham gia
theo yêu cầu của Tòa án . Sự vắng mặt của người bị hại có thể khiến phiên tòa
không thể diễn ra và Hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên tòa (Khoản 1
Điều 191).
3.2.

Nghĩa vụ khai báo

Khoản 4 Điều 51: “... nếu từ chối khai báo mà không có lí do chính đáng thì có
thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS”. Người bị hại là người
hiểu và biết nhiều về hành vi phạm tội nên lời khai của họ là vô cùng có ích cho cơ
quan điều tra. Người bị hại có thể khai báo, cung cấp thông tin liên quan đến vụ án
ở bất kì thời điểm nào trong quá trình tố tụng và phải chịu trách nhiệm về lời khai
của mình. Nếu từ chối khai báo mà không có lí do chính đáng thì phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo Điều 308 BLHS có thể bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
II.
1.

Một số kiến nghị để hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của
người bị hại
Khái niệm người bị hại


Khái niệm người bị hại của Việt Nam có phần không thống nhất với nhiều nước
trên thế giới. Đa số BLTTHS quy định người bị hại phải là con người cụ thể bị tội
phạm gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, vật chất hoặc thiệt hại khác. Một số
BLTTHS khác lại xác định người bị hại là thể nhân hoặc pháp nhân và các cơ quan
nhà nước và tổ chức xã hội khác không có tư cách pháp nhân bị tội phạm trực tiếp
xâm hại hoặc đe dọa.

7


Theo quy định tài điều 51 BLTTHS, người bị hại chỉ là thể nhân, con người
cụ thể; còn cơ quan, tổ chức nếu bị tội phạm gây thiệt hại thì chỉ là thiệt hại về vật
chất, tài sản vì thế họ tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự (Điều 52
BLTTHS). Có nhiều quan điểm cho rằng quy định này chưa hợp lí, nếu một người
bị thiệt hại do tội phạm gây ra có quyền kháng cáo về hình phạt, còn cơ quan, tổ
chức thì lại không có quyền này vì không phải người bị hại. Cho nên đồng nhất hai
khái niệm người bị hại và nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác rằng,
việc đồng nhất hai khái niệm dẫn đến lẫn lộn giữa người bị hại và nguyên đơn dân
sự. Hai khái niệm này có phần giống nhau nhưng không thể đồng nhất. Một mặt
người bị tội phạm xâm phạm là một con người cụ thể, đó là người bị hại. Mặt khác
nguyên đơn dân sự là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, có thể là con người
hoặc cơ quan, tổ chức có yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đề xuất:
Sửa đổi điều luật định nghĩa khái niệm người bị hại thành: “Người bị hại là cá
nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan tổ chức bị thiệt hại về
tài sản, uy tín do tội phạm gây ra”
Khái niệm này bao gồm:
-

Chủ thể: cá nhân, cơ quan, tổ chức

Thiệt hại: cá nhân thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản; cơ quan, tổ chức
thiệt hại về tài sản, uy tín.
Quy định này cơ bản sẽ khắc phục được những thiếu sót trong quy định cơ

quan, tổ chức bị tội phạm xâm hại. Cơ quan, tổ chức sẽ tham gia tố tụng với tư cách
người bị hại trong những trường hợp mà BLTTHS điều chỉnh chưa hợp lí.
Ví dụ: Khi cơ quan, tổ chức thuộc sở hữu nhà nước bị thiệt hại tài sản mà
không có đơn yêu cầu thì vẫn sẽ được tham gia tố tụng với tư cách người bị hại, tài
sản của nhà nước sẽ được đảm bảo. Khi cơ quan, tổ chức bị tội phạm xâm hại trực

8


tiếp về tài sản sẽ tham gia tố tụng với tư cách người bị hại, và có thể phân biệt với
khi bị tội phạm xâm hại gián tiếp tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự.
2.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại

BLTTHS năm 2003 chỉ quy định về người đại diện hợp pháp của người bị hại
chết tại Khoản 5 Điều 51 BLTTHS.
Trường hợp xác định người đại diện hợp pháp cho người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng với tư cách người bị hại
thì chưa có quy định về người đại diện hợp pháp cho họ dù bản thân họ không thể
đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại được. Tuy nhiên ở điều 59
quy định người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì người bảo vệ quyền lợi của
đương sự là người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm tâm thần, thể chất
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ cũng có các gần như quyền, nghĩa vụ
giống quy định của người bị hại.Đối với trường hợp người bị hại mất tích thì vấn
đề người đại diện hợp pháp của họ sẽ giải quyết như thế nào? Ai sẽ là người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng chưa được BLTTHS quy định.
Trường hợp, người bị hại đã chết nhưng không xác định được ai là người đại
diện hợp pháp hoặc họ không có người đại diện hợp pháp thì pháp luật chưa quy
định, khi đó thì người thân khác của người bị hại có thể được tham gia tố tụng với
một tư cách nào, nếu họ tham gia với tư cách người bảo vệ quyền lợi của đương sự
thì có đảm bảo quyền lợi cho người bị hại? Khi người đại diện hợp pháp của người
bị hại có quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn nhau thì giải quyết như thế nào?
Đề xuất:
-

Bổ sung vào điều 51 về người đại diện hợp pháp đối với trường hợp người bị
hại là người chưa thành niên và người có nhược điểm về thể chất, tinh thần,
người mất tích

9


-

Thêm điều luật xác định ai là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại đã

-

chết khi không xác định hoặc không có người đại diện hợp pháp
Đưa ra văn bản hướng dẫn có quy định người đại diện hợp pháp của người bị
hại có quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn để đảm bảo cho quyền lượi của người bị

hại và quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Quy định quyền của người bị hại
3.1.

Quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị hại
Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều người bị hại tham gia tố tụng nhưng lại không
hiểu hết được quyền và nghĩa vụ của mình, nên có nhiều trường hợp họ không biết
mình có những quyền lợi đó dấn đến quyền lợi của họ không được bảo đảm. Đồng
thời, vì không biết về quy định này nên họ cũng không thể thực hiện đúng nghĩa vụ
của mình. Việc người bị hại không thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ vừa ảnh
hưởng đến chính bản thân người bị hại, vừa gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố
tụng.
Đề xuất: cần bổ sung thêm quy định cơ quan tiến hành tố tụng cần thông báo,
giải thích cho người bị hại biết về quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự.
3.2.

Kháng cáo bản án

Theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 51 BLTTHS thì người bị hại có quyền
kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về phần
hình phạt đối với bị cáo. Tức là quy định này chỉ cho phép người bị hại kháng cáo
trọng phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, còn các phần lien quan đến định
tội danh, khung hình phạt của bản án thì dù không đồng ý với quyết định của Tòa
án thì họ cũng không có quyền kháng cáo. Trong khi đó Điều 231 quy định “Bị
cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết
định sơ thẩm.”,tức là người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết
định sơ thẩm . Như vậy hai điều luật này có phần mâu thuẫn nhau ở giới hạn kháng

10


cáo, và điều này cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn thực hiện nên có thể khiến
cách giải quyết của các Tòa án là khác nhau nhưng vẫn đúng luật.
Đề xuất: Để đảm bảo quyền lợi cho người bị hại và tính thống nhất giữa hai điều

luật, theo em nên thay đổi quy định này tại Điều 51 theo hướng cho phép người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bán án và
quyết định sơ thẩm.
3.3.

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại

Khoản 3 Điều 51 BLTTHS quy định trong trường hợp vụ án được khởi tố theo
yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 vẫn còn tồn tại một số bất cấp. Đây
là chế định thể hiện sự tôn trọng và cảm thông trước mất mát, thiệt hại của người bị
hại và gia đình họ. Quy định này đưa ra và thực hiện trên cơ sở Nhà nước quan tâm
đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Tuy nhiên, trên thực tiễn
dù có hành vi phạm tội và gây thiệt hại cho người bị hại nhưng người bị hại không
muốn đưa ra xử lí vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, và cũng
có trường hợp người bị hại bị tội phạm uy hiếp khiến họ không dám tố cáo tội
phạm, hoặc người bị hại và người phạm tội có quan hệ đặc biệt, như thế dẫn đến
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị hại.
Hơn thế, đây là trường hợp khởi tố đặc biệt mà áp dụng theo các quy định tố
tụng thông thường liệu đã hợp lí hay chưa ?Theo quy định này người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Thế
nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn về lời buộc tội của người bị hại hoặc đại diện
hợp pháp của họ. Rất nhiều thắc mắc được đặt ra: Lời buộc tội của người bị hại có
giá trị như thế nào? Nếu người bị hại đã trình bày lời buộc tội tại phiên tòa thì kiểm
sat viên có cần trình bày lại lời buộc tội hay không? Trong trường hợp người bị hại
hoặc đại diện hợp pháp của họ yêu cầu khởi tố vụ án thì họ có bắt buộc phải có mặt
tại phiên tòa không? Thực tiễn xét xử cho thấy, trong trường hợp này người bị hại

11



không có quyền lợi gì khác biệt so với các trường hợp khác, mọi hoạt động đều do
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.
Đề xuất
-

Nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi mà cơ quan có thẩm quyền chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại đối với các tội xâm phạm sở
hữu, xâm phạm danh sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm đối với các

-

tội ít nghiêm trọng.
Đưa ra các văn bản hướng dẫn chi tiết thủ tục tố tụng trong trường hợp người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu khởi tố vụ án theo hướng
sau: Hướng người bị hại mới là người có quyền đưa ai ra xét xử. Người bị
hại được quyền thu tập tài liệu, đồ vật, các tình tiết liên quan đến vụ án để
phục vụ cho việc buộc tội bị cáoViện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa với
chức năng kiểm sát chứ không còn chức năng công tố nữa. Người bị hại sẽ
đưa ra lời buộc tội bị cáo, người bị hại là người là người bắt buộc phải có

mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
3.4.
Sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa
Hiện nay, BLTTHS đang đồng nhất sự có mặt nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, những người có quyền nghĩa vụ liên quan đến vụ án với người bị hại trong
trường hợp họ vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy sự có mặt của người bị hại không
chỉ liên quan đến thủ tục bồi thường thiệt hại dân sự mà còn có mục đích khác liên
quan đến các quyền của người bị hại, nhiều trường hợp sự có mặt ảnh hưởng lớn
đến vụ án nhưng vì lí do nào đó nên không thể tham gia phiên tòa, không thể bảo
vệ quyền lợi của mình. Cho nên, không nên đồng nhất sự có mặt của người bị hại

với những người khác.
Đề xuất: nên sửa quy định tại Điều 191 theo hướng:trường hợp tại phiên tòa
người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn

12


phiên tòa, trừ trường hợp những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án xét xử
vắng mặt họ.
4.

Nghĩa vụ khai báo

Thực tế đã không ít vụ án hình sự người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ bị người khác khống chế, đe dọa, mua chuộc, lừa dối, dùng các thủ đoạn
khác... để làm cho người bị hại không thể thực hiện yêu cầu khai báo. Theo Khoản
4 Điều 51 BLTHHS trường hợp từ chối khai báo không có lí do chính đáng thì phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS năm 1999. Dẫn đến có thể họ sẽ vừa
là người bị hại, vừa có thể trở thành tội phạm. Trong khi đó trường hợp gọi là “
không có lí do chính đáng” lại chưa có văn bản nào hướng dẫn như thế nào là
trường hợp có lí do chính đáng và không có lí do chính đáng nên cũng chưa áp
dụng vào thực tế để người phạm tội phải chịu TNHS theo Điều 308 BLHS.
Đề xuất:
-

Đối với trường hợp người bị hại vắng mặt do trường hợp bất khả kháng hoặc
do trở ngại khách quan thì đây được coi là trường hợp vắng mặt có lí do
chính đáng. Còn không vì lí do đó thì coi là không có lí do chính đáng.Biện
pháp xử lí có thể áp dụng biện pháp dẫn giải như đối với người làm chứng
(Điều 134 BLTTHS) thay vì áp dụng quy định Điều 308 của BLHS ngay, chỉ

áp dụng quy định của BLHS khi sự vắng mặt của người bị hại có đủ yếu tố

-

cấu thành tội phạm như BLHS quy định.
Cũng giống như người làm chứng (Điều 55),người bị hại cũng cần được cơ
quan tiến hành tố tụng bảo vệ. Cần bổ sung thêm quyền được cơ quan tiến
hành tố tụng bảo vệ khi người bị hại yêu cầu và khi cơ quan tiến hành tố
tụng xét thấy người bị hại bị đe dọa.

KẾT LUẬN

13


Người bị hại là người đã bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản cần được
pháp luật hình sự bảo vệ hơn ai hết. Quy định của BLTTHS năm 2003 quy định về
quyền và nghĩa vụ của người bị hại đã đem lại nhiều quyền lợi cho người bị hại,
nhưng quy định vẫn đang còn những hạn chế về kĩ thuật lập pháp và nhiều vấn đề
chưa đáp ứng được với thực tiễn. BLTTHS năm 2015 sắp có hiệu lực đã khắc phục
được các lỗi của BLTTHS năm 2003, đưa vị thế của người bị hại trong tố tụng hình
sự lên cao hơn, giúp quyền lợi của người bị hại thực sự được bảo vệ, bù đắp cho
người bị hại phần nào thiệt hại do tội phạm gây ra cho họ.

14



×