Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

NHỮNG QUUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TÓ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.68 KB, 18 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Xuất phát từ việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại nói riêng
và quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung, thể hiện sự thông
cảm với những mất mát của người bị hại, hướng tới giải quyết nhanh chóng các vụ
án hình sự, xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quy
định về địa vị pháp lí của người bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự dược quy định
khá cụ thể. Tuy nhiên, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc quy định của địa vị pháp lí
của người bị hại nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại.

II.

NỘI DUNG

1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1 Khái niệm địa vị pháp lí của người bị hại trong pháp luật tố tụng
hình sự
Dưới góc độ ngôn ngữ, có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong xã
hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kì sự tác động nào khác
hẳn dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho họ. Sự tác động đó trái ý
muốn của người bị hại và họ tiếp nhận môt cách thụ động. Thiệt hại gây ra cho
người bị hại có thể là thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất và không cần
phải giới hạn mức độ thiệt hại.
Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lí: người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất
tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị
người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản chứ không thể là


pháp nhân( 2, tr.198).
Dưới góc độ luật thực định: Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy
định; người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra.
Vậy qua những phân tích trên có thể rút ra các đặc điểm của người bị hại:
- Về chủ thể, phải là một con người cụ thể chứ không thể là một pháp nhân
hay tổ chức xã hội
1


- Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần tài sản,
phải là thiệt hại xảy ra trên thực tế.
- Thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra của người bị hại.
- Người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khi
được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.,
Từ đó ta có thể rút ra khái niệm người bị hại là: người bị thiệt hại về thể chất
tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội của tội phạm trực tiếp xâm hại.
Về địa vị pháp lí của chủ thể, theo từ điển luật học: “địa vị pháp lí của chủ
thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ
thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể trong các hoạt
động của mình.
Thông qua địa vị pháp lí có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể
pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể
pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật”.(3 tr.124).
Từ đó có thể định nghĩa: địa vị pháp lí của người bị hại trong tố tụng hình sự
là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ trong quá trình
giải quyết vụ án.

1.2 Cơ sở quy định về địa vị pháp lí của người bị hại trong pháp luật

tố tụng hình sự
1.2.1 Cơ sở lí luận
Điều 71 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa
đổi bổ sung năm 2001 quy định: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tình mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Vì
vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại rất quan trọng. Pháp luật tố
tụng hình sự trong đó có quy định về địa vị pháp lí của người bị hại là một trông
những công cụ pháp lí quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại.
Ngoài ra xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự “ bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Tố tụng Hình sự”( Điều 3 Bộ luật Tố tụng
hình sự), “tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân”( Điều 4), “bảo hộ tính

2


mang sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của công dân”( Điều 7).. quy định địa
vị pháp lí của người bị hại cũng là sự cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản cuẩ người bị hại. Vì vậy nhà nước cần có các biện pháp bảo vệ
người bị hại, khôi phục tình trạng ban đầu, khắc phục thiệt hại gây ra với họ. Đồng
thời, quy định về địa vị pháp lí của người bị hại xuất phát từ chính quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại. Thực tế, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại
chưa được bảo vệ tốt và kịp thời, trong quá trình giải quyết vụ án dường như cơ
quan thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên của quá trình tố tụng để có
những quan tâm cần thiết.

1.3 Địa vị pháp lí của người bị hại trong quy định của pháp luật tố
tụng hình sự một số nước trên thế giới
Khoản 1 Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định: “người bị

hại là thể nhân, bị thiệt hại về thể chất, tài sản, tinh thần do tội phạm gây ra, cũng
như pháp nhân trong trường hợp bị thiệt hại về tài sản vè uy tín do tội phạm gây
ra” (15 tr43).
Điều 53 Luật Tố tụng hình sự năm 1980 cuả Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
quy định: “nếu hành vi phạm tội của bị can gây thiệt hại về vật chất thì trong quá
trình tham gia tố tụng hình sự, người bị hại có quyền kiện đơn dân sự”.
Luật Tố tụng hình sự của Cộng hoà Pháp quy định về địa vị pháp lí cuả người
bị hại hạn chế hơn của nguyên đơn dân sự: “người bị hại do một hành vi phạm tội
gây ra dù là trọng tội, khinh tội hay là tội vi cảnh đều có quyền kiện về dân sự để
bồi thường thiệt hại”.
Nhìn chung quy định về địa vị pháp lí của người bị hại của các nước có sự
khác nhau nhưng khá thống nhất với nhau.

2.NHỮNG QUUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TÓ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2003 VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
Quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 51
Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

2.1 Quyền của người bị hại
3


2.1.1 Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Những tài liệu, đồ vật này có liên quan chặt chẽ đến vụ án, đến việc giải quyết
vụ án. Người bị hại trong nhiều trường hợp là người chứng kiến vụ việc xảy ra,
biết các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội nên những đồ vật, tài liệu họ đưa
ra thường chính xác, có ích cho việc giải quyết. Đồng thời đồ vật, tài liệu đó cũng
là để chứng minh cho hành vi phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà họ gánh

chịu do hành vi phạm tội gây ra.
Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau
như: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho
rằng kết quả giám định trước không đúng sự thật, yêu cầu khởi tố vụ án trong một
số trường hợp, rút đơn yêu cầu khởi tố.. Người bị hại xác định tính hợp lí và quan
trọng vì mục đích trừng trị người phạm tội, góp phần giải quyết nhanh chóng chính
xác vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình để đưa ra các tài liệu, đồ
vật, yêu cầu. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đó của người bị hại.
Sự đảm bảo này được Luật hóa tại Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2003: “khi
người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề có liên quan đến vụ án thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu
cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận thì cơ
quan Điều tra phải trả lời và nêu rõ lí do”. Sở dĩ quy định như vậy nhằm bảo đảm
nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự, góp phần nhanh chóng
giải quyết vụ án, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại, thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.1.2 Được thông báo về kết quả điều tra
Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ được thông báo về kết quả điều
tra vụ án để họ biết được những vấn đề thuộc nội dung vụ án. “Trên sơ sở đó để
người bị hại chuẩn bị chứng cứ, lí lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc để
chứng minh những thiệt hại mà bị can gây ra cho mình”. Biết được kết quả là một
trong những điều kiện để người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ chuẩn bị tốt
4


chứng cứ, lí lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc để chứng minh những thiệt hại
mà bị can gây ra cho mình. Đảm bảo quyền này được thực hiện nghiêm minh
chính là cơ sở cho người bị hại và đại diện hợp pháp của họ thực hiện những quyền
cơ bản khác được pháp luật quy định.

Việc thông báo kết quả điều tra cho người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của
họ được thực hiện bằng hình thức văn bản. Để đảm bảo quyền này, cơ quan tiến
hành tố tụng có nhiệm vụ thông báo kết quả điều tra cho người bị hại và dại diện
hợp pháp của họ. Quyền của người bị đồng thời là trách nhiệm cuả cơ quan tiến
hành tố tụng.
2.1.3 Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng 2003
Người bị hại có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng trong các
trường hợp theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật tố tụng 2003:
Thứ nhất, những người này đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự; người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp
pháp, người thân thích của những người đó hoặc bị can, bị cáo.
Thứ hai, những người này đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án.
Thứ ba, có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ. Khi nhận thấy người tiến hành tố tụng thuộc một trong các trường
hợp trên, người bị hại có quyền yêu cầu thay đổi họ. Quyền này được ghi nhận
trong khoản 2 Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về những người có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng: “ bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ”.
Việc thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch còn
được luật hóa trong Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về sự bảo đảm vô tư
của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng “Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, Chánh án, phó chánh án tóa án, Hội thẩm, Thư kí tòa không được tiến hành
tố tụng hoặc người phiên dịch không được tham gia tố tụng, nếu có lí do xác đáng
để cho rằng họ không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình”
5



II.1.4 Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
Người bị hại có quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại. Pháp luật quy định
vậy do có các nguyên nhân: người bị hại là người thiệt hại về thể chất, tinh thần do
người phạm tội trực tiếp gây ra. Họ quan tâm đến quyền lợi của họ như thế nào, họ
có quyền đề nghị mức bồi thường cho thỏa đáng với những thiệt hại thể chất, tinh
thần hành vi phạm tội trực tiếp gây ra.
Bên cạnh đó, người bị hại có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp bảo đảm bồi thường như; kê biên tài sản, phong tỏa tài sản, tạm giữ
tài sản và các biện pháp khác. Người bị hại không phải làm đơn yêu cầu thì cơ
quan tiến hành tố tụng vẫn phải giải quyết.Thiệt hại này bao gồm thể chất và tinh
thần nên trách nhiệm dân sự đặt ra đối với kẻ phạm tội cũng gồm thiệt hại về tài
sản vật chất do phát sinh từ thiệt hại về thể chất, tinh thần do người phạm tội gây
ra.
II.1.5 Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Người bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình.
Tại phiên tòa, họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được trình bày ý kiến, tham gia
tranh luận tại phiên tòa.
Để đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho vệc thực hiện quyền tham gia phiên
tòa và tranh luận tại phiên tòa của người bị hại, pháp luật quy định về vị trí bình
đẳng của người bị hại tại Điều 19: “người bị hại có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa án”.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa: người bị hại có quyền đề nghị Hội đồng xét xử
thay đổi thẩm phán, hội thẩm, thư kí, người giám định, người phiên dịch, người bị
hại có thể yêu cầu Hội đồng xét sử triệu tập thêm người làm chứng và đưa thêm đồ
vật, tài liệu đang xem xét.
Thủ tục xét hỏi: người bị hại tại phiên tòa sơ thẩm có quyền đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu, đề nghị mức bồi thường, trình bày tình tiết liên quan đến họ và trả lời
đối với những người xét hỏi, tham gia xem xét chứng cứ, tham gia xem xét tại chỗ,
nhận xét về việc trình bày, những tài liệu, báo cáo của cơ quan tổ chức. Họ cũng có

quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết làm sáng tỏ thêm.
6


Thủ tục tranh luận: hoạt động tranh tụng của người bị hại là đề nghị mức bồi
thường, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của mình, trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của
mình và đáo lại ý kiến người khác. Ngoài ra người bị hại còn có quyền trình bày
lời buộc tội trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu người bị hại.
Về thẩm quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm chỉ được được đặt ra đối với
người bị hại khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến người bị hại và được tòa
án triệu tập. Để đảm bảo quyền này, tòa án phải giao giấy triệu tập cho người bị hại
để họ có thể tham gia phiên tòa. Đây là tiền đề cơ bản để người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
II.1.6

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của tóa án về phần bồi
thường cũng như hình phạt đối với bị cáo.
Phần khiếu nại: người bị hại nếu phát hiện thấy quyết định hoặc hành vi của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những điểm bất hợp lí, vi phạm
pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi đó. Người bị hại có
thể tiến hành khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng đó theo trình tự, thủ tục quy
định tại chương XXXV của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: khiếu nại tố
cáo trong tố tụng hình sự.
Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng mà người bị hại cho là
có hành vi vi phạm là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định hành vi
tố tụng đó. Một số trường hợp do trở ngại khách quan mà họ không thực hiện được
quyền khiếu nại đúng thời hiệu thì thời gian đó không được tính vào thời hiệu

khiếu nại. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời
các khiếu nại, tố cáo, thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiêu
nại tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Phần kháng cáo: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa
án về phần bồi thường cũng như phần hình phạt đối với bị cáo. Ngoài quyền kháng
cáo về mức bồi thường, pháp luật còn quy định cho người bị hại được kháng cáo
cả về hình phạt, được thực hiện ý chí nguyện vọng của mình trong việc yêu cầu
nhà nước xử lí thích đáng về hình sự đối với bị cáo. Tại Điều 231 Bộ luật tố tụng
7


hình sự 2003 quy định người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết
định sơ thẩm.
2.1.7 Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại tại
Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa
Theo khoản 3 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “trong trường hợp vụ
án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật
này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại
phiên tòa”. Về mặt lí luận, đây là một quy điịnh phù hợp và rất có ý nghĩa, góp
phần giúp người bị hại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chế định thể hiện
tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước thiệt hại, mất mát của người bị hại.
Quyền được yêu cầu khởi tố là quyền đặc thù của người bị hại, thông thường
khởi tố vụ án hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhưng trong một số
trường hợp, việc khởi tố phụ thuộc vào ý chí của người bị hại. Khi mà hành vi
phạm tội gây nguy hại không lớn và việc giải quyết vụ án trên thực tế có thể mang
lại những hậu quả bất lợi mà người bị hại không mong muốn thì Nhà nước cho
phép người bị hại được quyết định yêu cầu khởi tố.
Để người bị hại bảo vệ được các nội dung đã yêu cầu khởi tố tại khoản 3 Điều
51 Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định người người bị hại hoặc đại diện hợp pháp

của họ được trình bày lời buộc tội trước phiên tòa. Lời buộc tội của người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ là bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình, họ
tự phán xét hành vi phạm tội và mong muốn kẻ phạm tội phải bị trừng phạt ở mức
độ phù hợp với thiệt hại mà họ gánh chịu. Tại Mục I.7 Nghị quyết số 03/2004/NQHĐTP Hướng dẫn thi hành một số quyết định trong phần thứ nhất “ Những quy
định chung” của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, theo đó, người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội của họ tại phiên tòa sau khi Kiểm sát
viên trình bày lời buộc tội và bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa.
Phần tranh luận của họ chỉ được trình bày ý kiến và đặt câu hỏi có sự thống nhất
với lời luận tội của Kiểm sát viên, đặt ra yêu cầu bồi thường bao nhiêu.
Ngoài việc quy định cho người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền
khởi tố thì cũng quy định cho họ có quyền được rút đơn yêu cầu khởi tố, đây là
8


quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại và thể hiện ý chí
của họ. Thời điểm yêu cầu rút yêu cầu khởi tố là trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm,
khi đó cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và
ngược lại.
2.2 Nghĩa vụ của người bị hại
2.2.1 Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Người bị hại phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án.
Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người bị hại. Việc có mặt theo giấy
triệu tập đảm bảo cho người bị hại luôn theo sát vụ án, nắm rõ tình hình vụ án, bảo
đảm tốt quyền lợi ích cho người bị hại. Viêc người bị hại có mặt theo giấy triệu tập
của cơ quan tiến hành tố tụng rất quan trọng nên Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy
định tại Điều 115 về nghĩa vụ này: “Những quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều
tra. Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ
quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành”.
Bên cạnh đó, Điều 183 quy định “căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử,

Thẩm phán ra quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa”. Như
vậy, bên cạnh nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án thì sự có mặt của
người bị hại là cơ sở để người bị hại thực hiện triệt để quyền và lợi ích của mình.
Bộ luật tố tụng quy định nếu sự thiếu mặt của người bị hại, tùy từng trường hợp mà
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc quyết định xét sử.
2.2.2 Nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho việc làm
sáng tỏ sự thật của vụ án
Người bị hại là người biết nhiều tình tiết liên quan đến vụ án, những tài
liệu,đồ vật mà người bị hại cung cấp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án. Đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người bị hại, thực hiện tốt
nghĩa vụ này cũng góp phần bảo đảm được quyền lợi ích của họ.
Người bị hại có thể khai báo, cung cấp những thông tin liên quan đến vụ án ở
bất kì thời điểm nào của quá trình tố tụng và phải chịu trách nhiệm về lời khai cũng
như thông tin mà họ cung cấp.

9


Người bị hại có nghĩa vụ khai báo, cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc
làm sáng tỏ vụ án. Việc giải quyết đúng đắn vụ án không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích
nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích người bị hại nên người bị hại thường chủ động,
tích cực trong khai báo. Việc họ từ chối khai báo mà không có lí do chính đáng là
việc không bình thường. Tâm lí người bị hại luôn muốn trừng trị kẻ phạm tội, giải
quyết nhanh chóng, chính xác vụ án nhưng việc từ chối khai báo là mâu thuẫn với
tâm lí của họ. hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án có thể bị coi là tội
phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật hình sự. Người bị
hại không bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự khi khai báo gian dối mà chỉ đặt
ra vấn đề chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp tư chối khai báo mà thôi.
3.THỰC TIẾN ÁP ĐỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


3.1 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa
vị pháp lí của người bị hại
3.1.2 Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, thực tiễn thi hành quy định pháp luật tố tụng hình sự
về địa vị pháp lí của người bị hại ít nhiều đã có những thành tựu nhất định. Người
bị hại ngày càng hiểu được vị trí, vai trò của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
Họ thực hiện khá đầy đủ nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia hoạt động tố
tụng, có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; tích
cực khai báo những tình tiết liên quan đến vụ án mà người bị hại biết. Cơ quan tiến
hành tố tụng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người bị hại thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ của mình. Theo báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm sát nhân dân 2005,
Cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp thu 568 đơn và tố giác,
tin báo về tội phạm, tăng 6% sơ với năn 2004. Có thể nói, quy định của pháp luật
về địa vị pháp lí của người bị hại đã phát huy hiệu quả, bảo đảm cho quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại được thực hiện, góp phần không nhỏ vào quá trình
giải quyết vụ án, nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3.1.2 Những tồn tại, vướng mắc
Trong thực tế áp dụng quy định pháp luật về địa vị pháp lí của người bị hại có
những vướng mắc sau:
10


Thứ nhất, việc áp dụng các quy định Bộ luật tố tụng hình sự về người bị hại
còn có nhiều vi phạm, quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự còn bị hạn chế.
Việc thự hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự từ trước đến nay chưa triệt để
do nhiều thiếu sót của nhà làm luật. Thực tế xuất hiện nhiều nguyên nhân, mà
trước hết là từ cơ quan tiến hành tố tụng đã không thực hiện quy định của pháp luật
về việc người bị hại trình bày lời buộc tội trước phiên tòa. Nguyên nhân nữa do
quy định pháp luật không đầy đủ, thiếu hướng dẫn thi hành và do trình độ nhận

thức của người dân còn kém, không biết và thực hiện những quy định của pháp
luật.
Ví dụ về một vụ án điển hình: “Nguyễn Thị Hương là người sống vùng khác,
lên Qùy Hợp, Nghệ An sinh sống được 2 năm thì xảy ra xô xát, Hương bị đánh do
mâu thuẫn làm ăn với người khác. Kết luận giám định cho thấy Hương bị tổn hại
sức khỏe 25%. Chị Hương yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.Từ đây bắt đầu tố tụng
kéo dài 4 năm với 11 lần trả hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, 6 bản cáo
trạng và 6 lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Bản án thứ 6 mới tuyên được các bị cáo
có tội và áp dụng hình phạt.. Điều đáng nói ở đây là tại các phiên tòa sơ thẩm, chị
Hương chỉ khai báo, trình bày ý kiến chứ không biết gì về việc buộc tội, và chị
cũng cho biết là không có thủ tục tòa yêu cầu chị bày lời buộc tội”.
Thứ hai, mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định về quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại, tuy nhiên việc áp dụng có những sai phạm khác và tùy
biến ở các địa phương. Thực tế, việc triệu tập người bị hại được thực hiện bằng
cách gửi giấy triệu tập qua con đường bưu điện hay thông qua Uỷ ban nhân dân xã
nơi người bị hại cư trú. Người bị hại trong nhiều trường hợp còn cố tình vắng mặt.
Thứ ba, thực tế có nhiều trường hợp xác định không đúng người đại diện hợp
pháp của người bị hại. Cũng có trường hợp có nhiều người cùng là đại diện hợp
pháp của người bị hại nhưng quyền và nghĩa vụ lại không thống nhất thì việc xác
định người đại diện hợp pháp cũng có nhiều khó khăn.
Ví dụ: Phạm Văn Ngà sinh 1981, Nguyễn Văn Nhựt sinh năm 1984, Trần
Hường Nguyễn sinh năm 1984, Bùi Văn Hiệp sinh năm 1982 đều phạm tội cố ý
gây thương tích. Người bị hại là anh Phạm Huy Hoàng đã chết. Tòa án cấp sơ
thẩm đã xác định Ông Nguyễn Ánh Hồng ( chú anh Hoàng) Trú tại Vĩnh An, Vĩnh
11


Cửu, Đồng Nai là người đại diện hợp pháp của người bị hại, trong khi cha mẹ và
vợ anh Hoàng còn sống. Tại quyết định số 05/2005 HS-GĐT ngày 23/2/2005 của
Hội đồng giám đốc thẩm đã nhận định việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông

Nguyễn Ánh Hồng là người đại diện hợp pháp của anh Hoàng là không đúng với
quy định pháp luật.
Thứ tư, trên thực tế có nhiều trường hợp người bị hại không hợp tác với người
tiến hành tố tụng dẫn đến bế tắc, người phạm tội dù phạm tội nghiêm trọng cũng
không bị xử lí. Điều đó dẫn đến sự mất trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự coi thường
kỉ cương pháp luật, làm gia tăng số lượng tội phạm.
Thứ năm, việc quy định phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại
tại điểm e khoản 2 Điều 51 còn mâu thuẫn với Điều 231 nhưng lại chưa có văn bản
nào hứng dẫn áp dụng cho hai điều luật trên nên mỗi nơi áp dụng một kiểu về quy
định pháp luật, dẫn đến chưa có sự thống nhất trong tố tụng hình sự ở nhiều địa
phương.
Ví dụ: Ngày 29/10/2008 do mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt, Vi Hông D trú tại
Lập Quang, Thường Xuân, Thanh Hóa đã dùng dao nhọn đâm vào người anh
Lang Văn K liên tiếp 3 nhát, trong đó có 1 nhát thâu phổi, đến xẹp phổi. Do được
cấp cứu kịp thời nên anh K không bị nguy hiểm đến tính mạng. Cơ quan điêù tra
ra quyết định trưng cầu giám định thương tích và nhiều lần yêu cầu anh K đi giám
định thương tật nhưng anh K kiên quyết từ chối và viết đơn miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự cho Vi Hồng D vì D đã thỏa thuận bồi thường cho anh K”.

3.2 Một số kiến nghị
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, cần làm sáng tỏ hơn khái niệm người bị hại. Hiện nay, Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định người bị hại chỉ có thể là con người cụ thể còn
pháp nhân, tổ chức bị tội phạm trực tiếp xâm phạm chỉ có thể tham gia với tư cách
là nguyên đơn dân sự khi có yêu cầu..Theo chúng tôi, quy định như vậy là còn hạn
chế chủ thể người bị hại. Bởi trong thực tế, hành vi phạm tội không chỉ gây thiệt
hại cho cá nhân mà còn có thể gây thiệt hại cho tổ chức, pháp nhân. Hơn nữa, môt
tổ chức, pháp nhân cũng có thể bị thiệt hại về tinh thần lẫn vật chất. Ví dụ: một
doanhg nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín kinh doanh.
12



Vì trong trường hợp pháp nhân, tổ chức là cơ quan nhà nước khi bị tội phạm gây
thiệt hại mà tổ chức, pháp nhân đó không có đơn yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng
với tư cách gì? Tài sản của nhà nước trong trường hợp này liệu có được bảo đảm
không?..Pháp luật hiện nay quy định pháp nhân, tổ chức bị tội phạm xâm hại thì
tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, như vậy không có sự phân biệt
giữa kẻ phạm tội trực tiếp hay gián tiếp xâm hại.
Từ những lập luận trên, chúng tôi đề xuất khái niệm người bị hại như sau:
người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về
quyền và nghĩa vụ của ngươi bị hại. Cụ thể:
Một là sửa đổi, bổ sung quy định Khoản 3 Điều 51: Khoản này quy định
trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của ho trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là
quy định phù hợp bảo vệ quyền lợi ích ngườ bị hại. Tuy nhiên, thực tế, việc áp
dụng không có hiệu quả. Luật không quy định rõ đó là quyền hay nghĩa vụ của
người bị hại nên đã gây sự hiểu nhầm trong quá trình áp dụng nội dung điều luật.
Về phía người bị hại, do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế, họ không biết phải
trình bày lời buộc tội thế nào, nội dung ra sao, thậm chí cũng không được cơ quan
tiến hành tố tụng thông báo về việc trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Do vậy, theo chúng tôi cần bổ sung thêm tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 theo hướng cụ thể việc trình bày lời buộc tội tại phiên tòa là quyền
của người bị hại, nên sửa như sau: Trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu
người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền trình bày lời buộc tội.
Hai là sửa đổi quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án
theo yêu cầu người bị hại: Pháp luật hiện hành quy định chỉ cho người bị hại rút
đơn yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Quy định này nhiều lúc không phù

hợp vì thực tế áp dụng chế định này cho thấy có những vụ án cho đến khi xét xử,
qua diễn biến phiên tòa giữa người bị hại và bị cáo mới tìm thấy sự cảm thông thực
sự, muốn dàn xếp theo thỏa thuận của các bên, lúc này người bị hại muốn rút đơn
13


yêu cầu thì pháp luật lại không cho phép. Bên cạnh đó, việc người bị hại rút đơn
yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì chưa có quy định xử lí như thế nào nên thực tế có
nhiều trường hợp ngươì bị hại rút đơn tại phiên tòa gây lúng túng cho cơ quan tiến
hành tố tụng, đồng thời cũng khiến cho việc áp dụng không thống nhất tại các địa
phương khác nhau.
Do vậy, chúng tôi đưa ra đề xuất nên quy định hướng giải quyết khi người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của họ rút đơn yêu cầu tại phiên tòa như sau: Khi người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ rút đơn khởi tố tại phiên tòa thì hội
đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử và kết luận bị cáo phạm tội nhưng có thể miễn hình
phạt nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ; phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ nếu
tội đó có quy định loại hình phạt này hoặc cho bị cáo hưởng án treo nếu có đủ
điều kiện.
Ba là bổ sung quy định ràng buộc trách nhiệm pháp lí đối vói người bị hại.
Người bị hại có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. bên cạnh một số người bị hại tố giác
tội phạm, tích cực trong hoạt động đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thì
vẫn còn có số lớn người bị hại do nhiều lí do khác nhau như sợ mất thòi gian, sợ
phiền hà, sợ bị trả thù.. đã không tố giác tội phạm. Điều đó làm cho số lượng lớn
vụ án không được phát hiện, khởi tố và xử lí dẫn tới mất trật tự an toàn xã hội, tạo
sự coi thường pháp luật, làm gia tăng số lượng tội phạm trong xã hội… Sự không
hợp tác của người bị hại còn gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy,cần sửa đổi Điều 51 Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 như sau: Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát, Tòa án trong trường hợp vắng mặt mà không có lí do chính đáng và

viejc việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể
bi dẫn giải, nếu từ chối khai báo mà không có lí do chính đáng thì có thể phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật hình sự.
Thứ ba, cần bổ sung thêm những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Có một số thiếu sót lớn của pháp luật tố tụng hình sự là không quy định cụ
thể trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc tạo điều kiện cho
14


người bị hại thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp luật cho phép. Những quy định như:
trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của
họ có quyền trình bày lời buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa..khó thực hiện đúng trên
thực tế nếu không nhận được sự hợp tác của cơ quan tiến hành tố tụng. Trường hợp
người tiến hành tố tụng vi phạm thì pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định chế
tài hoặc quy định ràng buộc trách nhiệm đối với họ. Vì vậy, việc thực thi quyền và
nghĩa vụ của ngươi bị hại trong tố tụng hình sự vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Chúng tôi kiến nghị Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định bổ sung về trách
nhiệm của người tham gia tố tụng cũng như cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
bảo đảm cho người bị hại thực thi quyền và lợi ích, nghĩa vụ của mình cũng như
trong trường hợp người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm.
3.2.2 Một số đề xuất khác
Thứ nhất, Cần tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, nâng cao
trình độ pháp luật, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng
Thứ hai, cần thống kê, tổng hợp số liệu chính xác đầy đủ về người bị hại.
Thứ ba, cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho
người dân, người tiến hành tố tụng.

III. KẾT BÀI
Người bị hại giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Pháp luật tố tụng hình sự đã có nhiều quy định mở rộng quyền cho người bị hại
phù hợp với quá trình cải cách tư pháp hiện nay, những quy định về quyền và
nghĩa vụ của người bị hại trong hoạt động tố tụng hình sự đã giúp người bị hại hiểu
sâu hơn vị trí, vai trò của mình trong pháp luật hình sự, từ đó nâng cao tình thần
trách nhiệm của mình..Hoàn thiện hệ thống pháp luạt tố tụng hình sự nâng cao tinh
thần trách nhiệm của người bị hại nhằm ngày càng đảm bảo tốt hơn quyền lợi ích
người bị hại, nâng cao pháp chế xã hội chủ nghiã là việc làm cấp cách trong giai
đoạn hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

15


1, Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb.
Tư Pháp.
2, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, trường đại học Luật Hà Nội,
Nxb.CAND, 1999.
3, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003, Nxb. CTQG.
4, Bộ luật hình sự Việt Nam 1999.
5, Lê Tiến Châu, người bị hại trong tố tụng hình sự, tạp chí khoa học
pháp lí số 1/2007.
6, Người bị hại trong vụ án hình sự, Tạp chí tòa án nhân dân số
12/1997.

MỤC LỤC:
I.
MỞ ĐẦU.....................................................................................1
16



NỘI DUNG.................................................................................1
1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI
BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ.....................1
1.1 Khái niệm địa vị pháp lí của người bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sự.......................................................................................1
1.2 Cơ sở quy định về địa vị pháp lí của người bị hại trong pháp
luật tố tụng hình sự...........................................................................2
1.2.1 Cơ sở lí luận...........................................................................2
1.2.2 Cơ sở thực tiễn......................................................................3
1.3 Địa vị pháp lí của người bị hại trong quy định của pháp luật
tố tụng hình sự một số nước trên thế giới.......................................3
2.NHỮNG QUUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TÓ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2003 VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI.................3
2.1 Quyền của người bị hại...........................................................3
2.1.1 Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu............................................4
2.1.2 Được thông báo về kết quả điều tra....................................4
2.1.3 Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng 20035
Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
.........................................................................................................6
Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa 6
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định
của tóa án về phần bồi thường cũng như hình phạt đối với bị
cáo....................................................................................................7
2.1.7 Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội
tại phiên tòa....................................................................................8

2.2 Nghĩa vụ của người bị hại..........................................................9
2.2.1 Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án.............................................................................9
2.2.2 Nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết
giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án................................9
3.THỰC TIẾN ÁP ĐỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ..............................................................................10
3.1 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về địa vị pháp lí của người bị hại................................................10
17


3.1.2 Những kết quả đạt được.................................................................10

3.1.2 Những tồn tại, vướng mắc..................................................10
3.2 Một số kiến nghị.....................................................................12
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự...........................................12
3.2.2 Một số đề xuất khác........................................................................15

KẾT BÀI...................................................................................15

18



×