Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và vận dụng vào việc xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.98 KB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã đi
xa nhưng đã để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vơ giá,
trong đó có tư tưởng của Người về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là
một nội dung hết sức quan trọng trong tư tưởng của Người về quân sự, là sự
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin, kế thừa và
phát huy truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang đặc sắc của dân tộc, tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa quân sự thế giới về xây dựng lực lượng vũ trang. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đã đề cập đến
sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ q́c, đồng thời nêu ra những vấn đề cơ bản xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nằm trong tiến trình đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta nhằm thực hiện đường lối cách mạng do
Đảng đề ra. Đó là một trong những nhân tố rất quan trọng, quyết định thắng
lợi của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta.
Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang
nhân dân ta trong hơn 60 năm qua là kết quả của đường lối xây dựng lực
lượng vũ trang đúng đắn của Đảng. Đường lới đó được hình thành và phát
triển ngày càng hồn chỉnh trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. So với các thời đại trước đây trong lịch sử dân tộc,
lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây lực lượng vũ trang nhân dân đã
có bước phát triển mới về bản chất giai cấp, hình thức tổ chức lực lượng, huấn


2


luyện, vũ khí trang bị cũng như nghệ thuật quân sự và sức mạnh chiến đấu, đã
cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam. Chính điều đó đã phản ánh và chứng minh giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố,
hiện đại hố dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là sự nghiệp
vơ cùng vẻ vang nhưng cũng khơng ít những khó khăn thách thức. Cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra hết sức gay go, quyết liệt, các
thế lực đế quốc và phản động vẫn đang chống phá cách mạng nước ta một
cách ráo riết. Một trong những mũi nhọn mà kẻ địch tập trung vào chống phá
là các lực lượng vũ trang nhân dân, với âm mưu thực hiện “phi chính trị hóa”
qn đội và lực lượng vũ trang. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức coi
trong công tác quốc phòng - an ninh, phải chủ động nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Văn kiện
Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ:
Xây dựng Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là
lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đới trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin
cậy và u mến [21, tr.110].
Nói tới cơng tác quân sự, tới xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân thì
khơng thể khơng nói tới cơng tác qn sự địa phương và xây dựng lực lượng
quân sự địa phương. Xây dựng lực lượng quân sự địa phương là một bộ phận
cơng tác lớn trong tồn bộ cơng tác quân sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong
thời chiến hay thời bình, lực lượng quân sự địa phương đều giữ vị trí chiến lược
rất quan trọng, là cơ sở để tiến hành rộng khắp chiến tranh nhân dân, tổ chức
thực hiện các công tác quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước đặt ra cho



3
từng địa phương, từng vùng chiến lược và trên quy mơ cả nước trong các thời
kỳ cách mạng.
Tỉnh Thanh Hóa nằm ở địa đầu miền Trung của Tổ quốc. Nhân dân
Thanh Hóa có trùn thớng u nước nồng nàn, có tinh thần đoàn kết, kiên
cường, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Thanh Hóa đã tích cực tham
gia cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình đấu tranh cách
mạng, lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa đã ra đời và đóng góp
to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, cùng với các địa phương khác trong
tồn q́c, các cấp ủy Đảng và chính qùn ở tỉnh Thanh Hóa luôn coi trọng
công tác quân sự địa phương, đặc biệt là công tác xây dựng lực lượng quân sự
địa phương. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền, lực
lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa ngày càng vững mạnh, góp phần
quan trọng nâng cao một bước mới cả về thế và lực của nền q́c phòng tồn
dân và của khu vực phòng thủ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, việc xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa vẫn còn
có những hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân và vận dụng vào xây dựng lực lượng quân sự địa
phương ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay là hết sức cần thiết.
Với lý do trên và trực tiếp nghiên cứu chun ngành Hồ Chí Minh học,
chúng tơi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vu
trang nhân dân và vận dụng vào việc xây dựng lực lượng quân sự địa
phương ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” để viết luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về qn sự, về xây dựng lực lượng vũ



4
trang nhân dân. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố
dưới dạng chuyên đề, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài đăng trên các
tạp chí, sách, báo, kỷ yếu hội thảo khoa học. Các cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân có thể kể đến như:
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây quân đội nhân dân của Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995. Cuốn sách gồm
nhiều bài tham luận khoa học của các tác giả trong cuộc Hội thảo Tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân dân do Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam tổ chức ngày 7 tháng 12 năm 1994, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập
quân đội nhân dân. Cuốn sách đã góp phần làm sáng rõ nội dung, giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, xây
dựng quân đội nhân dân nói riêng và sự vận dụng tư tưởng đó của người trong
thời kỳ cách mạng mới.
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của
Đại tướng Võ Ngun Giáp, Nxb Chính trị q́c gia, Hà Nội, 1997, nêu rõ:
trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên nền tảng lực lượng chính
trị của quần chúng; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; xây dựng bản
chất cách mạng, thực hiện ngun tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đới, trực tiếp, tồn
diện đối với lực lượng vũ trang; chăm lo xây dựng con người đồng thời không
coi nhẹ vai trò của vũ khí, kỹ thuật; quan tâm đến đời sớng vật chất của bộ
đội; xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự và tổ chức lãnh đạo, chỉ huy quân đội.
Sách Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và Sách Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2002 là hai tác phẩm có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn,
đã góp phần làm rõ những hoạt động lý luận và thực tiễn về quân sự trong
cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; làm rõ nguồn gốc, quá trình



5
hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, trong đó có
tư tưởng của Người về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là tư tưởng
về: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mang bản chất cách mạng của giai
cấp công nhân; Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt các lực lượng
vũ trang nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp xây
dựng con người, trang bị vũ khí và huấn luyện quân sự, nâng cao sức mạnh
chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng cách đánh của lực
lượng vũ trang nhân dân.
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân của của PGS, TS
Nguyễn Vĩnh Thắng và PGS, TS Nguyễn Mạnh Hưởng, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2004. Trong cuốn sách này, các tác giả đã luận giải những nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân, đồng thời
làm rõ một số vấn đề xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn mới của của cách mạng nước ta.
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945 của Tiến sĩ Lê Văn Thái, Nxb Chính
trị q́c gia, Hà Nội, 2005. Hình thành từ luận án tiến sĩ của mình, tác giả đã
làm sáng tỏ nguồn gốc, quá trình hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong giai đoạn từ tháng 2 1930 đến tháng 8 - 1945 - giai đoạn hình thành những quan điểm cơ bản
không chỉ soi sáng cho thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang lúc bấy giờ mà
cho cả các giai đoạn kế tiếp và đến cả hiện nay.
Ngồi ra, các cơng trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân như:
Sách Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của Thượng tướng Trần Văn Trà,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
Sách Nhà chiến lược quân sự Hồ Chí Minh của tác giả Phạm Chí Nhân,
Nxb Chính trị q́c gia, Hà Nội, 2004.



6
Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân
Việt Nam của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.
Sách Góp phần tìm hiểu tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh của Đại tá
Ngũn Huy Tồn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Luận án tiến sĩ lịch sử: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 - 1954) của Lê Huy Bình, Hà Nội, 2006. Trong luận án, tác giả đã góp
phần làm rõ cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945- 1954) - thời kỳ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cớng
hiến kiệt xuất trên lĩnh vực quân sự, thời kỳ phát triển hoàn chỉnh tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Luận án tiến sĩ lịch sử: Nâng cao chất lượng cán bộ chính trị phân đội
trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Nguyễn Văn Hiệp, Hà Nội, 2000.
Các bài viết trên báo, tạp chí nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân như:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với trùn thớng quyết chiến quyết thắng của Quân
đội ta” của Vũ Như Khôi, Tạp chí Giáo dục Lý ḷn chính trị qn sự, sớ 4,
năm 1985; “Cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận
quân sự mácxit - lêninnit” của Hồng Phương, Tạp chí Lịch sử qn sự, số 1,
năm 1990; “Bác Hồ với việc xây dựng bộ đội chủ lực” của Phạm Chí Nhân,
Tạp chí Lịch sử qn sự, sớ 5, năm 1994; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với quá
trình tổ chức và xây dựng đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân
Việt Nam” của Dương Đình Lập, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5, năm 1995;
“Quân đội của dân, do dân, vì dân - tư tưởng nhân văn đặc sắc trong di sản tư

tưởng quân sự Hồ Chí Minh” của Nguyễn Vĩnh Thắng, Tạp chí Giáo dục lý


7
ḷn chính trị qn sự, sớ 3, năm 2000; “Xây dựng quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Đình Sĩ,
Tạp chí Cộng sản, sớ 13, năm 2002; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân” của Trịnh Vương Hồng, Tạp chí Lịch sử quân sự, số
5, năm 2005;…
Các công trình nghiên cứu nêu trên có những hướng tiếp cận và phạm
vi nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ những vấn đề cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và đưa ra nhiều vấn
đề vận dụng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện mới của
cách mạng. Song chưa có cơng trình nào nghiên cứu về “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vu trang nhân dân và vận dụng vào việc xây
dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay”. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu quý giá mà chúng tôi
trân trọng kế thừa cả về nội dung và phương pháp trong quá trình nghiên cứu
thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân để vận dụng vào việc đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Đánh giá thực trạng xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh

Thanh Hóa, đề xuất giải pháp để xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở
tỉnh Thanh Hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa trong tình hình hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm cơ bản của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân và việc
xây dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Học thuyết Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, về chiến tranh và quân đội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
đường lối, quan điểm của Đảng về công tác quân sự, quốc phòng.
- Các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Thanh
Hóa có liên quan đến cơng tác qn sự địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp lịch sử và lơ gíc, phương pháp phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát
thực tiễn và phương pháp chuyên ngành trong nghiên cứu và thể hiện đề tài.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Đánh giá khoa học về thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm xây
dựng lực lượng quân sự địa phương ở tỉnh Thanh Hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa của luận văn

- Luận văn góp phần khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tư
tưởng qn sự Hồ Chí Minh; góp phần nâng cao nhân thức về tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.


9
- Luận văn cung cấp thêm nguồn tư liệu về lực lượng quân sự địa
phương, làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh và giảng dạy lịch sử địa phương tỉnh Thanh Hóa.
8. Kết cấu của ḷn văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 2 chương, 5 tiết.


10
Chương 1
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân
Để hiểu được khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết phải
làm rõ khái niệm lực lượng vũ trang.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998, lực lượng vũ trang là
“các tổ chức được trang bị vũ khí, tạo nên sức mạnh quân sự của quốc gia để
tiến hành đấu tranh vũ trang” [9, tr.1069].
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, khái niệm lực lượng vũ
trang được nêu đầy đủ hơn là “lực lượng có tổ chức, được trang bị vũ khí,
phương tiện kỹ thuật quân sự và huấn luyện quân sự do một giai cấp, nhà nước
hoặc tập đoàn xã hội lập ra nhằm những mục đích nhất định; sản phẩm của chế

độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng” [64, tr.267].
Về khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân, theo Từ điển Bách khoa
quân sự Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân là
Lực lượng vũ trang do chính đảng của giai cấp cơng nhân tổ
chức lãnh đạo; mang bản chất cách mạng và tính nhân dân sâu sắc.
Tổ chức và cơ cấu của lực lượng vũ trang nhân dân tùy thuộc đặc
điểm và truyền thống mỗi nước. Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang
nhân dân bao gồm: Quân đội nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ, lực lượng cảnh sát
biển và công an nhân dân [64, tr.630].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng đưa ra một khái niệm cụ thể về lực lượng
vũ trang nhân dân, nhưng từ những quan điểm của Người về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, chúng ta có thể rút ra được quan niệm của Người về


11
lực lượng vũ trang nhân dân đó là: lực lượng vũ trang cách mạng kiểu mới
gồm các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, sâu đậm tính nhân
dân. Cơ cấu của lực lượng vũ trang nhân dân ở nước ta gồm ba thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ.
Như vậy, khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân theo cách hiểu hiện
nay, được nêu trong Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam về cơ bản có sự
thớng nhất với quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuy nhiên, theo Từ điển
Bách khoa quân sự Việt Nam, cơ cấu lực lượng vũ trang nhân dân ở nước ta
thì rộng hơn so với quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gồm có: Bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, lực lượng cảnh sát biển và
công an nhân dân.
1.1.2. Khái niệm lực lượng quân sự địa phương
Theo cách hiểu chung, lực lượng quân sự địa phương là lực lượng vũ

trang ở địa phương, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, thành
phần gồm có bộ đội địa phương ở cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung
ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và dân quân, tự vệ ở cấp
xã (phường, thị trấn và cơ quan, tổ chức) có chức năng, nhiệm vụ là lực
lượng nòng cớt, xung kích của nền q́c phòng tồn dân và chiến tranh nhân
dân ở địa phương.
Cùng với lực lượng chính trị của tồn dân ở địa phương, lực lượng
qn sự địa phương ln giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong công tác quân
sự địa phương của Đảng kể cả trong thời bình, cũng như thời chiến. Trong bài
nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị Quân sự địa phương toàn
miền Bắc (tháng 7 năm 1970) đã nêu lên vai trò của lực lượng quân sự địa
phương là: “giữ vai trò nòng cốt của đấu tranh vũ trang ở địa phương, của
chiến tranh du kích, của chiến tranh nhân dân ở địa phương. Đó là cơ sở của
toàn bộ lực lượng vũ trang của Đảng” [22, tr.20].


12
Trong sách “Mấy vấn đề quân sự địa phương trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc", Thượng tướng Nguyễn Quyết nêu rõ, lực lượng quân sự
địa phương là “lực lượng chiến đấu trực tiếp, kịp thời và có hiệu quả lớn ở
từng khu vực tác chiến bảo vệ điạ phương, là lực lượng hùng hậu sẵn sàng bổ
sung cho bộ đội chủ lực, chi viện cho tiền tuyến” [44, tr.159].
Khái quát và làm rõ thêm về lực lượng quân sự địa phương, trong sách
“Quân sự địa phương - Sự hình thành và phát triển”, Trung tướng Lê Quang
Hồ khẳng định:
Trước đây, các địa phương và lực lượng quân sự địa phương đã
giữ vị trí chiến lược quan trọng trong chiến tranh nhân dân, là một
trong những nhân tố trọng yếu quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Ngày nay, vị trí chiến lược của các địa phương và lực lượng quân sự
địa phương lại càng trở nên trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng đất

nước và bảo vệ đất nước, phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng
[25, tr.89].
Với các nội dung nêu trên, khái niệm lực lượng quân sự địa phương
hoàn toàn đồng nhất với khái niệm lực lượng vũ trang địa phương, như Từ
điển Bách khoa quân sự Việt Nam nêu định nghĩa:
Là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam,
gồm bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; lực lượng nòng cớt của
q́c phòng tồn dân và chiến tranh nhân dân địa phương; do cấp ủy
Đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền địa phương trực tiếp lãnh
đạo, quản lý, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy và cơ quan quân
sự cấp trên chỉ đạo. Có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và
chính qùn, phới hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực trong hoạt động
tác chiến và các hoạt động khác, góp phần giữ gìn an ninh chính trị,
trật tự an tồn xã hội ở địa phương, xây dựng địa phương vững
mạnh [64, tr.630].


13
1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

1.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con
đường cách mạng vô sản, trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi sâu phân tích bản chất của chủ nghĩa thực
dân. Người đã sớm chỉ ra: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành
động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi” [31, tr.96]. Quan niệm rằng, sức
mạnh vật chất chỉ có thể bị đánh bại bằng sức mạnh vật chất, bạo lực phản
cách mạng chỉ có thể bị đánh bại bởi bạo lực cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “cần phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản

cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” [42, tr.304]. Đối
với các dân tộc thuộc địa, Người cho rằng, muốn chiến thắng kẻ thù hung bạo,
muốn được giải phóng, trước hết phải trơng cậy vào lực lượng của bản thân
mình, đem sức ta mà giải phóng cho ta và khơng có sự lựa chọn nào khác. Từ
nhận thức đúng đắn đó, sau khi sáng lập ra Đảng để lãnh đạo cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và đã nhiều lần
nhấn mạnh vai trò lực lượng vũ trang trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Xác định vai trò lực lượng vũ trang trong tiến trình cách mạng là một vấn
đề quan trọng, liên quan đến quyết tâm tổ chức, xây dựng, đến ni dưỡng và
phát triển lực lượng đó trong thực tiễn. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
đã từng nêu ra vấn đề này. C.Mác và Ph.Ăngghen sau khi khẳng định sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây
dựng chủ nghĩa cộng sản, các ông đã chỉ rõ cho giai cấp công nhân con đường
đúng đắn để tự giải phóng là con đường cách mạng bạo lực. Khẩu hiệu chiến đấu
mà các ông đưa ra từ những năm 50 của thế kỷ XIX là: “Vũ trang cho giai cấp
công nhân”. Nghiên cứu vấn đề tổ chức quân sự của giai cấp vô sản, C.Mác và


14
Ph.Ăngghen dự kiến quân đội thường trực của giai cấp tư sản phải được thay thế
bằng nhân dân vũ trang, bằng lực lượng dân cảnh xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện mới của lịch sử, khi mà chủ nghĩa tư bản chuyển sang
chủ nghĩa đế quốc, phát triển luận điểm vũ trang cho giai cấp công nhân, tổ
chức lực lượng dân cảnh của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhấn mạnh
vai trò của lực lượng quân sự trong đấu tranh cách mạng và việc xây dựng lực
lượng vũ trang để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa sau khi giai cấp vô sản đã chiến thắng. Người khẳng định, ḿn cứu
thốt vĩnh viễn những người lao động khỏi ách địa chủ và tư bản, muốn cứu
thốt họ khỏi sự phục hồi của chính qùn địa chủ và tư bản, tất phải xây
dựng một đạo Hồng quân vĩ đại của lao động. Từ tư tưởng đó, khi Cách mạng

Tháng Mười năm 1917 thành công, V.I.Lênin đã kí Sắc lệnh thành lập Hồng
qn Xơ viết (28-1-1918) và Hải qn cơng nơng (11- 2- 1918). Khi kí Sắc
lệnh đó, một lần nữa V.I.Lênin đã chỉ rõ:
Ḿn bảo vệ được chính qùn cơng nơng để chớng bọn cá
mập, tức bọn địa chủ và tư bản, chúng ta phải có Hồng quân mạnh
mẽ. Chúng ta đã chứng tỏ, bằng hành động chứ khơng phải bằng lời
nói, rằng chúng ta có khả năng thành lập được Hồng quân (…). Có
Hồng quân mạnh chúng ta sẽ vô địch [49, tr.146].
Tiếp thu truyền thống tổ chức quân sự độc đáo của dân tộc, thấm nhuần
quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về tầm quan trọng của
lực lượng vũ trang trong đấu tranh cách mạng, kết hợp với những kinh
nghiệm phong phú của quá trình đi tìm đường cứu nước, tận mắt chứng kiến
tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa, khảo sát rút ra bài
học đấu tranh vũ trang ở các nước, nên từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định chính xác vai trò của lực lượng vũ trang trong đấu tranh cách mạng.
Năm 1925, sau khi thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Người đã
mở nhiều lớp huấn luyện chính trị đồng thời gửi những thanh niên vào học ở


15
trường Qn sự Hồng Phớ. Năm 1927, cùng với tác phẩm Đường cách
mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho xuất bản bán nguyệt san Lính cách mệnh.
Lính cách mệnh khẳng định tính tất yếu của con đường bạo lực vũ trang đối
với cuộc cách mạng dân tộc ở nước ta:
Cách mệnh vô luận ở về thời đại nào, theo về hồn cảnh nào,
ḿn cho thành cơng thì nhất định phải dùng vũ lực, bởi vì thớng
trị giai cấp nó đè nén mình, nó hà hiếp mình, là nó cậy có vũ lực
của nó, nên bây giờ cách mệnh cũng phải có vũ lực của cách mệnh
để đánh cho bọn thớng trị giai cấp thất thế đi, hết nọc đi, thì cách
mệnh mới thành cơng được [49, tr.147].

Lính cách mệnh hướng tới việc xây dựng quân đội cách mạng theo mẫu
hình Hồng quân Xôviết do V.I.Lênin sáng lập, lấy công nông và các chiến sĩ
yêu nước làm nòng cốt. Phát triển quan điểm đó, trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng (1930), Người chủ trương “tổ chức ra quân đội công nông” [33,
tr.1] để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng xác định. Về sau, Người
nêu lên chân lý giản đơn và thiết thực rằng: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải
được giải phóng. Ḿn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Ḿn
đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự” [35, tr.329].
Như vậy, nếu như V.I.Lênin xuất phát từ nhu cầu của cách mạng Nga
sau Cách mạng Tháng Mười phải chớng thù trong giặc ngồi để bảo vệ thành
quả cách mạng, đã nhiều lần khẳng định vai trò của lực lượng vũ trang và trên
thực tế đã ký Sắc lệnh thành lập Hồng quân Xôviết và Hải qn cơng nơng,
thì Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cứ vào hoàn cảnh đất nước mình đặt vấn đề xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân và trên thực tế đã xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân để làm nòng cớt cho tồn dân đấu tranh vũ trang giải phóng
dân tộc. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam bị thực dân Pháp
thống trị bằng quân sự rất ác độc. Chúng đã huy động một bộ máy chiến tranh
hết sức tàn bạo để bắn giết đồng bào, đớt phá nhà cửa, xóm làng và dìm các


16
cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta trong bể máu. Chính từ thực
tế đó, ḿn giải phóng dân tộc, nhân dân Việt Nam khơng có con đường nào
khác là phải dùng bạo lực cách mạng lật đổ ách thớng trị của chính qùn
thực dân phong kiến. Đới với Việt Nam, nơi mà thực dân Pháp dùng xe tăng
và đại bác xâm lược và cai trị nhân dân ta thì bạo lực cách mạng chủ yếu là
bạo lực vũ trang. Tuy nhiên, bạo lực cách mạng không chỉ là bạo lực vũ trang.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng bao gồm cả
sức mạnh của quần chúng cách mạng cộng với sức mạnh của lực lượng vũ
trang nhân dân. Đây chính là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong sự

nghiệp giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân và tay sai
của chúng, trong đó lực lượng vũ trang có vị trí vơ cùng quan trọng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng
xã hội, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Do bản chất và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi, “đế q́c có
chết thì chết, nết khơng chừa” [41, tr.379], cho nên, giành được chính quyền
đồng thời phải giữ vững chính quyền; giành được độc lập dân tộc phải luôn
cảnh giác để giữ vững nền độc lập dân tộc; xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lực lượng vũ trang nhân dân không
chỉ là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh cách
mạng mà còn là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền q́c phòng tồn dân
bảo vệ mọi thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc bình yên. Vì vậy, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là vấn đề có tính
quy luật xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên nền tảng lực
lượng chính trị hùng hậu của quần chúng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực
của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh


17
chính trị và đấu tranh quân sự, khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng.
Lực lượng để tiến hành cách mạng bạo lực phải bao gồm hai lực lượng cơ
bản, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang nhân dân
là nòng cốt trong khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, là lực lượng
đặc biệt quan trọng trong tổ chức, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân
để chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược. Nhưng muốn xây dựng lực lượng
vũ trang, phải xây dựng đội quân chính trị trước. Người luận giải:
Ḿn có đội qn vũ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận

động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao
cho đội quân chính trị ngày càng đơng. Như ở ta, ḿn đánh Pháp Nhật thì ai là người vác súng? Ta phải có quần chúng giác ngộ
chính trị vác súng thì mới đánh thắng được [49, tr.152].
Lực lượng chính trị theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm
mọi người dân trong các giai cấp, các tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ, được
tổ chức trong các đoàn thể cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, là lực lượng cơ bản nhất, nền tảng của cách mạng và là cơ sở để xây dựng,
phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng, cả về vật chất và tinh thần, cả con
người cũng như phương tiện, trên mọi mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế và văn
hóa, ở cả tiền tuyến và hậu phương. Đó không chỉ là lực lượng hùng hậu tiến
công địch khắp mọi lúc, mọi nơi mà còn là nguồn tiếp sức vô tận cho việc phát
triển lực lượng vũ trang nhân dân. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
sớm chăm lo xây dựng lực lượng chính trị của cách mạng, coi đây là nền tảng
quan trọng để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng, “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” [40, tr.197] được thức tỉnh, được tổ chức đấu tranh; “Trong bầu trời,
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đồn kết của nhân dân” [38, tr.276]; “Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng
ớng nào cũng khơng chớng lại” [32, tr.274], Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, sự


18
nghiệp cách mạng, sự nghiệp kháng chiến phải quy tụ hết thảy ý chí quyết
tâm và sức mạnh đồn kết của cả dân tộc, không phân biệt giai cấp, dân tộc,
tôn giáo, từ các tầng lớp công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, trí thức, tiểu
thương, đến các vị thân sĩ, phú hào, chức sắc tôn giáo, các quan lại, cơng chức
trước đây đã làm việc cho chính qùn thực dân phong kiến, bất cứ ai là
người Việt Nam có lòng yêu nước đều phải tham gia vào việc cứu nước.
Trong bài Kính cáo đồng bào, Người từng kêu gọi: “Hỡi đồng bào yêu quý!
Việc cứu nước là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác

một phần trách nhiệm” [33, tr.198]. Cho nên, trong xây dựng lực lượng chính
trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước hết công tác tuyên truyền, giác ngộ
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, làm cho “ai ai cũng phải
hiểu rõ vì sao mà phải làm” [32, tr.261], phải “đoàn kết nhau mà làm” [32,
tr.262]. Đồng thời, Người quan tâm đến việc tổ chức quần chúng vào các đồn
thể cứu q́c và chăm lo xây dựng, vun đắp khới đồn kết tồn dân trong Mặt
trận dân tộc thống nhất. Người kêu gọi:
Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông
dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải vào “Thanh niên Cứu quốc
hội”. Phụ nữ phải vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”. Trẻ con vào “Nhi
đồng Cứu q́c hội”. Binh lính vào “Binh lính Cứu quốc hội”. Các
bậc phú hào văn sĩ vào “Việt Nam Cứu quốc hội”.
Những hội ấy do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo. Người
có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng tâm hiệp lực. Mn
người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ q́c, mà làm
cho Việt Nam hồn tồn độc lập [33, tr.209].
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng và phát triển lực lượng
vũ trang nhân dân phải trên cơ sở và gắn liền với xây dựng lực lượng chính trị
hùng hậu của quần chúng, gắn liền với xây dựng, củng cớ các đồn thể cách
mạng. Vì “Các đồn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh


19
chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ
trang và tiến hành đấu tranh vũ trang” [6, tr.14-15].
Trong thực tiễn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng việc
tuyên truyền, giác ngộ, vận động, tổ chức quần chúng xây dựng lực lượng chính
trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị, trên cơ sở đó dần dần tổ chức lực
lượng vũ trang nhân dân. Từ những đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) đầu tiên
trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh, đến các

đội vũ trang trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Tháng Tám như: du kích
Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng
qn, du kích Ba Tơ cùng các đội du kích khác trên nhiều địa phương đều ra đời
trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng và ln dựa chắc vào các đoàn thể
do Đảng lãnh đạo. Được tổ chức và xây dựng trên cơ sở của phong trào cách
mạng, lực lượng vũ trang nhân dân ở nước ta ln có tác dụng cổ vũ và hỡ trợ
cho các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng cách mạng, kết hợp chặt chẽ
giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ trang nhân dân ta
lúc đầu mới hình thành tuy còn non trẻ, biên chế tổ chức còn nhỏ bé, trang bị vũ
khí còn thơ sơ, huấn luyện quân sự còn đơn giản, do bám chắc và ngày càng nảy
nở trên lực lượng chính trị quần chúng rộng khắp, cho nên đã trưởng thành
nhanh chóng, phối hợp đắc lực với lực lượng quần chúng trong Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền tháng 8 năm 1945; là lực lượng nòng cớt cho tồn dân tiến
hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế q́c Mỹ, góp
phần xây dựng và bảo vệ chế độ mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2.3. Lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng tổ chức và lãnh đạo,
mang bản chất giai cấp công nhân, sâu đậm tính chất nhân dân
1.2.3.1. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt các lực lượng
vu trang nhân dân
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
phải xây dựng vững mạnh tồn diện, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm


20
cơ sở. Đó vừa là yêu cầu cơ bản vừa là vấn đề nguyên tắc trong xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về
chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn những
quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời hiểu biết sâu
sắc những truyền thống của dân tộc, đánh giá đầy đủ điều kiện hoàn cảnh của
Việt Nam. Đó là bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ

nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng lực lượng vũ trang ở một nước vốn là thuộc
địa nửa phong kiến, lực lượng vũ trang khởi đầu hình thành từ phong trào đấu
tranh chính trị của quần chúng nhân dân, tuyển chọn trong số hạt nhân tiêu
biểu của quần chúng cách mạng, và ngay từ buổi ấu thơ đó, nó đã thực sự là
lực lượng nòng cớt bảo vệ phong trào chính trị và hỡ trợ quần chúng đấu tranh
cách mạng. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tun truyền giải phóng
qn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tên đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng qn “nghĩa là chính trị trọng hơn qn sự” [33, tr.507]. Tư tưởng đó
của Người tiếp tục được phát huy cao độ trong quá trình xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân trở thành một công cụ sắc bén của Đảng, lấy bản chất chính
trị và mục tiêu chính trị của cách mạng làm nội dung hoạt động.
Trong mối quan hệ giữa chính trị với quân sự, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng xác định chính trị là “cái gớc”, là “cái nền”, “qn sự mà khơng có
chính trị như cây khơng có gớc, vơ dụng lại có hại” [36, tr.318]. Đây là một luận
điểm rất đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò “cái gớc” chính trị trong
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Rõ ràng, theo Người, khơng thể có thứ lực
lượng vũ trang phi chính trị, phi giai cấp; chính trị không những là cơ sở cho các
mặt xây dựng khác của lực lượng vũ trang mà nó còn là nhân tố quyết định sự
trưởng thành và chiến thắng của các lực lượng vũ trang; thốt ly chính trị của
Đảng cộng sản thì lực lượng vũ trang không còn là lực lượng vũ trang của giai cấp
công nhân, lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nữa. Vì
vậy, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải coi trọng xây dựng về chính trị.


21
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề cớt lõi của xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân về chính trị là tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bởi vì
chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân là chính trị của giai cấp cơng nhân.
Điều quan trọng để lực lượng vũ trang thực sự trở thành tổ chức vũ trang cách
mạng mang bản chất giai cấp công nhân, chính là các lực lượng vũ trang phải

đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Tiếp thu tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ
mệnh lịch sử của chính đảng tiên phong giai cấp cơng nhân, ngay từ năm
1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi nói về những điều kiện quyết
định thắng lợi của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”
[32, tr.268]. Tư tưởng của Người đã trở thành hiện thực vào đầu năm 1930 khi
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng cộng sản Việt Nam do Người sáng lập
là một chính đảng kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đảm nhận sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Người ghi rõ: “tổ chức ra qn đội cơng nơng” [33, tr.1]. Điều đó tuy
chưa cụ thể về mặt tổ chức, song đã khẳng định vấn đề cớt lõi nhất, có ý nghĩa
sớng còn nhất là: quân đội do Đảng tổ chức, lãnh đạo, chiến đấu vì mục tiêu
độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh tới vấn đề cốt
lõi là lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo.
Trong tác phẩm Chiến thuật du kích, Người viết: “Về mặt chính trị, cấp nào
cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ
đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm” [33, tr.472]. Năm 1944, khi quyết định
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu


22
tiên của lực lượng vũ trang nhân dân ở nước ta, trong Chỉ thị thành lập đội,
Người khẳng định thêm một lần nữa, việc thành lập đội là: “…theo chỉ thị
mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc Lạng sớ cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần
lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực” [33, tr.507].

Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân,
nòng cốt là quân đội nhân dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, cùng với việc giải quyết đúng đắn các mới quan hệ có tính ngun
tắc như giữa chính trị với quân sự; lực lượng vũ trang với nhà nước cách
mạng; lực lượng vũ trang với nhân dân;…Người đã giải thích rõ mới quan hệ
giữa lực lượng vũ trang với Đảng. Người nêu quan điểm: Đảng “phải xây
dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo
đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào” [41, tr.494].
Điều đó có nghĩa là, một mặt Đảng tổ chức ra lực lượng vũ trang, nên tất yếu
Đảng phải nắm quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang, quyền lãnh đạo đó là tuyệt
đối, không chia sẻ cho bất cứ giai cấp nào khác; mặt khác lực lượng vũ trang
phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc bất di
bất dịch, là nhân tố giữ vai trò quyết định trong mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, giữ vai trò quyết định đối với sự ra đời, phát triển, trưởng thành,
chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang nhân dân ta, đảm bảo cho lực
lượng vũ trang nhân dân luôn luôn mang bản chất cách mạng của Đảng, đứng
vững trên lập trường giai cấp cơng nhân, hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
mà Đảng và nhân dân giao phó. Người khẳng định: “Qn đội ta có sức mạnh
vơ địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh
đạo và giáo dục” [41, tr.350]. Mỗi chặng đường xây dựng và chiến đấu, mỗi


23
bước trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội
nhân dân ở nước ta đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và sự ủng hộ của
toàn dân. Người viết:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ hết

lòng của nhân dân, trải qua 14 năm phấn đấu, quân đội ta đã hồn
thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho; đã có trùn
thớng vẻ vang là tuyệt đới trung thành với Đảng, với nhân dân;
chiến đấu anh dũng; cơng tác và lao động tích cực; tiết kiệm, cần
cù, khiêm tớn, giản dị; đồn kết nội bộ; đồng cam cộng khổ với
nhân dân, luôn luôn sẵn sàng khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm
vụ [39, tr.274].
Đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đới, trực tiếp và tồn diện của Đảng đối với
lực lượng vũ trang nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị. Ḿn vậy, phải hết sức coi trọng
công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng trong lực lượng
vũ trang nhân dân. Có tổ chức vững chắc của Đảng làm nòng cớt và hạt nhân
lãnh đạo thì Đảng mới có thể thông qua tổ chức của mình từ các cấp uỷ mà
lãnh đạo việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng. Phải lập ra chế độ
công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân, xác định
rõ vị trí của người chính uỷ, chính trị viên.
Do đây là vấn đề quan trọng, mới mẻ, chưa từng có trong lĩnh vực xây
dựng lực lượng vũ trang của dân tộc ta trước đó, nên Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất quan tâm. Từ ći năm 1941, trong tác phẩm Chiến thuật du
kích, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ là, về mặt chính trị, cấp nào cũng phải
có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy
hoặc phái người ngoài đến làm. Năm 1944, khi thành lập tổ chức đội vũ trang
tập trung, Người khẳng định: “Tổ chức Đội phải lấy chi bộ làm hạt nhân lãnh
đạo”[67, tr.257]. Người đã trực tiếp chỉ đạo các đồng chí Phạm Văn Đồng và


24
Võ Ngun Giáp biên soạn Ćn sách của người chính trị viên và Cơng tác
chính trị trong qn đội cách mạng. Đây là những cuốn sách đầu tiên về công
tác Đảng, cơng tác chính trị, bước đầu xác định một số nguyên tắc xây dựng

lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị:
- Người đứng ra tổ chức các đội du kích là “đồn thể chúng ta” (tức
Đảng cộng sản).
- Cơng tác chính trị có mục đích giữ vững “đội du kích là tổ chức của
đồn thể”.
- Đới với nội bộ, nhiệm vụ của cơng tác chính trị là đúc bền và nâng
cao sức chiến đấu.
- Đối với nhân dân, nhiệm vụ của cơng tác chính trị là thực hiện quân
dân nhất trí, “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội, chính trị viên phải
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội. Muốn như vậy, thì phải đốc thúc
bộ đội siêng giúp dân, hăng hái đánh giặc” [35, tr.393].
- Đối với quân đội địch, nhiệm vụ của cơng tác chính trị là lơi kéo sĩ
quan và binh lính địch, nhất là binh lính người Việt, dùng chính trị làm tan rã
hàng ngũ địch.
Xác định vị trí quan trọng của người chính trị viên đới với sinh mệnh
chính trị của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tư cách của người
chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tớt
thì bộ đội ấy tớt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy
không tốt” [35, tr.392].
Quán triệt tư tưởng của Người, lần đầu tiên tổ chức quân sự ở Việt Nam
xuất hiện người cán bộ và cơ quan chính trị từ trung ương quân đội đến các
đơn vị cơ sở, và cũng từng bước hình thành các trường đào tạo cán bộ chính
trị từ sơ cấp đến cao cấp. Việc hình thành đội ngũ cán bộ chính trị, tổ chức cơ
quan chính trị và hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong quân đội,
trong lực lượng vũ trang nhân dân đã tạo cơ sở vững chắc cho việc giữ vững


25
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, với các lực lượng vũ
trang nhân dân ta. Quá trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lực

vũ trang nhân dân ta hơn 60 năm qua, là quá trình đảm bảo mọi thắng lợi,
trưởng thành của các lực lượng vũ trang nhân dân, không chỉ đánh thắng các
đế q́c to, mà còn hồn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị khác, vượt qua bão
tớ chính trị, ln là lực lượng chính trị đáng tin cậy của nhân dân.
1.2.3.2. Xây dựng lực lượng vu trang nhân dân mang bản chất cách
mạng của giai cấp công nhân, sâu đậm tính nhân dân
Một trong những nội dung cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu là xây
dựng bản chất cách mạng của nó. Khi chưa giành được chính quyền, lực
lượng vũ trang nhân dân là một tổ chức quần chúng vũ trang đặc biệt của
Đảng cùng tồn dân đấu tranh giành chính qùn về tay nhân dân. Khi đã
giành được chính quyền, lực lượng vũ trang nhân dân ta trở thành một bộ
phận cấu thành của quốc gia, mang bản chất cách mạng của chính quyền mới,
của Nhà nước mới, phát triển từ Nhà nước dân chủ nhân dân thành Nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Nhìn nhận bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang nhân dân có thể
xem các mới quan hệ của lực lượng vũ trang nhân dân với Đảng, với Nhà
nước, với nhân dân, với nội bộ, với bạn bè và với kẻ thù. Cũng có thể nhận rõ
bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở mục tiêu chiến đấu vì Đảng, vì nước, vì dân và có Đảng cộng sản lãnh
đạo. Lực lượng vũ trang nhân dân là công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng, của
Nhà nước ta và đó là lực lượng nòng cớt cho tồn dân tiến hành khởi nghĩa vũ
trang, giành chính quyền, tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ q́c xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng vũ trang ở nước ta trong các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh
dân tộc trước kia chủ yếu do giai cấp phong kiến tổ chức và lãnh đạo, mang


×