Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Ths. Triết học_Vấn đề tổng kết thực tiễn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh hải dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.61 KB, 123 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển cao hơn của tiến trình
CNH, HĐH đất nước. Đây là sự nghiệp vơ cùng to lớn, trách nhiệm nặng nề
đối với mỗi người dân, mỗi nhà quản lý ở mọi cấp. Mỗi cá nhân ln trăn trở,
tìm tịi, nghiên cứu trong sách vở, trong thực tiễn sinh động của đất nước, chắt
lọc một cách thơng minh, có bản lĩnh những kinh nghiệm q giá trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của các nước khác để phát triển đất nước
mình. Hàng loạt những vấn đề bức xúc đang đặt ra về tính bất cập của lý luận
trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; Đòi hỏi các
nhà nghiên cứu khoa học, các nhà chính trị, các nhà hoạt động xã hội…phải
đầu tư nghiên cứu, TKTT ở tầng sâu bản chất, giải đáp trên bình diện sâu hơn,
bao quát hơn, nắm bắt được dòng chủ lưu của thời đại; Để từ đó có những kiến
giải và dự đốn các giải pháp ứng phó ở tầm xa. Do đó chúng ta khơng thể thoả
mãn với một số kết quả đã đạt được trong nghiên cứu như hiện nay, mà phải
tiếp tục đi sâu tìm tịi và khái quát các diễn biến sinh động của thực tiễn cuộc
sống trên nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ V BCH Trung ương (Khoá IX) chỉ rõ, trong những năm tới phải tiếp tục
“đẩy mạnh TKTT và nghiên cứu lý luận; tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta”.
Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: thường xuyên TKTT,
bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt
ra. Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục
làm sáng tỏ những vấn đề CNXH và con đường lên CNXH của nước ta, làm rõ
cơ sở lý luận thực tiễn đường lối chính, sách của Đảng trong thời kỳ mới.
Chúng ta đang bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, công cuộc
đổi mới theo định hướng XHCN càng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu, càng
bộc lộ nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi lý luận phải làm sáng tỏ; Trong nhiều lĩnh



2
vực đang đặt ra hiện nay phải kể đến lĩnh vực nơng nghiệp nói chung và sản
xuất nơng nghiệp nói riêng chưa phát triển bền vững, thu nhập của nông dân từ
nông nghiệp chưa cao, đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện chưa
đáng kể; các tiến bộ khoa học - công nghệ được áp dụng vào sản xuất nơng
nghiệp cịn dừng lại ở giới hạn nhất định; diện tích đất canh tác ngày càng bị
thu hẹp, vấn đề ô nhiễm môi trường trong nông nghiệp chưa được xử lý triệt
để, sự nhức nhối trong đền bù đất nông nghiệp, chuyển đổi lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác cịn nhiều bất cập và khơng ít khó khăn. Tất
cả những vấn đề trên đang là những bài toán nan giải nhất của các vấn đề xã
hội. Tình hình đó địi hỏi Đảng ta phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận,
tăng cường tổng kết thực tiễn, nhằm thực hiện thắng lợi các nghị quyết của
Đảng đã đề ra.
Cho đến giai đoạn hiện nay, nhiều Nghị quyết của Đảng đã ra đời nhằm
điều chỉnh chỉ đạo lĩnh vực nơng nghiệp nói chung và sản xuất nơng nghiệp nói
riêng, đưa nơng nghiệp và sản xuất nơng nghiệp phát triển ổn định, bền vững,
sánh ngang tầm với các lĩnh vực kinh tế khác của đất nước đang trên đà phát
triển và hội nhập. Giải quyết những bức xúc trong nông nghiệp và sản xuất
nông nghiệp đang đặt ra; đòi hỏi TKTT phải ngày càng đi vào chiều sâu với nội
dung đa dạng, phong phú và chất lượng cao làm cơ sở cho phát triển lý luận,
cung cấp những luận cứ khoa học cho việc bổ sung và phát triển đường lối đổi
mới của Đảng, góp phần vào những thành công to lớn của Đảng và nhân dân ta
đang xây dựng.
Hải Dương là một tỉnh mới được tái lập từ năm 1997 cho đến nay, với
thời gian chưa dài (hơn 10 năm) nhưng Đảng bộ, nhân dân Hải Dương với
bản lĩnh năng động, sáng tạo sớm đưa Hải Dương phát triển trở thành một
tỉnh có cơ cấu kinh tế công - nông - dịch vụ hợp lý. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp từ năm 2000 đến năm 2006 ngày càng thu hẹp thể hiện ở con số chỉ
tiêu sau đây: năm 2000 là 34,8%; năm 2002 là 32%; năm 2005 là 27%; năm
2006 là 26,9% [6, tr.12].



3
Để có một cơ cấu hợp lý theo hướng hiện đại, Hải Dương cũng gặp nhiều
khó khăn trong chỉ đạo tổ chức điều hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp
nói riêng và các thành phần kinh tế khác nói chung, sao cho vừa bảo đảm sự
phát triển bền vững, vừa hợp lý, ổn định mặt cơ cấu..
Làm được điều đó, Đảng bộ tỉnh Hải Dương và các sở, ban, ngành tỉnh
Hải Dương, trong đó có Sở Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn Hải Dương
và các phịng nơng nghiệp huyện ý thức rất rõ việc TKTT, nâng cao chất
lượng TKTT và bám sát các diễn biến của TKTT.
Tuy nhiên, công tác TKTT ở Hải Dương trong thời gian qua đã bộc lộ
một số nhược điểm như còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa bám sát thực tiễn
sản xuất nông nghiệp, chưa chú trọng đến đội ngũ làm công tác TKTT …
Qua khảo sát cho thấy đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên
cứu theo hướng đề tài của tác giả được đăng trên các tạp chí thuộc Khoa học
xã hội và nhân văn, xuất hiện ở nhiều cuốn sách đã được xuất bản. Nhiều
cơng trình khoa học đề cập đến TKTT, đến sản xuất nông nghiệp; nhưng chưa
có một đề tài nào bàn theo hướng tiếp cận của tác giả. Với thực tế TKTT ở
Hải Dương, như vậy, tác giả của luận văn cho rằng, Hải Dương muốn làm tốt
công tác TKTT phải quán triệt quan điểm biện chứng, lịch sử, khách quan;
nhìn thẳng vào sự thật, báo cáo trung thực… Đó là lý do mà tác giả nêu lên
cho hướng đề tài nghiên cứu của mình: “Vấn đề tổng kết thực tiễn sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay”. Với mục đích hệ thống
lại và làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về TKTT và liên hệ đến tình hình
TKTT sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Hải Dương - một vấn đề đang gây nhiều
bức xúc ở xã hội ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến hướng đề tài
TKTT không phải là một vấn đề mới mẻ trong nghiên cứu lý luận, nó
đã được khai thác dưới nhiều khía cạnh khác nhau, với trình độ nơng sâu khác

nhau của nhiều chuyên ngành khác nhau thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
Có thể nêu ra một số c ơng trình tiêu biểu sau đây:


4
2.1. Các cơng trình khoa học nghiên cứu của các tác giả và tập thể
tác giả đã xuất bản thành sách
- Trần Văn Phòng (chủ biên), Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2008. Cuốn sách là kết quả của đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ, đã được Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
nghiệm thu. Trong cuốn sách này các tác giả đã lý giải, chứng minh các khái
niệm và các vấn đề ở góc độ lý luận và thực tiễn như: thế nào là năng lực
TKTT; những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực TKTT; năng lực TKTT của
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, một số nguyên tắc và giải
pháp nâng cao năng lực TKTT của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đồng
bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay. Tác phẩm là cơng trình khoa học
được đánh giá rất cao cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Nguyễn Thị Thơm, (chủ biên), Giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp trong q trình đơ thị hố, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Đây
cũng là cơng trình nghiên cứu của một tập thể tác giả với nội dung gồm 2
chương, 7 tiết; cách tiếp cận của tác phẩm là từ sự nghiên cứu thực trạng một
số tỉnh trọng điểm đồng bằng sông Hồng, mà Hải Dương là tiêu biểu, nhóm
tác giả đã bàn sâu về một số khía cạnh: Đơ thị hố ở Hải Dương và đặc điểm
của lao động nơng nghiệp tỉnh Hải Dương trong q trình đơ thị, thực trạng
giải quyết việc làm và phương hướng giải quyết việc làm…
Cuốn sách tuy bàn về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp,
nhưng tác giả của đề tài luận văn thạc sĩ cũng cho rằng đó là những tư liệu
cần thiết có những giá trị cần thiết để tham khảo.
2.2. Các cơng trình khoa học nghiên cứu của các tác giả đã đăng

trên các tạp chí chuyên ngành
- Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Đẩy mạnh TKTT, nghiên cứu lý luận, tiếp tục
làm sáng tỏ hơn con đường đi lên CNXH ở nước ta, Tạp chí Giáo dục lý luận,
số 9, 2003.


5
- Tác giả Nguyễn Đức Mạnh, Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, Tạp chí Cộng sản, số 3, 2003.
- Tác giả Trần Xuân Sầm, Tổng kết thực tiễn để phát triển lực lượng,
Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6, 2000.
- Tác giả Trần Hữu Tiến, Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện
đổi mới, tạp chí Cộng sản, số 7, 1990…
Các bài viết trên các tạp chí xét một cách khái quát: đều nhấn mạnh đến
công tác TKTT hiện nay của Đảng ta là việc làm rất cần thiết và rất cấp bách;
qua đó chỉ ra hướng đổi mới của Đảng ta, của nhân dân ta và thành quả về
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta có được hơm nay đó là quá trình kế
thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của đất nước, Đảng ta biết TKTT
và rút ra những bài học quý báu từ công tác TKTT qua đó làm luận cứ cho
xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng. Minh chứng cụ thể như:
những chủ trương làm cho sản xuất "bung ra": Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (1979), Khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người
lao động trong các hợp tác xã (1981), công cuộc đổi mới từ 1986 - mốc đánh
dấu bước chuyển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng.
Nhìn chung, các cơng trình đăng trên tạp chí nêu trên đều đề cập đến
những vấn đề rất lớn của đất nước, dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta; không ở một lĩnh vực cụ thể nào, nó có tính khái qt cao trên nhiều
phương diện từ kinh tế, chính trị, qn sự, cơng tác Đảng… Cũng có những
cơng trình có đề cập đến lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cũng ở tầm rất chung
(bài viết của tác giả Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Phú Trọng, Đặng Kim Thành).

Các cơng trình đó khơng giải quyết một cách trình tự như hướng nghiên
cứu và cách tiếp cận của tác giả. Nên tác giả có lý do đi sâu làm rõ đề tài của
mình; một đề tài lý luận khá hấp dẫn, thiết thực có giá trị rất cao cả về lý luận
và thực tiễn cho tỉnh Hải Dương.
Tuy nhiên, đây là một đề tài rất khó, phức tạp cần có thời gian nghiên
cứu và đóng góp tận tình của các nhà khoa học; vì vậy, đề tài chắc chắn còn


6
dừng lại ở mức độ nhất định, chưa đáp ứng được mong mỏi của giới nghiên
cứu lý luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng TKTT sản xuất nơng nghiệp trên địa bàn
Hải Dương, tác giả đề xuất một số giải pháp định hướng nhằm nâng cao hiệu
quả tổng kết thực tiễn về vấn đề này.
3.2 Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ tầm quan trọng của tổng kết thực tiễn sản xuất nông
nghiệp đối với sự phát triển nông nghiệp.
- Phân tích thực trạng TKTT sản xuất nơng nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương cùng những vấn đề đặt ra nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất
tình hình nơng nghiệp Hải Dương.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổng kết thực tiễn
sản xuất nông nghiệp ở Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm trong di sản của C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin, Hồ
Chí Minh về thực tiễn, TKTT, các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến TKTT.
- Sản xuất nông nghiệp, mà nội dung cụ thể là sản xuất lương thực, sản
xuất lúa nước trên địa bàn Hải Dương.

- Các Nghị quyết, văn bản của Đảng bộ Hải Dương cũng như các văn
bản của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Dương.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Do phạm vi nghiên cứu cũng như điều kiện nghiên cứu có hạn, luận
văn khơng có tham vọng đi sâu vào tìm hiểu mọi khía cạnh của lĩnh vực nơng
nghiệp của cả nước nói chung, mà chỉ tìm hiểu việc TKTT sản xuất nông
nghiệp, lương thực, thực trạng lao động nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương từ 2005-2010. Nghiên cứu những quan điểm của các nhà kinh điển


7
của chủ nghĩa Mác - Lênin về thực tiễn, TKTT và sự vận dụng đó trong một
trường hợp cụ thể, đó là địa bàn tỉnh Hải Dương từ 2005 đến 2010.
TKTT là hoạt động của chủ thể, liên quan đến con người. Vì thế phạm
vi nghiên cứu đến chủ thể TKTT là cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt ở tỉnh
Hải Dương, trong đó tập trung tìm hiểu và làm rõ đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý nông nghiệp các huyện và cấp tỉnh ở Hải Dương làm nòng cốt.
5. Cách tiếp cận, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Một trong những nội dung mà các nghị quyết của Đảng thường nêu ra
đó là chúng ta phải thường xuyên bám sát thực tiễn, phản ánh tình hình diễn
biến của thực tiễn mà khơng ngừng TKTT làm luận cứ cho các chủ trương,
chính sách của Đảng; từ đó nhiều cơng trình khoa học đã nghiên cứu tổng kết
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó, trên cơ sở của triết học Mác
- Lênin, luận văn đi vào mảng lý luận mà các nhà kinh điển đã nêu lên. Vậy
thực tiễn, tổng kết thực tiễn là gì, từ đó tác giả tìm hiểu, hệ thống hố và phân
tích sâu sắc những quan điểm này.
Hải Dương là một tỉnh đồng bằng nằm trong tam giác kinh tế năng
động của đồng bằng sông Hồng; trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Hải
Dương đang chuyển mình nhanh chóng; nhiều khu đơ thị và khu cơng nghiệp

mới đang mọc lên, cùng với đó là diện tích đất nơng nghiệp ngày càng bị thu
hẹp. Đất nơng nghiệp vốn là tư liệu sản xuất lâu đời của người dân làm nông
nghiệp cổ truyền. Hải Dương, mặc dù là một tỉnh năng động về phát triển
kinh tế, sớm kêu gọi đầu tư nước ngoài vào làm ăn với tỉnh nhưng đến nay
Hải Dương vẫn là một tỉnh nong nghiệp, diện tích đất cấy lúa vẫn chiếm phần
lớn, nơng dân dựa vào nông nghiệp và sống vào nông nghiệp vẫn là chủ đạo.
Với quan điểm chỉ đạo của Đảng: một mặt, giảm tỷ trọng nông nghiệp
trên tổng GDP, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thành phần
kinh tế quốc dân; mặt khác vẫn phải đảm bảo diện tích đất nơng nghiệp quan


8
trọng, tăng sản lượng lương thực hàng năm, đáp ứng được lương thực cho tỉnh
và góp phần bình ổn lương thực của cả nước; cùng với đó là tránh sự xáo trộn
trong đời sống dân cư nông nghiệp dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội.
Trên cơ sở TKTT sản xuất nơng nghiệp Hải Dương, Đảng bộ; chính
quyền địa phương đã nắm bắt và chỉ đạo như thế nào trước bài tốn nan giải
này, qua đó bộc lộ những gì mà trong cơng tác lý luận cần phải điều chỉnh, bổ
sung. Đó là cách tiếp cận mà đề tài muốn đề cập tới.
5.2. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của Đảng.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh những phương pháp chung, luận văn còn sử dụng các phương
pháp như là công cụ làm rõ cho nội dung của luận văn: phân tích, tổng hợp,
khái qt hóa, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
lôgic, phương pháp lịch sử - cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về TKTT, làm cơ sở khoa học
cho nhận thức và góp phần giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Kết quả nghiên cứu của luận văn làm tài liệu tham khảo cho học viên
chuyên ngành triết học, giảng viên triết học trong các trường chính trị, những
nhà nghiên cứu, những nhà quản lý và những người quan tâm khác trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Luận văn trên cơ sở nghiên cứu lý luận, vận dụng vào thực tiễn cụ thể là
vấn đề sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương nhằm làm rõ mối quan
hệ giữa nghị quyết và cuộc sống; cũng như những mặt đạt được, mặt chưa được
của tổng kết thực tiễn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu với 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
VAI TRÒ CỦA TỔNG KẾT THỰC TIẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1. TỔNG KẾT THỰC TIỄN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TỔNG KẾT THỰC TIỄN

1.1.1 Tổng kết thực tiễn
Trong công tác lý luận - TKTT được coi như cội nguồn của những đột
phá tạo những bước tiến vượt bậc cho phát triển kinh tế - xã hội và cả những
đóng góp cho sự phát triển lý luận. Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng
của TKTT, Đảng ta rất quan tâm công tác TKTT, trong Nghị quyết hội nghị
lần thứ 5 BCH Trung ương khoá IX nêu rõ “đẩy mạnh TKTT và nghiên cứu
lý luận; tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH” [11, tr.42]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh:
Thường xuyên TKTT, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết
đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Nâng cao trình độ trí

tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, làm rõ
cơ sở lý luận, thực tiễn, đường lối chính sách của Đảng trong thời
kỳ mới [14, tr.131].
Trong triết học Mác-Lênin, phạm trù thực tiễn được Mác và Ăngghen
trình bày trong nhiều tác phẩm, trong đó phải kể đến một loạt tác phẩm như:
“Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen-1844, Lời nói đầu”;
“Gia đình thần thánh”; “Luận cương về Phoiơbắc”; “Hệ tư tưởng Đức”;
“Biện chứng của tự nhiên”...
Thực tiễn xuất phát từ tiếng Hy Lạp-praktike, ngun gốc là
“pracktikos”, có nghĩa là tính tích cực, hoạt động, thao tác. Trong triết học
Cantơ, ông tập chung lý giải thực tiễn ở sinh hoạt đạo đức, ở HêGhen dù có
đề cập đến thực tiễn và thực tiễn có vai trị đối với nhận thức song chỉ xem


10
thực tiễn như hoạt động có chủ đích của ý niệm. Phoi-ơ-bắc ông đã phát hiện
ra thực tiễn, nhưng khi phân tích ơng lại coi thực tiễn có tính chất con buôn.
Đến C.Mác, phạm trù thực tiễn được hiểu theo nghĩa rộng, trên cơ sở thế
giới quan triết học DVBC. Theo C.Mác, đó là hoạt động của con người nhằm
đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển; thực tiễn trước hết là quá trình khách
quan của sản xuất vật chất, quá trình này là cơ sở của đời sống của con người,
đồng thời còn là hoạt động cải tạo-cách mạng của giai cấp vơ sản. Vì vậy nó có
“ý nghĩa của hoạt động cách mạng, hoạt động thực tiễn-phê phán” [19, tr.12].
Theo triết học Mác - Lênin: Thực tiễn là hoạt động vật chất, cảm tính
có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và
xã hội [17, tr.347].
Ở đây, con người với tư cách là chủ thể giữ vai trò chi phối trong hoạt
động và nhận thức thông qua thực tiễn, con người đã thực hiện vai trò biến
đổi hiện thực phục vụ những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Thơng

qua hoạt động vật chất, một địi hỏi khách quan đặt ra con người phải thực
hiện các thao tác đánh giá, rút kinh nghiệm, q trình đó đưa lại một cách
nhìn tồn diện về một giai đoạn thực hiện hoạt động của mình, nhận biết được
cả những ưu điểm cũng như hạn chế mà quá trình hoạt động trước đó mang
lại. Từ đó tìm ra các phương án và giải pháp tối ưu cho việc thực hiện các kế
hoạch và mục tiêu đặt ra. Đó chính là hoạt động TKTT.
Như vậy, TKTT là một quá trình tư duy khoa học và phương pháp phân
tích biện chứng, trên cơ sở đánh giá, khái quát hoạt động của con người một
cách khách quan trên lập trường, quan điểm, lợi ích của một giai cấp, một
đảng phái nhất định phù hợp với sự phát triển, tiến bộ của cả dân tộc, quốc
gia, nhân loại trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm và đóng góp cho sự phát triển lý luận, cho quá trình chỉ đạo hoạt động
thực tiễn tiếp theo hướng đến mục tiêu mà chủ thể đặt ra.
Xét về cấu trúc, TKTT là những hoạt động liên quan đến chủ thể
TKTT. Ở đây chủ thể tổng kết giữ vai trò chi phối đặc biệt đến hướng tổng


11
kết, thời gian, khơng gian, mục đích hoạt động của mình. Cũng như hàng loạt
những nhiệm vụ do khách quan đặt ra địi hỏi cơng tác lý luận phải giải quyết.Về
nội dung của tổng kết, theo các nhà kinh điển bao gồm tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tổng kết những thành tựu đạt được của khoa học, sản xuất.
Khi TKTT cần chú ý đến một số điểm sau đây:
Một là, để TKTT được chính xác, kịp thời và sâu sắc cần phải thâm
nhập trực tiếp vào thực tiễn, vào đời sống kinh tế xã hội. Kinh nghiệm hoạt
động của C.Mác và Ph. Ăngghen đối với phong trào công nhân thế kỷ XIX và
công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta đã chứng minh điều đó.
Ở C.Mác và Ăngghen, những bậc thầy của TKTT, khi hai ông tham gia
vào các phong trào công nhân và các cuộc vận động cách mạng ở thế kỷ XIX
đã giúp các ơng có được những tài liệu phong phú để khái quát tình cảnh của

giai cấp công nhân, phong trào cũng như thực chất của xã hội tư bản, khái
quát các giai đoạn cách mạng, phân tích thái độ của từng tầng lớp, giai cấp
trong xã hội. Khi Ăngghen đến Anh (1845) tiếp xúc với phong trào cơng nhân
ở Anh. Ơng đã nhớ lại:
Suốt trong hai mốt tháng trời, do quan sát và do tiếp xúc của
bản thân, tơi đã có thể trực tiếp nghiên cứu giai cấp vô sản Anh,
nghiên cứu những yêu cầu, những lỗi đau khổ và vui sướng của họ,
đồng thời, bổ sung sự quan sát của tôi bằng những nguồn tài liệu
xác thực cần thiết. Những điều trình bày trong tác phẩm này là
những điều tôi trông thấy, nghe thấy và đọc được [20, tr.753].
Với công cuộc đổi mới của Đảng ta, thành công như ngày hôm nay trên
mọi mặt của đất nước, là nhờ những nỗ lực, cố gắng của việc khắc phục
những chủ quan nơn nóng, đồng thời phát huy những sáng tạo của nhân dân
trong phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, thử nghiệm và nhân rộng nhiều
mơ hình sáng tạo trên tồn quốc, trong đó có lĩnh vực nơng nghiệp-mặt trận
gay gắt nhất trên lĩnh vực kinh tế ; trên cơ sở đó Đảng ta tổng kết từ đó mới
có chỉ thị 100 của Bộ Chính trị (1981), Nghị quyết 10-Ban Bí thư (1988)...


12
Hai là, TKTT rất cần có những tài liệu xác thực và nhiều nguồn thông
tin đáng tin cậy khác nhau. “Tài liệu” và “nguồn” ở đây không dừng lại ở
những báo cáo từ cấp dưới cung cấp lên, nguồn thông tin này chỉ là một trong
những “kênh” thông tin chứ không phải là nguồn duy nhất để sử dụng vào
mục đích TKTT. Kinh nghiệm TKTT trong những năm trước đây cho thấy:
những báo cáo từ cơ sở cung cấp có lúc chưa phản ánh một cách khách quan tình
hình đang diễn ra ở địa phương. Đôi khi những mặt không cơ bản trở thành mặt
cơ bản, thậm chí phản ánh méo mó, sai lệch tình hình do muốn chạy theo thành
tích, che lấp những năng lực yếu kém của người lãnh đạo, từ đó khơng nhìn nhận
đúng thực trạng của thực tiễn đang cần, khơng có lời giải đúng đắn, kịp thời thúc

đẩy sản xuất phát triển, mà lại áp đặt ý chí, quan điểm lên thực tiễn “uốn nắn”
thực tiễn theo thiên kiến chủ quan của người lãnh đạo. Hậu quả của nhiều năm
như thế dẫn đến sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân sa sút.
Ba là, sử dụng phương pháp thống kê để tập hợp và chọn lọc tư liệu.
Phương pháp này được nêu lên trong “Lời nói đầu” viết cho tác phẩm “Đấu
tranh giai cấp ở Pháp” từ 1848 đến 1850:
Khơng thể nào nhìn tổng qt được rõ ràng lịch sử kinh tế của
một thời kỳ nhất định ngay trong lúc xảy ra các sự biến; chỉ mãi về
sau, sau khi đã tập hợp và chọn lọc xong những tư liệu, người ta
mới có thể làm được điều đó. Ở đây thống kê là một phương tiện
cần thiết, nhưng bao giờ cũng khập khiễng đi sau [20, tr.753].
Bốn là, sử dụng những phương pháp khoa học phù hợp để sắp xếp, tổng
hợp tư liệu khi TKTT.
Trong TKTT, chủ thể tổng kết không thể chỉ sử dụng một phương pháp
nào đó bất di bất dịch, việc chỉ ra phương pháp phù hợp phải tuỳ vào những
trường hợp cụ thể của đối tượng TKTT và tuỳ thuộc vào việc nghiên cứu,
hoạt động của công tác tổng kết. Chẳng hạn đối với những sự kiện có tính bất
biến, đã từng xuất hiện trong lịch sử và có khả năng trong tương lai sẽ xảy ra,
người ta có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu logic. Tuy nhiên, phương


13
pháp logic về thực chất cũng là phương pháp lịch sử, có điều nó thốt khỏi
hình thái lịch sử và khỏi những hoạt động ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi.
TKTT là một phương pháp căn bản trong việc đánh giá lại một giai
đoạn thực hiện kế hoạch, đối chiếu so sánh với những chủ trương đã áp dụng
vào thực tiễn cũng như nhằm phát triển lý luận, bổ sung và cụ thể hoá cương
lĩnh, đường lối chung của Đảng, của địa phương hoặc của một lĩnh vực cụ thể
nào đó; để tìm ra câu trả lời thật thoả đáng cho những vấn đề thực tiễn đặt ra,
những vấn đề lý luận cịn chưa sáng tỏ, từ đó phát hiện, uốn nắn, sửa chữa

những việc làm chưa đúng, chưa phù hợp; nâng cao trình độ lý luận và năng
lực lãnh đạo của cán bộ, khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh
nghiệm. Tổng kết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, là cách tốt nhất để
phát triển lý luận, làm cho lý luận thực sự có sức sống để hướng dẫn và “thúc
đẩy” thực tiễn không ngừng đi lên.
Tuy vậy, khơng phải vì thế TKTT là cơng việc dễ dàng, bởi TKTT
không phải chỉ là sự phản ánh giản đơn hiện thực, “chụp ảnh” hay mô tả tình
hình, kiểm điểm, liệt kê những ưu, khuyết điểm…TKTT là xuyên qua những
tình hình, những hiện tượng mà phát hiện, đúc rút được những vấn đề cơ bản
có tính cốt lõi, tìm ra được bản chất và quy luật vận động, phát triển của thực
tiễn, từ đó đề ra được những biện pháp giải quyết đúng đắn.
1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến tổng kết thực tiễn
Những nhân tố thuộc về chủ thể TKTT
Trình độ lý luận, trình độ tư duy lý luận:
Muốn TKTT, chủ thể tổng kết phải là người nắm vững những vấn đề lý
luận cơ bản, có quan điểm nhìn nhận thực tiễn đúng đắn, có phương pháp luận
khoa học trong đánh giá và giải quyết các vấn đề, tức là phải nắm vững những
nguyên lý cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nói cách khác chủ thể TKTT phải là người có trình độ lý luận,
trình độ lý luận đưa lại cho chủ thể TKTT có óc phán đốn logic vấn đề, tầm
nhìn bao qt sự vật.


14
Một vấn đề có tính ngun tắc là sự cần thiết về trình độ lý luận đối với
chủ thể tổng kết là đòi hỏi chủ thể TKTT phải thường xuyên trau dồi kiến
thức, nâng cao năng lực, đổi mới tư duy lý luận nhằm thích ứng với sự vận
động khơng ngừng của thực tiễn, làm cho công tác TKTT không rơi vào bị
động, nghèo nàn, chắp vá.
Trình độ tư duy lý luận là khả năng suy nghĩ độc lập, đi vào chiều sâu,

biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào những
điều kiện, trường hợp cụ thể từ đó gạt bỏ những yếu tố mờ nhạt bên ngồi của
sự vật, tìm vào bản chất bên trong phát hiện được mâu thuẫn và xu hướng
phát triển của sự vật. Chủ thể TKTT chỉ có thể phân tích sự vật một cách khoa
học, tìm ra bản chất, động lực xuyên qua vô số hiện tượng của đời sống kinh
tế - xã hội, từ đó tìm ra cách giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phức tạp của
thực tiễn đang đặt ra. Phương pháp tư duy khoa học còn giúp cho chủ thể
TKTT chủ động, sáng tạo trong nhận thức và hành động.
TKTT là hoạt động của nhận thức, của tư duy trên cơ sở năng lực của
chủ thể kiểm điểm lại một quá trình hoạt động đã diễn ra của thực tiễn, mục tiêu
đặt ra cho chủ thể là phải đánh giá đúng thực trạng của thực tiễn; vì vậy, để làm
được việc đó ngồi trình độ chun mơn địi hỏi phải có một tư duy khái quát
cao, một phương pháp làm việc thật sự biện chứng, khoa học có khả năng phát
hiện những ưu điểm và loại bỏ những biểu hiện lạc hậu, sai lầm cũng như những
quan điểm đơn giản, không phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, đồng thời
chống lại khuynh hướng nơn nóng đẩy hiện thực theo hướng “tả” hoặc “hữu”
khơng mong muốn. Muốn vậy chỉ có thể dựa trên nền tảng trình độ lý luận cao.
Bởi sức mạnh của lý luận là ở chỗ trang bị cho chủ thể cách nhìn khoa học,
phương pháp làm việc biện chứng; đồng thời cung cấp tri thức để phát hiện
được bản chất, quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan và nhận
biết một cách đúng đắn kịp thời những diễn biến của thực tiễn.
Phẩm chất đạo đức
Phẩm chất đạo đức giữ vai trò rất quan trọng đối với chủ thể tổng kết,
bởi phẩm chất đạo đức là cái tạo nên nhân cách của người làm công tác


15
TKTT. Trong quá trình TKTT bên cạnh tài năng, đạo đức rất cần cho chủ thể
tổng kết ở chỗ “có tài mà khơng có đức... thì chẳng những khơng làm được gì
ích lợi cho xã hội mà cịn có hại cho xã hội nữa” [23, tr.172].

Vì thế, nhân cách đạo đức của chủ thể tổng kết tác động rất lớn tới một
loạt các yếu tố then chốt: lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, tình hình
phát triển sản xuất, việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước có kịp thời và chính xác không... Đồng thời chống lại những khuynh
hướng vị kỷ phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, cũng như những tư
tưởng không tiến bộ, thủ cựu phong kiến vốn ăn sâu bám rễ trong tư tưởng
của một số người
Phẩm chất đạo đức cần thiết đến TKTT còn là vì q trình tổng kết địi
hỏi một tâm hồn trong sáng, một thái độ trung thực thẳng thắn của chủ thể
tổng kết, hết lịng vì sự phát triển của thực tiễn, của sản xuất, tránh thái độ thờ
ơ, cẩu thả, thiếu trách nhiệm gây nên những hậu quả xấu đến kết quả đạt thu
được từ quá trình TKTT. Bên cạnh đó, người làm cơng tác TKTT phải có tinh
thần đồn kết, khiêm tốn, tính cầu thi cao trong cơng tác, lịng vị tha, có niềm
tin nơi đồng sự, cấp dưới và quần chúng.
Phẩm chất đạo đức của chủ thể tổng kết còn thể hiện ở chỗ tận tâm, tận
lực với công việc, chấp hành luật pháp, tôn trọng kỷ luật công vụ, thi hành
đạo đức công chức, luôn trong sạch cơng minh chính trực…Sự hội tụ các yếu
tố trên trong nhân cách người làm công tác tổng kết đưa đến kết quả tổng kết
cao, góp phần phản ánh chính xác thực tiễn, nắm bắt kịp thời đòi hỏi của thực
tiễn đang cần gì, từ đó có những giải pháp thoả đáng và phù hợp đáp ứng
được sự mong mỏi của thực tiễn đang đặt ra.
Một trong những nhân tố quan trọng nữa không thể thiếu được đối với
chủ thể TKTT là mối liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe tiếng nói phản
hồi từ nhân dân. Để phịng ngừa và loại trừ những nguyên nhân chủ quan,
nóng vội trong việc TKTT.


16
Năng lực cá nhân trong tổng kết thực tiễn
Trong hoạt động TKTT: Năng lực cá nhân, là khả năng tổng kết của

chủ thể đạt được một cách hiệu quả nhất. Nghĩa là những kết luận rút ra từ
TKTT có giá trị về mặt nhận thức là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, chỉ
đạo hoạt động thực tiễn. Năng lực TKTT của chủ thể được biểu hiện cụ thể ở
khả năng xác định đúng và trúng vấn đề cần TKTT; khả năng lập kế hoạch, tổ
chức lực lượng TKTT một cách tối ưu nhất; khả năng thu thập, phân tích, xử
lý thơng tin liên quan tới vấn đề TKTT một cách kịp thời, chính xác, đúng
đắn; khả năng rút ra bài học kinh nghiệm có tính khái qt cao; khả năng vận
dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn và nhận thức.
Trong các biểu hiện thuộc về năng lực chủ thể TKTT, mỗi một nhân tố
giữ một vị trí quan trọng nhất định giúp cho chủ thể tổng kết thành cơng và có
hiệu quả cao, trong đó khả năng xác định đúng và trúng vấn đề cần TKTT
đóng vai trị quan trọng nhất trong thành công của TKTT. Bởi trong cùng một
thời gian, không gian nhiều vấn đề thực tiễn nổi lên, việc tiếp cận, lựa chọn vấn
đề đã khó, việc lựa chọn đúng các vấn đề đang bức xúc càng khó hơn. Việc lựa
chọn đó quyết định tới tồn bộ các thao tác kỹ thuật của TKTT về sau.
Khả năng lập chương trình, kế hoạch, tổ chức lực lượng TKTT một
cách tối ưu nhất cũng đóng vai trị rất quan trọng trong TKTT. Nó thể hiện
tính chủ động, tự giác và khoa học trong TKTT của chủ thể. Nếu khơng có
chương trình, kế hoạch cụ thể, chi tiết cho TKTT thì rất có thể việc TKTT sẽ
dẫn tới bị động, khó đạt hiệu quả mong muốn; vấn đề cần tổng kết có thể bị bỏ
qua. Chương trình, kế hoạch càng chi tiết cụ thể và bao quát bao nhiêu, khả
năng thành công cao bấy nhiêu. Một mặt đáp ứng được tiến độ trong tổng kết,
mặt khác kịp thời lý giải thoả đáng những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Khi ấy
những vấn đề có tình huống phức tạp sẽ được làm rõ. Góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thực tiễn, tiết kiệm chi phí, tiền của, cơng sức của nhân dân.
Khả năng thu thập, phân tích, xử lý thơng tin trong TKTT một cách
nhanh nhạy, chính xác, kịp thời đúng đắn đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Để


17

TKTT được đánh giá là chính xác, phản ánh chân thực, thì việc khai thác và
xử lý thơng tin phải được đặt lên hàng đầu trong hàng loạt các hoạt động của
chủ thể. Tất nhiên trong quá trình thu thập, tiếp cận nhiều nguồn thông tin cần
nhận biết rõ ràng các loại thơng tin; có thơng tin phản ánh đúng tình hình, có
thơng tin giả dối; thơng tin phản ánh bản chất sự vật và thông tin chỉ phản ánh
những hiện tượng rời rạc…
Khả năng rút ra các bài học kinh nghiệm có tính khái qt cao đóng vai
trị quyết định trong quá trình TKTT. Từ những tư liệu, dữ kiện, thông số, tài
liệu, qua khảo sát thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo phương pháp duy vật
biện chứng cũng như các phương pháp: phân tích và tổng hợp; diễn dịch và
quy nạp; so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học, thống kê… để rút ra các kết
luận chính xác có tính khái qt cao. Những kết luận được rút ra từ TKTT có
tính khái qt là những kết luận có giá trị định hướng, chỉ đạo cho hoạt động
thực tiễn và hoạt động lý luận cũng như điều chỉnh, bổ sung đường lối, chính
sách. Để tiếp nhận và xử lý thơng tin có hiệu quả. Chủ thể TKTT phải có trình
độ nhất định về lý luận, có năng lực tư duy lý luận, có khả năng phân tích
tổng hợp… trên cơ sở đó rút ra các kết luận và bài học kinh nghiệm sẽ đúng
và trúng. Như vậy, vai trò định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn tiếp theo của chủ thể TKTT mới đạt yêu cầu cao.
Khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn và
nhận thức tiếp theo đóng vai trị kết thúc một chu trình TKTT và giá trị, ý
nghĩa của TKTT chỉ được phát huy khi các bài học kinh nghiệm rút ra được
vận dụng vào chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Do vậy năng lực vận dụng các bài học vào thực tiễn và chỉ đạo phát
triển thực tiễn là yêu cầu, đòi hỏi ở mỗi người cán bộ TKTT trong giai đoạn
hiện nay. Có thể thấy, năng lực cá nhân trong TKTT đứng ở vị trí trung tâm
trong quy trình tổ chức thực hiện TKTT cũng như hiệu quả TKTT.
Tác động của yếu tố dân chủ với tổng kết thực tiễn
Dân chủ hoá trong đời sống xã hội là quá trình thực hiện trên thực tế
quyền lực thuộc về nhân dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội từ kinh



18
tế, chính trị đến văn hố tinh thần; là q trình đấu tranh phê phán, loại bỏ
những trở lực, sức ỳ cản trở phát triển kinh tế - xã hội chống lại những biểu
hiện tự do vơ chính phủ, lợi dụng tự do dân chủ để chống lại sự nghiệp xây
dựng CNXH của nhân dân ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Dân chủ hoá trong đời sống xã hội sẽ tạo nên sự bình đẳng trong tranh
luận khoa học nhằm giải quyết nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn. Môi trường
dân chủ giúp cho cán bộ TKTT khách quan, toàn diện hơn, phản ánh đúng
quy luật vận động của kinh tế - xã hội. Môi trường dân chủ từng bước hình
thành nên bầu khơng khí thân thiện, cởi mở giữa cán bộ với quần chúng nhân
dân, giúp cán bộ gần dân hơn, nắm được một cách kịp thời tâm tư, nguyện
vọng của họ, từ đó điều chỉnh nhiều chính sách, quyết định phù hợp với thực
tiễn, đáp ứng được nhu cầu chính đáng của quần chúng nhân dân.
Tác dụng của dân chủ hoá trong đời sống xã hội cịn tạo điều kiện cho
cán bộ làm cơng tác TKTT tiếp cận được thông tin đa chiều, thông tin trung
thực từ quần chúng nhân dân, khắc phục được tình trạng thừa mệnh lệnh,
thiếu thông tin...
Việc thực hiện dân chủ trong TKTT, không thể không đề cập tới hai đối
tượng liên quan đến sự thành bại của TKTT. Đó là những cán bộ làm cơng tác
TKTT, họ chính là những người trực tiếp tạo nên linh hồn trong TKTT. Trước
hết để việc phát huy dân chủ được đảm bảo chắc chắn trong TKTT, đối với
cán bộ làm công tác TKTT phải tinh thơng nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt, thật sự là “công bộc của dân”, là người “đầy tớ trung thành”
của nhân dân. Đây là những phẩm chất cần thiết của mỗi người cán bộ,
đảng viên nói chung và cán bộ làm cơng tác TKTT nói riêng. Bởi trong bối
cảnh hiện nay một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không chỉ yếu về
nghiệp vụ mà cịn thối hố về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống,
nhiều phần tử cơ hội, biến chất vẫn tồn tại trong bộ máy công quyền chưa

bị phát hiện, loại bỏ. Môi trường dân chủ là chất xúc tác phát huy tác dụng
tốt trong TKTT bởi nó làm cho quá trình TKTT đi đúng hướng, đảm bảo


19
được tiến độ đặt ra trong TKTT, đồng thời là bài thuốc loại bỏ những phần
tử thoái hoá, biến chất. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng để những phẩm chất
đó phát huy mạnh mẽ trong TKTT không chỉ là những nỗ lực của chính chủ
thể TKTT, mà rất cần một hành lang pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ, giúp
họ tận tâm trong lĩnh vực của mình.
Đối tượng thứ hai góp phần làm cho cơng tác TKTT ở một địa phương
cũng như cả nước thành cơng đó chính là nhân dân - người gắn bó trực tiếp
với những diễn biến tình hình của thực tiễn. Trước hết cần nâng cao trình độ
mọi mặt của nhân dân từ kinh tế, chính trị, tư tưởng; đến nâng cao trình độ
dân chủ cho nhân dân, đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế để nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình, trong điều kiện của nước ta hiện nay vấn đề này
nhìn chung còn yếu. Thực tế cho thấy nhiều người dũng cảm nói lên những
yếu kém về năng lực lãnh đạo của cán bộ, suy thoái về đạo đức, lối sống, về
tình trạng sa sút của sản xuất, đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm dân
chủ; họ không những không được bảo vệ cần thiết và đúng mức, mà còn bị
trù dập, chà đạp thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng bản thân và gia đình.
Tình trạng này làm thui chột tinh thần đấu tranh của một bộ phận nhân dân,
khơng kích thích tính năng động, sáng tạo; dẫn đến khơng khí dân chủ trong
đời sống xã hội của nhân dân trở lên ngột ngạt. Kết quả là việc phát huy vai
trị của nhân dân đối với cơng tác tổng kết chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn. Thực tiễn lịch sử cho thấy nếu không đẩy mạnh quyền dân chủ, nhất
là dân chủ từ cơ sở, người dân không có tiếng nói thực sự trong đời sống
chính trị, khơng có ảnh hưởng trong hoạch định chính sách thì mục tiêu phát
triển kinh tế khó có thể đạt được, cơng tác TKTT cũng vì thế khơng đạt được
kết quả cao.

Biện chứng của cuộc sống, bài học muôn đời được lịch sử đã khẳng
định, quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Vì vậy chỉ
khi nào huy động được sức mạnh, trí tuệ của đơng đảo quần chúng nhân dân
vào TKTT thì khi ấy cơng tác TKTT sẽ đạt được hiệu quả thiết thực.


20
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỔNG KẾT THỰC TIỄN SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

1.2.1 Tổng kết thực tiễn đóng vai trị bổ sung, hồn thiện chính
sách phát triển kinh tế nơng nghiệp
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta nói chung, ngành nơng
nghiệp nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn. Sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn hiện nay thể hiện sự nỗ lực to lớn của nhà nước ta trong chỉ
đạo và quản lý nền nông nghiệp. Nói đến các chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với nơng nghiệp, nơng thơn là nói đến hệ thống những cơng cụ hữu hiệu có
tính pháp lý, tính hiệu quả kinh tế và tính khả thi trong chỉ đạo thực tiễn nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Từ khi đổi mới đến nay Đảng và Nhà nước đã
ban hành hàng loạt các Nghị định, Quy định, văn bản pháp luật phát triển nông
nghiệp, nông thôn nhằm thực hiện chức năng quản lý của nhà nước đồng thời đảm
bảo tính phát triển, tính ổn định của nơng nghiệp, nơng thơn nước ta. Nhờ đó, nền
nơng nghiệp nước ta ln đạt được sự tăng trưởng, xã hội nông thôn không ngừng
biến đổi cả về diện mạo cũng như chất lượng sống của người nơng dân.
Có được các chủ trương, chính sách đúng đắn suốt thời gian dài vừa
qua là do Đảng ta tăng cường công tác TKTT sản xuất nông nghiệp, giữ mối
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân; tiếp thu và phát triển lý
luận. Điều đó cho thấy vai trị của cơng tác TKTT là rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế, đặc biệt là TKTT sản xuất nơng nghiệp đưa lại chính sách
đúng đắn hợp lòng dân, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc cho nơng dân, qua đó

càng củng cố thêm lòng tin của của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ
khi Đảng ta phát động công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước đến nay bộ mặt
nơng nghiệp nói chung và sản xuất nơng nghiệp nói riêng thay đổi rõ rệt, cho
thấy chính sách đúng đắn đã đưa lại đời sống nhân dân ấm no phấn khởi, sản
xuất nông nghiệp không ngừng được củng cố và phát triển.
Sự tác động của các chính sách đối với nơng nghiệp, nơng thơn cịn thể
hiện ở chỗ: thơng qua các chủ trương, chính sách phát triển nơng nghiệp,


21
nơng thơn, nhà nước cịn thực hiện được vai trị quản lý trên ba phương diện:
định hướng sự phát triển, phân bổ nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội và điều
tiết sự phát triển trong nông nghiệp và sản xuất nơng nghiệp. Nhờ những tác
động này mà có bước chuyển biến mạnh mẽ trong nơng nghiệp, nơng thơn.
Đó là sự chuyển biến cả trong mơ hình sản xuất kinh doanh lẫn sự đa dạng
các hình thức tiêu thụ sản phẩm, cả trong đời sống vật chất lẫn trong đời sống
tinh thần của người nông dân, cả trong nguồn thu nhập lẫn sự đa dạng hoá
nguồn thu nhập. Tác động của các chính sách của Nhà nước cịn đưa đến nông
nghiệp nước ta đang chuyển dần sang nền sản xuất theo cơ chế thị trường, sản
phẩm nông nghiệp ngày càng trở thành hàng hoá nhiều hơn trong tổng sản
phẩm nơng nghiệp, tác phong lao động đang dần hình thành theo hướng hiện
đại hố. Sự phát triển của nền nơng nghiệp nước ta từ khi đổi mới đến nay đạt
được những thành tựu to lớn, đó là do sự tác động của hai bàn tay: nhà nước
và cơ chế thị trường. Nhà nước từ chỗ dựa trên sở hữu tập thể về ruộng đất
đến giao đất, giao ruộng cho nông dân, hình thành hàng loạt các trang trại sản
xuất nơng nghiệp. Các chủ trương, đường lối đã làm tốt vai trò định hướng,
chỉ đạo, phát triển đúng đắn đối với nơng nghiệp, làm tốt vai trị quản lý của
nhà nước, trong đó phải kể đến các chính sách thúc đẩy sự phát triển của thị
trường nông nghiệp. Khi thị trường đi vào vận hành đã thể hiện sự kết hợp
một cách hợp lý giữa cơ chế tự điều chỉnh của “bàn tay vơ hình” với cơ chế

quản lý của nhà nước.
Như vậy, có được các chính sách đúng đắn hợp lòng dân, vai trò chỉ
đạo và quản lý nhà nước có hiệu quả thiết thực hơn là nhờ cơng tác TKTT kịp
thời; phản ánh trúng vấn đề và tháo gỡ đúng những bế tắc mà thực tiễn đang
đặt ra. Việc thay đổi mơ hình quản lý của nhà nước và mơ hình phát triển kinh
tế nơng nghiệp như hiện nay cũng là kết quả của lời giải bài tốn nơng nghiệp
hóc búa, nhờ tập trung tăng cường cơng tác TKTT sản xuất nơng nghiệp. Từ
đó giúp cho việc sửa đổi, bổ sung chính sách phát triển nơng nghiệp và sản
xuất nông nghiệp đúng đắn.


22
Trước đổi mới, từ sau năm 1975, nông dân bắt tay xây dựng đời sống
mới trên quê hương mình, Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 4/1976) - Đại
hội đầu tiên sau khi đất nước độc lập và thống nhất, các cơ chế quản lý cũ và
lạc hậu trong nơng nghiệp vẫn được duy trì ngun vẹn. Trong kháng chiến
quy luật của chiến tranh đã che mờ đi những mâu thuẫn nội tại của hợp tác xã,
người nông dân vẫn phải chịu đựng; mong rằng đến ngày toàn thắng, khốn
việc sẽ khơng cịn tồn tại và được thay đổi sau Đại hội IV (1976). Nghị quyết
Đại hội ra đời cùng các cơ chế quản lý cũ được nhà nước tiếp tục thể chế hố,
trở thành sợi dây vơ hình trói mỗi xã viên, xã viên hợp tác xã vẫn phải sống
nhờ mảnh đất 5%. Trước tình cảnh bức xúc đó, nhiều cơ sở trong cả nước,
nơng dân và đảng viên đã lẳng lặng, kín đáo chuyển sang khốn sản phẩm,
khoán tới hộ, ta quen gọi là “khoán chui”.
Đến những năm 80 của thế kỷ XX tình hình sản xuất nông nghiệp và
đời sống nông dân căng thẳng đến độ không thể tiếp tục được nữa; nhiều hội
nghị của trung ương liên tiếp được triệu tập bàn về thực trạng trong sản xuất
nơng nghiệp, trong đó trung ương Đảng có Nghị quyết “về tình hình và nhiệm
vụ cấp bách” (9/1979). Các Hội nghị đều xoay quanh hai nội dung quan trọng,
nịng cốt trong sản xuất nơng nghiệp: “khốn việc” hay “khoán sản phẩm” tuy

nhiên, do những tư duy giáo điều, duy ý chí, “khốn sản phẩm” giai đoạn này
trong sản xuất nông nghiệp vẫn chưa được chấp nhận và bị lên án kịch liệt
thậm chí có quan điểm cho rằng “bỏ khốn việc là bỏ Đảng”.
Tình hình thực tế khơng dừng lại ở đó, quan điểm của nhiều cán bộ
Trung ương vẫn bảo vệ “khốn việc”, trong khi đó “khốn chui” của nhân dân
nhiều nơi đã cho thấy năng suất lúa ngày một tăng, người nông dân tự giác
chủ động trong sản xuất nơng nghiệp, về mặt hình thức nơng dân vẫn thừa
nhận khoán việc, nhưng thực tế họ chống lại khoán việc.
Quan điểm giữa “khoán việc” và “khoán sản phẩm” chỉ được ngã ngũ
khi Chỉ thị 100 của Ban Bí Thư ra đời ngày 13/1/1981 về “cải tiến cơng tác
khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong


23
HTX nơng nghiệp” cơng nhận khốn sản phẩm là hợp pháp.Đây cũng là kết
quả TKTT sản xuất nông nghiệp của Đảng ta.
Từ đây, sản xuất nơng nghiệp nói riêng và ngành nơng nghiệp nói
chung bước sang một trang sử mới; tất nhiên từ chỉ thị 100 của Ban Bí Thư
đến Nghị quyết TƯ 7 khoá X là cả một chặng đường dài gian khổ, là sự đấu
tranh giữa thực tế và sai lầm trong chính sách phát triển nơng nghiệp của
Đảng và nhà nước ta. Nhưng chỉ thị 100, tiếp đến Nghị quyết 10 của Bộ
Chính Trị (1988) là địn bẩy, cú hích giúp nơng nghiệp thay đổi diện mạo.
Con đường giải phóng nơng dân, phát triển nơng nghiệp thực sự rất gian
truân, từ khi hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ (1988) đến
nay, hơn 20 năm nơng nghiệp nước ta đã có bước phát triển mới, đời sống
nông dân đã được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã khang trang hơn trước. Thế
nhưng nơng nghiệp, nơng thơn cịn đứng trước nhiều thách thức to lớn, trong
đó phải kể đến các thách thức mà nhà nước, nhân dân đang phải đối mặt như:
sản xuất nơng nghiệp cịn manh mún và phân tán, chưa đủ sức tạo ra sản
phẩm hàng hố trên quy mơ lớn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng

suất và hiệu quả kinh tế thấp, hạn chế sức cạnh tranh của các ngành hàng
nơng sản, tăng trưởng nơng nghiệp có xu hướng giảm; cơ sở hạ tầng, điều
kiện sống của nhân dân nơng thơn cịn thua xa đơ thị; chất lượng các dịch vụ
xã hội thấp, nghèo vẫn tương đối phổ biến; thiếu hệ thống an sinh, phòng
ngừa rủi ro…
Như vậy, thực tiễn chứng minh chặng đường tư khoán việc đến khoán
hộ, từ khoán chui đến thừa nhận khoán chui là hợp pháp, phản ánh một quy
luật tất yếu của nhận thức là thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động TKTT,
nhận thức về sự vật ngày càng hoàn chỉnh, chính xác và sâu sắc hơn, lý luận nhờ
đó cũng được bổ sung, phát triển. Từ đó mở ra một chân lý đúng đắn cho sự
phát triển sản xuất nơng nghiệp nước ta, chân lý đó khơng thể có được từ việc áp
dụng các mơ hình từ bên ngồi vào, mà phải qua tính tích cực của cơng tác
TKTT, bám sát cơ sở, lắng nghe nhân dân, mở rộng dân chủ; khẩn trương làm rõ


24
những bế tắc từ các chính sách, phát hiện những nhân tố sáng tạo của nhân dân.
Bài học của công tác TKTT sản xuất nông nghiệp cho thấy: nếu như thờ ơ, xem
nhẹ công tác TKTT, không chủ động phát hiện và phát triển nhân rộng những giá
trị sáng tạo của nhân dân đã được kiểm nghiệm bởi thực tiễn sản xuất, thì khơng
thể nào có được sáng tạo và cách mạng của lý luận, khơng thể có bước tiến của
sự phát triển thực tiễn sản xuất nông nghiệp.
1.2.2. Khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, chủ quan duy
ý chí trong chính sách phát triển kinh tế nơng nghiệp
Trong “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiến qua 20 năm đổi
mới (1986 - 2006) Đảng ta khẳng định: “Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt bất cập
trước yêu cầu mới; thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng
lực chuyên môn, một số thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống” [11, tr.125].
Những biểu hiện yếu kém của cán bộ, đảng viên hiện nay ở nhiều phương diện,
trong đó đáng chú ý nhất trong nhận thức và tư duy đó là tư duy biện chứng;

bệnh kinh nghiệm giáo điều, chủ quan duy ý chí vẫn tồn tại và tác động xấu
đến nhận thức và công tác, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của
cán bộ đảng viên. Do vậy, nâng cao năng lực tư duy biện chứng, chống bệnh
kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan duy ý chí trong cán bộ đảng viên là một
nhiệm vụ cấp bách. Bệnh kinh nghiệm thực chất là tư tưởng tuyệt đối hoá
kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, người mắc bệnh kinh nghiệm
thường thoả mãn với vốn kinh nghiệm cảm tính thu được từ hoạt động thực
tiễn của bản thân, ngại học lý luận, ngại nâng cao trình độ lý luận, coi thường
khoa học kỹ thuật, thiếu tầm nhìn xa trông rộng.
Ở nước ta do xuất phát điểm thấp của một nước nông nghiệp thuộc địa
bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đi lên xây dựng CNXH với các đặc điểm tư
liệu sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; trình độ dân trí thấp, tư tưởng phong kiến cịn
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tình cảm, tâm lý, sinh hoạt cũng như tác
phong làm việc của cán bộ đảng viên, vì thế là mảnh đất thuận lợi cho bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều tồn tại và phát triển.


25
Trong lĩnh vực nông nghiệp, bệnh kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan
duy ý chí cũng gây tác hại khơng nhỏ đến phát triển kinh tế nông nghiệp. Do
nhận thức chưa đúng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã ra sức vận
động, thậm chí một số nơi gần như cưỡng bức nơng dân thực hiện hợp tác hố
khi mà họ chưa có thời gian “suy nghĩ trên luống cây của họ”. Cần nói thêm
rằng, chủ trương nóng vội muốn xây dựng CNXH lớn mạnh, đã thúc ép nông
dân vào hợp tác xã, xây dựng hợp tác xã ngày một phình to, với tư tưởng cho
rằng: càng có nhiều hợp tác xã, hợp tác xã càng to càng mau chóng có CNXH,
khơng chỉ ở Việt Nam mà Trung Quốc trong thời ký cải tạo XHCN, bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất của CNXH (1953 - 1965) [25, tr.39] cũng mắc phải.
Chính với tư tưởng nóng vội, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp trong thời kỳ 1976 - 1986 dẫn đến tình trạng trì trệ, bất

hợp lý, sản xuất nơng nghiệp đình đốn, sản lượng lương thực giảm, đất đai bị
bỏ hoang dẫn đến tình trạng lãng phí tài ngun đất, đời sống nông dân ngày
càng khổ cực, sản xuất và lương thực phải giao nộp sản phẩm hết, người nông
dân không thiết tha đến hợp tác xã … Do vậy, Đảng ta nghiêm túc kiểm điểm
và tìm hiểu ý nguyện của nhân dân để đổi mới, nhằm tháo gỡ những khó
khăn, ách tắc trong sản xuất; bất hợp lý trong phân phối, lưu thông làm cho
sản xuất phát triển.
Tăng cường TKTT là một biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực
tư duy biện chứng, chống bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, chủ quan duy ý
chí trong việc đề ra các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp
Trên cơ sở TKTT, cán bộ đảng viên thấy được những ưu điểm của kinh
nghiệm cũng như hạn chế vốn có của nó, từ đó tìm các giải pháp để ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm. TKTT còn giúp cán bộ Đảng viên khi
học tập, vận dụng lí luận khơng giáo điều, máy móc cũng như không vụn vặt,
qua loa, lý luận ra đời là từ cuộc sơng đi lên và lí luận chỉ có giá trị khi xuất
phát từ thực tiễn, vì sự phát triển của thực tiễn. Rõ ràng, TKTT sẽ bổ sung cho
vốn sống kinh nghiệm cho các nhà lãnh đạo, quản lý được nâng lên tầm cao


×