Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN vai trò của chủ nghĩa yêu nước đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.04 KB, 27 trang )

Mục Lục
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................................................3
I.

Chủ nghĩa yêu nước qua các thời kì.....................................................................................3
1.

Khái niệm về yêu nước và đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam....3
1.1
Tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo
vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ....................................................................3
1.2
Niềm tự hào về lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập qn và những truyền
thống tốt đẹp khác của dân tộc.............................................................................................3
1.3
Yêu nước gắn liền với yêu dân, với tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong
cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang,….............................................................4

2.

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh....................4
2.1
Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp thống nhất giữa
lập trường dân tộc với lập trường giai cấp cơng nhân........................................................5
2.2 Chủ nghĩa u nước Hồ Chí Minh gắn liền lý tưởng độc lập dân tộc với khát vọng dân
chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân.....................................................................................5
2.3 . Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước
nồng nàn với tinh thần quốc tế chân chính...........................................................................5

II.



Vai trị của chủ nghĩa yêu nước đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh............12

III.

Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước trong tình hình mới..................15

3.1 Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới...............................................................15
311 Hồ Chí Minh ln đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam......................15
3.1.2 Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc Việt
Nam.....................................................................................................................................17
3.1.3 Hồ Chí Minh coi trọng việc kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc
Việt Nam lên tầm cao mới..................................................................................................19
3.2 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước lên tầm cao mới.........................21
KẾT LUẬN...................................................................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................27


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là một bộ phận hợp thành
nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Nghiên
cứu và nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
là tiền đề vững chắc để nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng
của Người.
Theo đó, cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ những mối quan hệ có tính quy luật,
nguyên tắc về sự ra đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, nghiên cứu
mối quan hệ biện chứng chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc với tư tưởng Hồ
Chí Minh là cơ sở quan trọng để thấy sự tác động của chủ nghĩa yêu nước dân tộc
ta đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trị, cơng lao to

lớn của Hồ Chí Minh trong kế thừa, phát triển các chủ nghĩa yêu nước của dân tộc
Việt Nam lên một tầm cao mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, khu vực, trong nước đã và đang đặt ra một tất yếu khách quan, mang tính
cấp thiết, địi hỏi phải đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh
với chue nghĩa yêu nước dân tộc Việt Nam và vận dụng trong công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức hiện nay, để khắc phục những hạn chế
và góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phát hiện và phản bác lại
những tư tưởng, luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch bảo vệ vững
chắc nền tảng tư tưởng của Đảng ta.


NỘI DUNG
I.

Chủ nghĩa yêu nước qua các thời kì

1. Khái niệm về yêu nước và đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam
Yêu nước là một tình cảm tự nhiên của con người đối với quê hương xứ sở,
với ngơn ngữ, văn hóa, lịch sử và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cùng với
sự hình thành dân tộc và nhà nước dân tộc thì yêu nước từ một tình cảm, một yếu
tố tâm lý xã hội đã tiến dần lên thành một ý thức xã hội. Ý thức đó khi đã phát triển
thành một hệ thống thì tình cảm u nước có khả năng trở thành chủ nghĩa yêu
nước có giá trị như một hệ tư tưởng.(Nói có khả năng, vì khơng phải ở quốc gia,
dân tộc nào, tình cảm yêu nước cũng phát triển thành chủ nghĩa yêu nước). Vậy
chủ nghĩa yêu nước là gì? Hiểu một cách đơn giản, chủ nghĩa yêu nước là một hệ
thống quan điểm chỉ đạo tình cảm, thái độ, hành động, cách ứng xử,…của mỗi
người dân đối với tổ quốc (trong xây dựng và bảo vệ đất nước).
Đối với người Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước là một giá trị tinh thần cao quý, kết

tinh những tư tưởng, tình cảm thiêng liêng nhất, là hệ chuẩn mực cao nhất trong
bảng giá trị tinh thần truyền thống dân tộc, đã trở thành một nguyên tắc chính trị đạo đức - thẩm mỹ của con người Việt Nam. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước là
dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử tư tưởng nước ta, từ khi lập quốc cho tới nay.
Ở Việt Nam, yêu nước vừa là tình cảm, vừa là tư tưởng mà cũng đồng thời là triết
lý, “ là kim chỉ nam cho hành động, là một tiêu chuẩn để nhận định đúng-sai, tốtxấu, nên-chăng của người Việt Nam ’’ như ý GS Trần Văn Giàu đã phát biểu.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
hình thành nên một hệ thống chuẩn mực, được biểu hiện qua những đặc trưng chủ
yếu sau đây:
1.1 Tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Được thể hiện qua những áng văn thơ, như bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường
Kiệt; như lời khẳng định của Lê Thánh Tông: một thước núi, một tấc sông,…của tổ
tiên, kẻ nào đem cho giặc sẽ phải tội chu di!,… .
1.2 Niềm tự hào về lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập qn và
những truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc.


Thể hiện qua những tác phẩm như “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi, Hịch ra
trận của vua Quang Trung: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho
chúng chích luân bất phản, đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri
Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
1.3 Yêu nước gắn liền với yêu dân, với tinh thần đoàn kết, nhân ái,
khoan dung trong cộng đồng và hịa hiếu với các dân tộc lân bang,

Tóm lại, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không đơn thuần chỉ là một tình cảm mà là
một hệ thống tư tưởng phong phú, nhiều điểm còn chờ sự phát hiện, bổ sung của
các nhà triết học và sử học. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã phát
huy sức mạnh vơ địch của nó trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Từ thế kỷ
thứ X đến thế kỷ XX, trong điều kiện quá chênh lệch về tương quan lực lượng, dân
tộc Việt Nam, với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, đã làm nên 10 đại chiến công

chống ngoại xâm, liên tiếp trong 10 thế kỷ. Đó là: Ngô Quyền đánh thắng quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất, Lý Thường Kiệt
phá Tống lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng quân Nguyên, Lê Lợi đánh
đuổi quân Minh, Quang Trung đại phá quân Thanh và Hồ Chí Minh cùng với quân
dân cả nước lần lượt đánh bại hai đế quốc to. Đó là những chiến cơng hùng vĩ,
được tạo nên bởi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, mãi mãi rạng ngời trên trang
sử nước nhà.
2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, đồng thời là một bước phát triển mới so với
chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống chịu sự chi
phối nhất định của hệ tư tưởng phong kiến và phần nào của hệ tư tưởng tư sản, nên
bên cạnh những giá trị tốt đẹp, vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định, như
đầu óc dân tộc hẹp hịi, vị kỷ, chủng tộc chủ nghĩa,…(Đến như văn thơ thời Đông
Kinh nghĩa thục vẫn còn lưu truyền những định kiến lệch lạc, như: Giống vàng,
giống trắng tinh anh, Giống đen, giống đỏ, giống xanh ngu hèn!). Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam hiện đại được bổ sung và phát triển trong thế kỷ XX, nhờ kết hợp
được tinh hoa dân tộc và giá trị thời đại, nên đã đạt tới một chất lượng mới. Chính
chủ tịch Hồ Chí Minh là người có cơng đầu trong việc vận dụng thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa khơi dậy được những truyền
thống tốt đẹp ngàn năm của dân tộc, vừa bổ sung thêm những nhân tố mới, nâng


chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên ngang tầm phát triển của thời đại. Vì vậy,
cũng có thể gọi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại là chủ nghĩa u nước Hồ
Chí Minh, như Luật gia Vũ Đình Hịe đã từng đề xuất.
Trong bước đầu nghiên cứu, có thể sơ bộ nêu lên mấy nội dung cơ bản của chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh như sau:
2.1 Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp

thống nhất giữa lập trường dân tộc với lập trường giai cấp công
nhân
Chủ nghĩa yêu nước ở thời nào cũng chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng của giai cấp
cầm quyền. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được xây dựng trên lập trường của
giai cấp cơng nhân, do đó, lần đầu tiên nó đạt tới sự hài hịa giữa lợi ích của dân
tộc với lợi ích của nhân dân lao động. Nó khắc phục được tính hẹp hịi của chủ
nghĩa dân tộc vị kỷ cùng những hạn chế khác của chủ nghĩa yêu nước phong kiến
và tư sản (như chủ nghĩa đại dân tộc, chủ nghĩa sô-vanh,…).
2.2 Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh gắn liền lý tưởng độc lập dân
tộc với khát vọng dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người thường nói: Nước lấy dân làm gốc, dân là chủ, “Nếu nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Vì vậy,
yêu nước là phải phấn đấu làm sao cho nước độc lập, thống nhất, dân chủ, giầu
mạnh, ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành,…Người nói một cách
thống thiết: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”
2.3 . Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa chủ
nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế chân chính.
Đây là một đặc trưng mới của chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, được Người kiên
trì giáo dục, thực hiện nhất quán và đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc sô-vanh, chủ nghĩa quốc gia vị kỷ, chủ nghĩa bành
trướng đại dân tộc,…Ngay từ khi mới bước chân ra nước ngồi, hịa mình vào
phong trào cơng nhân và phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa,
Người đã nêu cao tinh thần quốc tế chân chính:
“Rằng đây bốn biển một nhà
Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”
(Nhật ký chìm tàu)
Dù thế giới ngày nay đã có nhiều thay đổi, chủ nghĩa xã hội khơng cịn tồn tại như
một hệ thống thế giới, song đặc trưng này vẫn không thay đổi, bởi nếu đã từ bỏ chủ



nghĩa quốc tế cao cả và trong sáng, thì chẳng những khơng cịn là người cách mạng
chân chính mà cũng không xứng đáng được coi là một dân tộc văn minh trong thế
giới hội nhập, cùng phát triển hiện nay. Chúng ta đang sống trong một thế giới
phức tạp, đầy biến động với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các xu hướng dân tộc vị kỷ,
cực đoan, dẫn đến các cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc đẫm máu, có nguy cơ lơi
cuốn lồi người vào một cơn lốc bạo lực mới, chưa biết khi nào có thể chấm dứt
được. Vì vậy, giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên và nhân dân
ta hiện nay, cần phải qn triệt cả ba nội dung nói trên, khơng được coi nhẹ một
mặt nào. Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã là một người
yêu nước nồng nhiệt. Con đường dẫn ông đến với chủ nghĩa Lênin cũng xuất phát
từ lịng u nước. Vì nóng lịng cứu nước, nên khi nhận thấy Quốc tế 3 tuyên bố
ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa bằng những hành động cụ
thể, thiết thực, còn Quốc tế 2 chỉ dừng lại trên lời nói, nên ơng đã bỏ phiếu tán
thành Quốc tế 3.
Tuy đã gia nhập hàng ngũ cộng sản, nhưng toàn bộ tâm niệm, ý chí và hoạt động
của ơng Nguyển vẫn chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là cứu nước, giải
phóng dân tộc. Viên bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp e ngại trước hoạt động hăng say
của ông, đã triệu tập ông Nguyễn lên gặp, vừa đe dọa vừa dụ dỗ, nhưng ông đã
khảng khái đáp lại: “Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tơi, đó là tất cả
những gì tơi muốn, tất cả những gì tơi hiểu”
Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, vào giữa những năm 20 của thế kỷ trước, có
người hỏi: : “Ơng là người cộng sản hay là người theo chủ nghĩa Tơn Dật Tiên?”. –
Ơng trả lời: “Tơi vẫn là tơi ngày trước, một người u nước”. Ơng Nguyễn ln
ln cơng khai quan điểm và mục tiêu chính trị của mình. Ngay từ năm 1924, tại
Maxkva-trung tâm đầu não của Quốc tế CS, Nguyễn Ái Quốc đã dõng dạc khẳng
định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Người ta sẽ khơng thể
làm gì cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của
họ”. Cần hiểu đúng khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây
như Mác đã nói “ khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản đã hiểu ”. Chủ

nghĩa dân tộc bản xứ mà Nguyễn Ái Quốc đề cập chính là chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng
nghìn năm lịch sử. Do sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương và Việt Nam chưa diễn
ra triệt để như ở phương Tây, các dân tộc thuộc địa còn phải đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, thì ở đó, đấu tranh dân tộc vẫn là một động
lực lớn của lịch sử. Từ lập luận đó, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành


động của Quốc tế cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế cộng
sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ
biến thành chủ nghĩa quốc tế . Điều này, hồn tồn trùng hợp với ý như Angghen
đã nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào cơng nhân bao giờ
cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính” . Có thể thấy, xuất phát từ vị trí cùa
người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã đánh
giá rất cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, coi đó là một
động lực lớn mà những người cách mạng phải nắm vững và giương cao, không để
ngọn cờ dân tộc bị lợi dụng trong tay bất cứ lực lượng chính trị cơ hội nào khác.
Sau Cách mạng tháng Tám thành cơng, trả lời các nhà báo nước ngồi, chủ tịch Hồ
Chí Minh tun bố: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đọc “Báo cáo chính trị” tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa lại khẳng
định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Từ đó, Người yêu cầu
Đảng phải ra sức “phát triển tinh thần yêu nước của dân ta, phải làm cho tinh thần
đó “được đem thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc,
Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ ta: “Hễ là người Việt Nam thì ai cũng có

lịng u nước, ghét giặc”. “Đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lịng ái quốc”, vì vậy phải ra sức phát triển nó lên. Nói chuyện tại Hội nghị học tập
của cán bộ ngành Tư pháp (1950), Người đã phát biểu: “Trước hết phải đề cao lòng
yêu nước, thương đồng bào, phải căm ghét bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai
của chúng,…Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác trong lúc
này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương
dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho
nước được độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ…”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc phát huy tinh thần yêu nước của
nhân dân vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Người nói: “Sau 80 năm bị đơ hộ,
cái gì ta cũng thiếu thốn, chỉ có lịng u nước của dân ta là dồi dào”. Để xây dựng
nền tài chính quốc gia và ngân sách quốc phòng, ngày 4-9-1945, Người ký sắc lệnh
đặt ra “Quỹ Độc lập” và gửi thư kêu gọi các tầng lớp nhân dân hưởng ứng “Tuần lễ
vàng” ủng hộ Chính phủ. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ 17 đến 24-9-1945, nhân


dân cả nước, đặc biệt ở các thành phố, đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng,
20 triệu đồng (Tiền Đông Dương) vào Quỹ Độc lập và 40 triệu đồng vào Quỹ đảm
bảo quốc phịng. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước dồi dào và sốt sắng của nhân
dân. Để đẩy mạnh kháng chiến mau đến thắng lợi, năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí
Minh phát động “phong trào thi đua yêu nước”. Hưởng ứng lời kêu gọi và cổ vũ
của Người, một phong trào thi đua yêu nước sôi nổi đã rầm rộ phát triển trong các
ngành, các giới, các địa phương. Từ trong phong trào đó đã xuất hiện những điển
hình xuất sắc, được tuyên dương anh hùng lao động và chiến sĩ thi đua toàn quốc,
tiêu biểu như các anh hùng La Văn Cầu, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần
Đại Nghĩa,… Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
được Người nâng cao lên một bước mới. Khẩu hiệu: “Khơng có gì quý hơn Độc
lập, Tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra vào lúc đế quốc Mỹ đem máy bay
ra miền Bắc, ném bom, bắn phá, giết hại đồng bào ta, tàn phá đất nước ta. Lời kêu
gọi của lãnh tụ kính u đã có sức lay động mạnh mẽ, biến sức mạnh của lịng u

nước và chí căm thù của quân dân ta thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song,
đưa đến thắng lợi vĩ đại mùa xuân 1975, hoàn thành sự nghiệp vẻ vang: giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trước khi vĩnh biệt chúng ta, Người còn căn dặn
lại trong Di chúc: “Mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và
bia kỷ niệm ghi sự anh dũng hy sinh của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần
yêu nước cho nhân dân ta”. Hồ Chí Minh đã để lại một danh ngôn bất hủ: “Các
vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu
nói đó đã kết nối chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí
Minh thành một thể thống nhất, trong sự phát triển liền mạch của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam. Tham gia vào hàng ngũ mácxít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc
chấp nhận học thuyết đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nhưng từ tiếp nhận đến vận dụng sáng tạo vào hoạch định đường lối chiến lược,
sách lược cho cách mạng Việt Nam lại phải biết xuất phát từ thực tiễn của đất
nước: trình độ phát triển kinh tế-xã hội, sự phân hóa giai cấp, mục tiêu và tính chất
của mỗi giai đoạn cách mạng,…khơng thể giáo điều, rập khn theo một cơng thức
sẵn có nào mà có thể giành được thắng lợi. Các đảng cộng sản ở các nước tư bản
phát triển chủ trương làm cách mạng vô sản nên thường nhấn rất mạnh đấu tranh
giai cấp và chun chính vơ sản. Sau khi Lênin qua đời, dưới sự chỉ đạo của Stalin,
nhất là từ sau Đại hội VI Quốc tế Cộng sản năm 1928, phong trào cộng sản ngày
càng rơi vào khuynh hướng tả khuynh, hẹp hịi, biệt phái, đề cao bạo lực, khơng
cho phép các đảng CS được liên minh, hợp tác với các tổ chức dân chủ-xã hội và
các lực lượng trung gian khác,…nên đã không tranh thủ được sự ủng hộ của đông
đảo quần chúng, không đẩy được phong trào cách mạng vô sản ở châu Âu tiến lên.


Ở Việt Nam-một nước thuộc địa nửa phong kiến- trước mắt phải làm cách mạng
giải phóng dân tộc, thắng lợi rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa, mà dân tộc cách mạng thì chưa phân biệt giai cấp, “sĩ, nông, công ,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Vì vậy, Người rất coi trọng phát huy
vai trò của mặt trận dân tộc thống nhất, trên nền tảng liên minh công nông, ra sức

tập hợp rộng rãi mọi thành phần yêu nước, tạo nên sức mạnh vô địch, nhằm đánh
đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập, thống nhất cho dân tộc. Là người cộng
sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại không nhấn mạnh giai cấp một chiều, đơi lần cịn
phê phán nhưng biểu hiện giáo điều, tả khuynh của một số người mới học từ nước
ngồi về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai
cấp đấu tranh mà khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng.
Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu
ngốc”.
Trong khi đó, Người lại hay nói nhiều đến Tổ quốc, đồng bào, con Hồng, cháu
Lạc ,…những câu chữ có sức lay động, thức tỉnh lịng u nước, thương nòi của
dân ta. Người viết “Lịch sử nước ta”, nêu cao những tấm gương yêu nước lẫm liệt
của cha ông từ buổi đầu dựng nước, chống lại sự xâm lược liên tục, tàn bạo của
bọn phong kiến phương Bắc, như Phù Đổng, An Dương Vương, Bà Trưng, Bà
Triệu, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung,…cho đến tên tuổi, công trạng của các vị anh hùng chống thực dân xâm lược
Pháp ở buổi đầu, như Hồng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Nguyễn
Thiện Thuật, Hồng Hoa Thám,…đồng thời khơng qn nhắc đến các cuộc khởi
nghĩa khác như Thái Nguyên (với Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến), Yên Bái (với
Nguyễn Thái Học), Bắc Sơn, Đô Lương với Đội Cung, Nam Kỳ,...rồi kết luận:
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh Bắc, dẹp Đông,
Oanh oanh liệt liệt, con Rồng, cháu Tiên.
Sau ngày Cách mạng thành công, trong “Tuyên ngôn Độc lập” hay trong diễn văn
đọc mỗi dịp kỷ niệm, bên cạnh tấm gương bất khuất của những người cộng sản,
Người vẫn không quên nhắc đến tên tuổi và công lao của các bậc tiền bối khác,
như Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Phan Bội Châu và nhiều
người khác. Người coi bản “Tuyên ngôn Độc lập” 1945 “là hoa, là quả của bao
nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng
Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy



chém, trên chiến trường,…là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng
của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam
Có thể thấy, với Hồ Chí Minh, yêu nước không phải là độc quyền của riêng
ai, mà là phẩm chất quý báu của mọi tầng lớp nhân dân, vì vậy chúng ta phải làm
mọi cách để cho tinh thần yêu nước ấy phát triển lên, được đem ra thực hành vào
công cuộc xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đề cao lòng yêu nước, CT Hồ
Chí Minh cũng đồng thời chỉ rõ: “Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh
thần “vị quốc”…Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”[19]. Là một người yêu
nước, Người không chỉ quan tâm đến số phận của dân tộc mình mà cịn quan tâm
đến số phận của tất cả những “người cùng khổ” trên trái đất này: ủng hộ cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân Airơlen, bênh vực quyền sống của những người
Mỹ da đen, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân gây ra ở Đahômây, Angiêri,
Mađagaxca,… Khi trở thành đảng viên cộng sản Pháp, Người đã kiến nghị với
Đảng lập ra Ban Nghiên cứu Thuộc địa, xuất bản báo Le Paria, tham gia sáng lập
Hội liên hiệp thuộc địa, kiến nghị với báo L’Humanité mở chuyên mục thường
xuyên về vấn đề thuộc địa. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc trên các bài báo tại Pháp đã
dần dần trở nên quen thuộc với các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc. Thời kỳ hoạt động ở Quảng Châu, Nguyễn Ái
Quốc đã cùng với một số nhà cách mạng châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn
Độ, Triều Tiên, Inđônêxia, Miến Điện,…thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông”, nhằm tăng cường đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau trong đấu tranh chống
kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Ngày 16-9-1925, khi nổ ra cuộc bãi công lớn
của hơn 20 vạn công nhân Hương Cảng, bỏ về Quảng Châu, Người đã nhiệt tình
ủng hộ cuộc đấu tranh này, ngày đêm đi diễn thuyết, cổ vũ cơng nhân kiên trì bãi
công cho đến khi thắng lợi. Báo “Con đường công nhân” ra số đặc biệt ngày ấy, đã
có bài viết ca ngợi “Người An Nam tham gia đội tuyên truyền”, coi đó là một biểu
hiện cao đẹp của tinh thần quốc tế trong sáng[20]. Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, noi theo chủ nghĩa quốc tế cao cả của Hồ Chí Minh, coi “giúp bạn

là tự giúp mình”, bao thế hệ thanh niên ta đã chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng của nhân dân hai nước anh em Lào và Campuchia. Tuy nhiên, tấm gương
kết hợp hài hòa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh khơng phải thời nào cũng được hiểu đúng và nêu
cao, trái lại có lúc từng bị ngộ nhận là đã xa rời học thuyết đấu tranh giai cấp, rơi
vào chủ nghĩa quốc gia-dân tộc tư sản,…bản thân Người cũng bị vơ hiệu hóa và bỏ
rơi trong hàng chục năm! Nhà sử học Trần Huy Liệu, một chiến sĩ cách mạng, từ
hoạt động yêu nước trở thành người cộng sản, trong “Hồi ký”- chương viết về thời
kỳ Mặt trận Dân chủ 1936-1939- đã sớm phát hiện ra nhược điểm tả khuynh này:


“Chúng ta chủ trương làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng trên báo chí của
chúng ta hồi ấy…đều chỉ nói đến giai cấp mà khơng nói đến dân tộc,…khơng phối
hợp tinh thần u nước chân chính với chủ nghĩa vô sản quốc tế. Những tiếng
“Đồng bào”, “Tổ quốc” khơng từng có trên các báo chí, trong cuộc nói chuyện hay
trong truyền đơn. Gặp những ngày kỷ niệm quốc tế, như ngày Lao động 1-5, ngày
Phụ nữ 8-3, ngày chống chiến tranh đế quốc 1-8, ngày Cách mạng tháng Mười 711, …các báo của ta thường ra những số đặc biệt với nhiều cơng phu, nhưng cịn
những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc thì khơng hề nói động gì đến. Đọc báo “Tin
tức”, rất nhiều người truyền tụng bài thơ của Dương Lĩnh nói về cuộc nội chiến ở
Tây Ban Nha,…nhưng khơng có một bài thơ ca nào nói đến chiến cơng chống
ngoại xâm của dân tộc ta” [21]. Hiện nay, khuynh hướng đó chưa phải đã hồn
tồn được khắc phục. Trong xử lý mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, mặt giai
cấp hiện vẫn được ta coi trọng hơn; mặt dân tộc, kể cả chủ nghĩa u nước Hồ Chí
Minh, vẫn cịn ít được nêu cao và phát huy đúng với tầm quan trọng của nó. Các
anh hùng dân tộc lỗi lạc, các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm tiêu biểu trong lịch
sử dân tộc cịn ít được ta kỷ niệm và vinh danh. Nói đúng ra, chúng ta vẫn chưa
theo được tấm gương và cách làm của Hồ Chí Minh, chưa thực sự gắn kết hài hòa
giai cấp với dân tộc. Tại Đại hội II 1951, khi Đảng Lao động Việt Nam ra công
khai, Người đã nói: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là

Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”. Sau này, nhiều lần Người vẫn thường nhắc lại: “Đảng ta là đội
tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc”. Chính vì chưa nhận thức đầy đủ sức mạnh của giai cấp nằm trong sức
mạnh của dân tộc, quá thiên về mặt giai cấp, khiến cho khuynh hướng cơ hội giáo
điều, “tả” khuynh vẫn chưa được tẩy sạch, còn ảnh hưởng nhất định đến sự củng
cố khối đại đồn kết tồn dân, thúc đẩy tiến trình hịa giải, hịa hợp dân tộc. CT Hồ
Chí Minh từng nhắc nhở: “Phải hiểu rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ,
hàng phút; một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu
ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá
thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ khơng theo kịp tình thế…”. Sau chuyến thăm nước
Mỹ về, khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội, trong một phút cởi mở, TBT Nguyễn Phú
Trọng cho biết: Tổng thống Mỹ đã có thư mời ơng sang thăm Hoa Kỳ từ tháng 72012, nhưng phải ba năm sau, chuyến đi mới được thực hiện! Điều đó cho thấy,
một mặt ta còn phải cân nhắc rất thận trọng mỗi bước đi trong chính sách đối ngoại
ở bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, đồng thời cũng cho thấy cịn phải có thời
gian để thuyết phục lẫn nhau trong nội bộ. Việc ta gia nhập WTO chậm đi mất 10


năm, cũng chủ yếu là do những lực cản từ bên trong. Vì vậy, chúng ta cần nhận
thức đầy đủ và sâu sắc hơn nữa về chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, đó là sự
thống nhất, hài hịa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội-một chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, hướng theo những giá trị chung mà nhân loại đang theo đuổi. Trên lập
trường bất biến đó, Người có thể linh hoạtứng biến trước mọi thay đổi của tình
hình khách quan. Đó cũng là học thuyết “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí
Minh.

II.

Vai trị của chủ nghĩa u nước đối với việc hình thành tư

tưởng Hồ Chí Minh

Ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đối với sự hình thành,phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta,
ra đời từ rất sớm cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang từ thời thượng cổ và
trở thành dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu
nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, do chính con người Việt Nam qua
các thế hệ tạo dựng và trở thành sức mạnh nội sinh giúp dân tộc ta vượt qua muôn
ngàn thử thách trong chống giặc ngoại xâm và thiên tai, bảo vệ sự trường tồn của
dân tộc trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Do là một nước nhỏ, lại nằm
ở vị trí địa lý có giá trị chiến lược về kinh tế, quân sự, ngoại giao và giàu có về tài
nguyên, khoán sản, “rừng vàng, biển bạc”, nên từ thời cổ đại cho đến hiện đại nước
ta luôn bị các thế lực ngoại bang gây chiến tranh xâm lược và chiến tranh chống
xâm lược của dân tộc ta.
Trải qua rất nhiều cuộc “đụng đầu lịch sử” với các thế lực lớn, mạnh hơn ta gấp
nhiều lần trong gần 12 thế kỷ đã hung đút và bồi đắp nên chủ nghĩa yêu nước cho
dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đất nước ta tuy phì nhiêu, trù phú nhưng cũng lắm
thiên tai, hạn hán, bão lụt. Từ rất sớm, nhân dân ta đã biết đắp đê để chống lũ lụt,
đào kênh mương, làm thủy lợi để chống hạn hán...Tất cả những thành tựu đó trong
q trình xây dựng q hương đều thắm đượm mồ hôi, nước mắt và xương máu
của bao thế hệ, vì thế mà người Việt Nam rất nặng tình, nặng nghĩa với quê hương,
xứ sở của mình. Cho thấy, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất của
dân tộc Việt Nam khơng những được hình thành trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm mà còn là sản phẩm của hàng nghìn năm chống chọi với thiên tai để xây dựng
và phát triển đất nước. Hình thành từ rất sớm và được bồi đắp liên tục trong thử
thách của mấy nghìn năm lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất


khuất của dân tộc Việt Nam có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. Bởi nó

đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm thức của con người Việt Nam. Yêu nước là tình cảm
lớn nhất, bao trùm nhất, trở thành lẽ sống, thành tư duy chính trị và hành động ứng
xử tự nhiên của mỗi người Việt Nam. Với người Việt Nam, khơng có gì quan trọng
hơn là Tổ quốc được độc lập, thống nhất, không một ai và lý thuyết nào có thể kéo
người Việt Nam ra khỏi trách nhiệm đối với đất nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam không tách rời “nước” với “dân”, “nước” là nước của “dân” nên yêu nước
luôn gắn liền với thương dân. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam được biểu hiện rõ nét
nhất qua lịch sử hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, chủ nghĩa yêu nước còn được
biểu hiện qua bản sắc văn hóa của dân tộc ln được bảo tồn, phát triển từ văn hóa
dân gian cho đến văn hóa bác học, từ những nhân vật truyền thuyết như Thánh
Gióng đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch 3 sử như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô
Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung,…đều phản ánh hùng hồn
chân lý đó. Chủ nghĩa yêu nước còn được biểu hiện ở mỗi con người Việt Nam u
nước, ln mang trong lịng niềm tự hào dân tộc, sự kế thừa và phát huy nó trong
điều kiện đất nước có chiến tranh và trong cả thời bình. Theo dịng chảy lịch sử,
chủ nghĩa u nước Việt Nam được lưu truyền và phát triển qua các thế hệ, là
“dịng sữa” ni dưỡng tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của con người Việt Nam, là
động lực tinh thần chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc để xây dựng và bảo
vệ đất nước trong mọi thời đại. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất
của dân tộc Việt Nam vì thế đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tình u q hương, đất nước đã nảy nở trong tâm
hồn Hồ Chí Minh từ thuở nhỏ qua ảnh hưởng của gia đình, quê hương và đất nước.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Nguyễn Sinh Cung sớm thấu hiểu sự
cao đẹp của tình yêu quê hương, đất nước qua lời dạy của người cha, lời ru của mẹ
và từ tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, thương dân của thân phụ, thân mẫu.
Đặc biệt, Người sinh ra, sống tuổi thơ tại quê hương Nam Đàn, xứ Nghệ, một vùng
quê có “một bề dày lịch sử” yêu nước, chống giặc ngoại xâm và là cái nôi sản sinh
ra các anh hùng, hào kiệt cho đất nước. Cũng tại nơi đây, Bác trực tiếp nếm trải
tình cảnh người dân của một nước nơ lệ; đau xót trước cuộc sống nghèo khổ, bị

đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương và
tận mắt chứng kiến thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại triều đình, những
thất bại của các phong trào cách mạng. Với lịng u nước, thương dân vơ bờ bến,
Nguyễn Tất Thành đã trăn trở về sự bế tắc đường lối cứu nước của dân tộc ta và
quyết chí ra đi tìm một con đường cứu nước mới cho dân tộc. Lúc ấy, Người khẳng
định rõ mục đích của chuyến đi: “Tơi muốn ra nước ngồi, xem nước Pháp và các


nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng
ta”. Cho thấy, tình cảm u nước trong Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa bằng ý
chí và hành động tìm đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước không những là động
lực chủ yếu thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mà cịn giúp
Người xác định hướng đi và cách đi đúng, đó là đi về phương Tây và đi bằng con
đường lao động. Người hiểu rõ, chỉ có đi sang phương Tây, mà trước hết là sang
Pháp mới hiểu rõ kẻ thù của dân tộc mình và chỉ có đi bằng con đường lao động thì
mới đi được xa và được lâu. Thực tế, nếu không có tấm lịng u nước nồng nàn và
một ý chí kiên cường, bất khuất thì làm sao Nguyễn Tất Thành dám dấn thân “vào
hang cọp mới bắt được cọp” như thế được. Chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Tất
Thành đến được với chủ nghĩa Mác Lênin, tìm thấy lời giải đáp đầy thuyết phục về
con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính tình u nước vơ bờ bến đó đã
khơng kìm nén được cảm xúc của Người khi bắt gặp Luận cương của Lênin. Sau
này, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng kín mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hởi đồng
bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con 4 đường giải
phóng chúng ta”. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ
chưa phải chủ nghĩa công sản đã đưa tôi theo Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần
dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước kết tinh trong Hồ Chí Minh là cầu nối giữa

Người với chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định đến bản
chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Các giá trị truyền thống dân
tộc còn là động lực chủ yếu chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Bác lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc, chính là tự đặt cho mình nhằm nhắc nhở Người và đồng bào luôn luôn yêu
nước, suốt đời phấn đấu vì nước, vì dân. Thật vậy, suốt cuộc đời Người chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặt, ai cũng được học
hành. Đến khi sắp về cỏi vĩnh hằng, trong bản Di chúc lịch sử, Người viết: “Suốt
đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước và
ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
là một truyền thống quý báu, là động lực tinh thần to lớn góp phần vào sự trường
tồn của dân tộc và sự phồn vinh của đất nước. Đồng thời, các giá trị ấy, đã ảnh


hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Với cách nhìn
biện chứng cho thấy, nếu như khơng có chủ nghĩa u nước là động lực để Bác Hồ
ra đi tìm đường cứu nước thì sẽ không đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ
đó khơng thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước như con thuyền lớn
đã đưa Bác đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc

III. Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước trong
tình hình mới
3.1 Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam và thế giới
311  Hồ Chí Minh luôn đề cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước các giá trị truyền thống dân tộc
Việt Nam theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho

vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và
phát triển của dân tộc. Đồng thời, các giá trị truyền thống đó ln là niềm tự hào
lớn lao của người Việt Nam nói chung và đối với Hồ Chí Minh nói riêng. Theo Hồ
Chí Minh, các giá trị truyền thống dân tộc là sức mạnh tinh thần to lớn của Việt
Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử. Trong các giá
trị truyền thống ấy, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, coi đó là một chân lý bất diệt: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước...Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Chúng ta phải ghi nhớ công lao của
các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Hồ
Chí Minh nhận định chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và nó cũng giữ nguyên giá trị trong thời kỳ xây dựng
đất nước. Chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, dân giàu, nước mạnh. Nó thể hiện trong phong trào thi đua của
những người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ
xã hội, cho sự tổ chức công việc một cách khoa học… Nó cịn biểu hiện qua sự đấu
tranh khơng khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót. Bên cạnh đó, Hồ
Chí Minh cũng rất đề cao truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc ta. Người
khẳng định đoàn kết là quy luật sống còn đối với dân tộc: “Sử ta dạy ta rằng: lúc
nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tư do, trái lại, lúc nào


dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Theo Hồ Chí Minh, đồn kết là
sức mạnh vơ địch, là cơ sở nền tảng, là điều kiện tất yếu đưa sự nghiệp kháng
chiến đi đến thắng lợi, kiến quốc đến thành cơng. Người cho rằng, đồn kết mới có
lực lượng tiến hành cách mạng, theo đó đồn kết càng chặt chẽ thì sức mạnh càng
cao, đồn kết càng rộng rãi thì thắng lợi càng vĩ đại. Từ nhận thức giá trị truyền

thống đồn kết nên Bác ln đặc biệt quan tâm đến vấn đề đồn kết, coi đó là chiến
lược lâu dài của cách mạng Việt Nam và là cội nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ
thù xâm lược. Bác khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”. Trong kháng chiến chống Pháp, Người chỉ rõ: Sự
đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh tổ quốc, 15
dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng
cũng phải thất bại. Đến thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng
định: “Đồn kết là sức mạnh vơ địch của chúng ta…Dù giặc Mỹ hung ác đến đâu,
sức mạnh đoàn kết vĩ đại của chúng ta sẽ đánh thắng chúng”. Theo Người, sức
mạnh đồn kết khơng chỉ tất thắng trong kháng chiến mà cịn tất thắng trong cơng
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng
khối đồn kết tồn dân để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục…Người kêu gọi:
“Các tầng lớp nhân dân, các đồn thể, các tơn giáo, các dân tộc, các nhân sỹ tiến
bộ, đã đoàn kết phải đoàn kết hơn nữa, cùng nhau đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc”. Ngồi ra,
Hồ Chí Minh ln xem trọng truyền thống lạc quan, yêu đời; truyền thống cần cù,
dũng cảm, thông minh, sáng tạo và hiếu học của dân tộc Việt Nam. Người không
những là tấm gương sáng về tinh thần lạc quan, yêu đời, cần cù, dũng cảm, thông
minh sáng tạo và hiếu học, đồng thời, Người cũng luôn quan tâm giáo dục cho mọi
người tiếp thu, lĩnh hội và hiện thực hóa các giá trị truyền thống ấy trong thực tiễn
cuộc sống và hoạt động cách mạng. “Đồng chí Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng
sản kiên cường, một người theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời là một người tượng
trưng cho dân tộc mình - Một dân tộc anh hùng, u hịa bình, có lịng tự hào chính
đáng và có tinh thần độc lập tự chủ, một dân tộc khiêm tốn thực sự và hết sức coi
trọng những giá trị tinh thần - Một vị lãnh tụ mất mà để lại bản “Di chúc” căn dặn
đồng bào phải giữ gìn những giá trị đó. Lời hiệu triệu cuối cùng của Người là một
văn kiện có sức mạnh tinh thần và gây xúc động lớn lao”. Nhận thấy rõ sức mạnh
to lớn của các giá trị truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế

năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối…cũng chủ nghĩa dân tộc đã
luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người


Trung Quốc; nó đã thúc dục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng
trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khỡi nghĩa năm 1917”. Chủ
nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh nói đến đó chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh
thần dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Thực vậy, “Giá
trị truyền thống dân tộc là một sức mạnh vĩ đại không thể xem thường. Huy động
các gái trị của truyền thống để làm cách mạng và kháng chiến hiện đại, là huy động
sức mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ tổ tiên ông cha ta cổ vũ
và trợ chiến cho con cháu hoàn thành sự nghiệp dân tộc”. Tự hào về các giá trị
truyền thống dân tộc là cơ sở quan trọng để xây dựng niềm tin vào khả năng của
con người Việt Nam. Bởi vì, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ các giá trị truyền
thống dân tộc vốn đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ
con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, đoàn kết,
16 thủy chung, thơng minh, sáng tạo, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn...
Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ
con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ và nó đã nuôi dưỡng, làm lớn lên những
giá trị tinh thần cao quý trong mỗi con người Việt Nam. Đây chính là nguồn lực vô
tận để đưa đất nước vượt qua mọi thử thách, vững bước tiến lên. Chính vì thế trong
hồn cảnh đen tối nhất, Hồ Chí Minh vẫn lạc quan tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh
của dân tộc: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt
sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương…
Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sơi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”.
3.1.2 Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống
dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc Việt

Nam Các giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam sở dĩ vẫn tồn tại và phát triển bền
vững qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều biến cố chính là do các thế hệ người
Việt Nam không ngừng ra sức bảo vệ, giữ gìn. Khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
tiến hành chiến tranh xâm lược các nước thuộc địa nói chung và nước ta nói riêng,
chúng đã thi hành chính sách cai trị dã man và thâm độc trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội Việt Nam. Chúng không những muốn hủy điệt tất cả sự sống của đất nước
mà còn hòng thủ tiêu các giá trị truyền thống của dân tộc để dễ bề cai trị. Bên cạnh
thực hiện chính sách “chia để trị”, “ngu dân dễ trị”, đầu độc dân ta bằng rượu cồn,
thuốc phiện, thủ tiêu tinh thần đấu tranh của nhân dân… chúng còn ngăn chặn mọi
ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam, đem văn


hóa phản động, trụy lạc nhồi sọ nhân dân ta. Trong khi đó bọn chúng vẫn hơ hào
khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, “khai phá văn minh” để che đậy bản chất xấu
xa đó của mình. Phát huy tinh thần của dân tộc, nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của
kẻ thù, hơn ai hết Hồ Chí Minh ln coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị
truyền thống dân tộc trong điều kiện mới. Theo Người, đó chính là cơ sở để phát
huy sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến và kiến quốc. Thông qua đó sẽ khơi
dậy và làm sống lại các giá trị truyền thống trong mỗi con người Việt Nam; đấu
tranh loại bỏ các văn hóa xấu độc của kẻ thù, văn hóa lỗi thời, lạc hậu của chế độ
củ; xây dựng một nền văn hóa mới có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Nói
chung là phải biết kết hợp giữa xây và chống, trong đó “xây” là nhiệm vụ chủ yếu
và lâu dài. Để bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người mà nhất là cán bộ, đảng viên trước hết
phải hiểu biết về lịch sử: “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Bởi vì, người ta chỉ bảo vệ những cái gì người ta biết. Các giá trị truyền
thống dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua từng giai đoạn lịch sử
nhất định cho nên chỉ trên cơ sở hiểu biết về lịch sử mới có thể cảm nhận đầy đủ và
sâu sắc giá trị của truyền thống dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh từng cảnh báo:
“Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con

người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng người nước ngồi”. Trên thực
tế, Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, tài liệu 17 tuyên truyền, nói chuyện ở nhiều
nơi, mở nhiều lớp bồi dưỡng, huấn luyện để giáo dục truyền thống. Trong đó
Người chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước của dân tộc thông qua các tấm
gương cụ thể như: “Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh
Đông, dẹp Bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên
Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15,
16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ có Bà Trưng,
Bà Triệu ra tay khơi phục giang san”. Bảo vệ, giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc
khơng có nghĩa là cất giữ khư khư mà theo Người, phải biết khơi dậy biến nó thành
hành động trên thực tế: Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của q. Có khi được
trưng bày trong cửa kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi
cất giấu kín trong giương, trong hịm, bổn phận của chúng ta là làm cho những của
quý (kín đáo ấy) đều được đưa ra trưng bày. Đồng thời, theo Hồ Chí Minh bảo vệ
và giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc khơng có nghĩa là đóng cửa, khép kín
mà phải đi đơi với tiếp thu các giá trị văn hóa nhân loại xưa và nay. Bởi vì, nếu
khơng mở mang đầu óc với thế giới bên ngồi thì sớm hay muộn sẽ suy thối. Theo
Người, cái gì bổ ích và cần thiết, cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để
làm giàu cho văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả


nguyện vọng của nhân dân. Nói như vậy để thấy khơng phải mọi thứ mới lạ đều bổ
ích. Cái gì mới mà hay thì tiếp thu, cịn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương
quyết loại bỏ. Thực tiễn về sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX cho thấy chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phát huy sức
mạnh để chiến thắng kẻ thù. Nhưng chủ nghĩa yêu nước đó, trong thời đại Hồ Chí
Minh đã được nâng lên một tầm cao mới và trở thành sức mạnh to lớn của dân tộc
làm nên chiến thắng vĩ đại. Vì “ở Người, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ
nghĩa Mác Lênin - đỉnh cao của tư tưởng loài Người trong thời đại mới”.
3.1.3 Hồ Chí Minh coi trọng việc kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống

dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới
Là một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, Hồ Chí Minh
khơng những có cơng lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người mà cịn có vai trị quan trọng trong kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã “khơi dậy
những tiềm năng bị chơn vùi, phát huy những sức mạnh sẳn có, làm nảy nở những
cái mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con người”. Chính điều đó đã
“làm cho tất cả những gì tốt đẹp của dân tộc trong bốn nghìn năm lịch sử đều sống
dậy tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong thời đại Hồ Chí Minh”. Các giá trị
truyền thống dân tộc Việt Nam dù đã khẳng định sức mạnh to lớn trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp tiến hành xâm
lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta thì các giá trị truyền thống ấy đã bộc lộ
những hạn chế trước yêu cầu của lịch sử trong thời cận hiện đại. Sự thất bại của
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản chứng tỏ
chỉ có lịng u nước thơi thì chưa thể giải phóng được dân tộc, đòi hỏi chủ nghĩa
yêu nước, 18 truyền thống đoàn kết và các giá trị truyền thống khác của dân tộc
phải có sự phát triển phù hợp với thời đại mới. Vậy đứng trước yêu cầu cấp bách
đó, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc lên tầm
cao mới như thế nào? Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý
chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc lên
một tầm cao mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền
thống lên một trình độ cao, khác về chất, đó là u nước trên lập trường của giai
cấp cơng nhân. Chỉ có yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân thì chủ
nghĩa yêu nước mới phát huy tối đa sức mạnh. Vì chủ nghĩa u nước ln phản
ánh tính chất giai cấp sâu sắc. Trong khi đó, giai cấp cơng nhân là sản phẩm của
thời đại mới, là giai cấp tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất và là giai cấp duy
nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động lật đổ chủ nghĩa tư


bản xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới. Giai cấp

cơng nhân Việt Nam, tuy còn nhỏ bé trong điều kiện nước thuộc địa, nhưng ngồi
đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân quốc tế, giai cấp cơng nhân Việt Nam cịn
được kế thừa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, lại sớm tiếp thu ánh sáng chủ nghĩa
Mác - Lênin và rất gần gũi với nơng dân, nên Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ có giai
cấp cơng nhân Việt Nam mới có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi.
Do vậy chủ nghĩa yêu nước chỉ trên lập trường của giai cấp công nhân mới phát
huy sức mạnh chiến thắng kẻ thù vốn là một lực lượng có tính quốc tế. Người chỉ
rõ: vấn đề dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp công nhân; độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Từ đó, Bác yêu cầu: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân
phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân
mình ngày một no ấm thêm, tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm”. Trên cơ sở kế
thừa và có sự phát triển chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Tinh thần đó được thể hiện khi
xác định mục tiêu của cách mạng ngay trong cương lĩnh đầu tiên do Người soạn
thảo: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” hay tinh thần “dù đốt cháy dãy
Trường Sơn cũng phải đấu tranh giành cho kỳ được độc lập dân tộc”. Theo Người
“ Hể còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta cịn phải tiếp tục chiến đấu, quét
sạch nó đi”. Khi nền độc lập bị huy hiếp thì “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người chỉ ra, vấn đề trước
mắt cho các nước thuộc địa ở phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, sau đó
mới có điều kiện tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì theo Hồ Chí Minh,
dân tộc chưa được giải phóng thì giai cấp cũng chưa được giải phóng; Giải phóng
dân tộc là điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc là tiền đề đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trước việc kẻ thù tuyên
truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ 19 nghĩa dân tộc cực đoan, thói kỳ thị màu da,
tiếng nói, phong tục, tập quán... để chia rẽ giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ ra

cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng. Từ đó, muốn giải phóng mình thì
nhân dân “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đồn kết lại và chống bọn áp bức”.
Qua đó cho thấy, chủ nghĩa yêu nước trong thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng lên
một tầm cao mới, khác về chất so với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa
yêu nước truyền thống dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản


chỉ hướng tới giải phóng dân tộc chứ chưa hướng tới giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; độc lập cho dân tộc chưa gắn liền với ấm no, tự do hạnh phúc
cho nhân dân…rõ ràng như thế không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
mới và khơng cho phép phát huy sức mạnh đồn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để
chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Kế thừa có chọn lọc và phát triển chủ
nghĩa yêu nước trong thời đại mới, Hồ Chí Minh khơi dậy truyền thống yêu nước
của dân tộc, biến nó thành sức mạnh vật chất to lớn, “làm cho tinh thần yêu nước
của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng
chiến”. Bên cạnh đó, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất của dân tộc cũng được
Hồ Chí Minh phát huy tối ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong
kháng chiến chống Pháp, Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người cũng khẳng định ý chí và quyết tâm
chiến thắng kẻ thù: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài. Đồng
bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm
đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn tồn”. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền
thống nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc lên tầm cao mới. Hồ Chí Minh cũng ln
coi trọng việc kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc, Người khẳng
định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta”. Kế
thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc nhưng tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh

đã có sự phát triển phù hợp với thực tiễn của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng. Nếu như trước đây, dân tộc ta chỉ quan tâm xây dựng khối đồn kết tồn dân
thì trong thời đại Hồ Chí Minh đồn kết được phát triển ở phạm vi rộng hơn bao
gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Điều đó cho
phép Đảng và Bác Hồ khơng những huy động sức mạnh dân tộc mà còn huy động
sức mạnh của thời đại để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng.

3.2 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước lên tầm cao mới
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước.
Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh
lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa u nước
Việt Nam đã có q trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu
sắc như: yêu nước gắn liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu


truyền thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, u nước có nội dung trung
qn ái quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động
trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã làm phong phú
nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối với Người là gắn liền với u
nhân dân. Người nói, lịng thương yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao
giờ thay đổi…Người có một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập,
dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “trung
với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước.
Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp công nhân, u nước mở rộng ra thành
tình u vơ cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, những người cùng khổ, đối
với giai cấp công nhân các nước trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp
công nhân, Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một
ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm. Trong các giá trị truyền thống

Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái là
những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một lúc với sự hình thành
dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại
xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm. Hồ Chí Minh
đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lịng,
đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình
có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa
đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý
luận Mác-Lênin-đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị
truyền thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau
có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống khơng có tình nghĩa thì
sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ
Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con
người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con
người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ
phải, ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa
làm gốc, nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa
để phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn.
Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù. Trong những
giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần cộng
đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục, trở thành những
yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc
chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, người đã nói đến đời sống mới


của một người, một nhà, một làng và khắp cả nước. Xoay quanh hạt nhân của đời
sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói đến thuần phong mỹ tục,
khơng có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp. Người nhắc đến tục ngữ “lá lành
đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”. Và, nếu một mình no ấm mà nỡ để
đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng khơng hưởng được. Người nói:

Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp đỡ…Nhiều
lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục, tức là
phát triển một trong những giá trị truyền thống. Mặt khác, khi trân trọng giữ gìn
thuần phong mỹ tục, Hồ Chí Minh ln gắn với việc phê phán, bài trừ đồi phong,
bại tục. Người đã nói đến việc “khơi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các
giá trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu
với dân…Song, Người yêu cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa
đổi các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).


KẾT LUẬN
Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều đổi thay. Vấn đề đặt
ra là chủ nghĩa u nước có vị trí thế nào trong tình hình mới? Và làm thế nào để
phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí
Minh để hội nhập và phát triển đất nước thành cơng trong xu thế tồn cầu hố? Xu
thế tồn cầu hố, hội nhập quốc tế đang là hiện thực khách quan ảnh hưởng đến tất
cả các quốc gia, dân tộc từ các nước phát triển đến các nước kém phát triển. Ngoài
những cơ hội, mặt trái của tồn cầu hóa là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng, sự bất bình đẳng ngày càng cao. Tệ nạn xã hội phát
triển mạnh, bạo lực, khủng bố, ô nhiễm môi trường; nguy cơ chiến tranh tôn giáo,
sắc tộc, chiến tranh cục bộ, khu vực đe dọa nền hồ bình thế giới. Tồn cầu hóa tạo
cơ hội cho các quốc gia trong cơng cuộc phát triển kinh tế, song "các mâu thuẫn
lớn của thời đại vẫn rất gay gắt". Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay: "Phải
tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng
bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn". Để thực hiện được mục tiêu này, nhiều vấn
đề cấp bách đặt ra cần phải giải quyết: Một là,cần đẩy mạnh cơng tác giáo dục tư
tưởng chính trị, giáo dục lòng yêu nước cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên. "Thế hệ trẻ ngày nay tiếp nối sự nghiệp của lớp người đi trước,
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố nước nhà để rửa nỗi
nhục nghèo khổ, mở ra một trang sử mới rạng rỡ cho non sông Việt Nam quang

vinh sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới". Nghị quyết Trung ương 7 khoá
X về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố khơng chỉ tiếp tục khẳng định vai trò chủ nhân tương lai
đất nước của thanh niên Việt Nam mà còn chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế về nhận thức của thanh niên hiện nay trước ảnh hưởng từ mặt trái
của cơ chế thị trường, của tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và
âm mưu "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch. Đại hội XI của Đảng tiếp
tục chỉ rõ: Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chúng ta cần
phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc cho cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; cần kết hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục chủ nghĩa yêu nước với phong trào thi đua yêu nước. Những năm qua, đã có
nhiều phong trào thi đua thiết thực, xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của các
tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các thủ
khoa, các doanh nhân giỏi, các chiến sĩ thi đua trong thời kỳ đổi mới là biểu hiện
sinh động của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là kết quả của phong trào học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Để phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt


Nam thời đại Hồ Chí Minh trong thanh niên, cần đổi mới công tác vận động thanh
niên, tạo việc làm, tạo mơi trường học tập, sinh hoạt văn hố, thể thao lành mạnh.
Cần đổi mới cách thức tuyên truyền, giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước,
lòng yêu quê hương, đất nước, tránh hô hào chung chung. Hai là,nâng cao nhận
thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nội dung chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam hiện nay, khẳng định sự gắn kết độc lập dân tộc với CNXH. Mục
tiêu chung của công cuộc đổi mới là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Đó cũng là nội dung xuyên suốt, bao trùm
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh - nhân tố
quan trọng mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam, không phải là cái gì xa vời
mà rất cụ thể, sinh động. Nó phải được biểu hiện bằng hành động, việc làm hàng

ngày ở gia đình, trong trường học, cơ quan, đơn vị, trên đường phố... Đó là ý thức
chấp hành luật pháp, là cần, kiệm, liêm, chính; là yêu thương con người, khơng vơ
cảm trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, là tình yêu quê hương, kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Cần làm tốt cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi người Việt Nam, trước hết là từng cán bộ,
đảng viên nhận thức rõ tình trạng tham nhũng, lãng phí đang là quốc nạn, làm xói
mịn lịng tin của nhân dân và đảng viên đối với Đảng và Nhà nước, trực tiếp đe
dọa sự lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Triển khai nghiêm túc Cuộc
vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI là biện pháp cực kỳ quan
trọng để xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới, là sự phát huy chủ
nghĩa u nước Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế. Ba là,
xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang tác động mạnh mẽ đến toàn thế giới,
tạo ra những thách thức và cơ hội phát triển cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Việt
Nam là một trong số ít nước vượt qua được suy thối chính trị của hệ thống XHCN
(ở Liên Xô và Đông Âu) cuối thế kỷ XX và đang đổi mới đất nước có hiệu quả.
Chính trong bối cảnh lịch sử đầy thử thách ấy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
được bồi đắp, phát triển lên tầm cao mới. Mặc dù vậy, các thế lực thù địch không
từ bỏ âm mưu chống phá nước Việt Nam đổi mới theo định hướng XHCN. Với
chiến lược "diễn biến hoà bình", dưới chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ" ,"tự do tư
tưởng, tơn giáo"..., kẻ địch kích động, gây rối, âm mưu bạo loạn ở một số vùng như
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trong bối cảnh đấu tranh và hợp tác đan xen như hiện
nay, chúng ta càng phải tăng cường bồi dưỡng tinh thần yêu nước, nâng cao sự giác
ngộ của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chúng ta chỉ có thể giành
thắng lợi bằng sự vượt trội kẻ thù về sức mạnh chính trị tinh thần, mà cốt lõi là chủ


×