Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sự phát triển của kế toán thế giới và kế toán Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.27 KB, 13 trang )

Đề tài:
Sự phát triển của kế toán thế giới và kế toán Việt Nam. Các vấn đề đặt ra
với kế toán Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
I. Lịch sử phát triển của kế toán trên thế giới
Không giống như phần lớn các nghề nghiệp hiện đại khác, kế toán có lịch sử
phát triển lâu đời. Đã có không ít các cuộc hội thảo bàn về lịch sử phát triển của kế
toán mà một trong những nội dung được đề cập thường xuyên nhất là quá trình ra
đời và phát triển của phương pháp ghi sổ kép gắn liền với đóng góp của vị thầy tu
kiêm nhà toán học người Ý Luca Pacioli.
Lịch sử của kế toán gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động thương
mại của con người mà cốt lõi là sự ra đời và phát triển của chữ viết cũng như việc
sử dụng các con số và phép tính. Có ý kiến cho rằng kế toán phát triển nhằm đáp
ứng nhu cầu của thời đại nảy sinh do những sự thay đổi của môi trường và nhu cầu
xã hội. Một số khác lại cho rằng chính sự phát triển của kế toán mới tạo điều kiện
cho sự phát triển của thương mại vì chỉ thông qua việc sử dụng các phương pháp kế
toán chính xác và đầy đủ, hoạt động sản xuất kinh doanh hiện đại mới có thể phát
triển rực rỡ, đáp ứng được yêu cầu của chủ thể kinh doanh và xã hội. Tuy nhiên, dù
khác nhau song hai ý kiến trên đều thống nhất ở một điểm, đó là sự gắn bó chặt chẽ
giữa lịch sử phát triển của kế toán với hoạt động sản xuất kinh doanh của con người.
1. Thời Cổ đại
* Kế toán ở vùng Mesopotamia Cổ đại:
Khoảng thế kỷ 36 trước Công nguyên, nền văn minh Át-xi-ri, Babylon và
Xume phát triển rực rỡ ở thung lũng Mesopotamia - nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi
mà trở thành vùng nông nghiệp trù phú. Đây cũng là nơi xuất hiện những ghi chép
cổ xưa nhất về hoạt động buôn bán. Khi người nông dân đã trở nên giàu có, các hoạt
động kinh doanh dịch vụ và các ngành công nghiệp nhỏ phát triển ở khu vực lân cận
thung lũng Mesopotamia. Thành phố Babylon và Ninevah trở thành các trung tâm
thương mại của vùng, trong đó Babylon được xem như là tiếng nói của kinh doanh
và chính trị của cả vùng Cận Đông. Có hơn một ngân hàng ở Mesopotamia sử dụng
Trang 1
thước đo tiêu chuẩn là vàng và bạc và cho phép một số giao dịch bằng tiền gửi ngân


hàng.
Trong suốt kỷ nguyên này, tồn tại các quy tắc pháp lý quy định về việc ghi
chép tài sản và các giao dịch liên quan đến tài sản. Vì thế, gần như toàn bộ các giao
dịch được ghi lại và được mô tả bởi các bên liên quan trong suốt thời kỳ này. Nhiệm
vụ của người thực hiện việc ghi chép kế toán khá đơn giản, nhưng lại bao quát.
Ngoài việc ghi lại trọn vẹn một giao dịch, anh ta còn cần chắc chắn rằng các giao
dịch thoả thuận đó đáp ứng được yêu cầu pháp lý áp dụng cho các giao dịch thương
mại.
Ở Mesopotamia, các giao dịch được ghi chép lại trên mảnh gốm sứ. Mảnh
gốm được nung theo hình dạng và kích thước tuỳ theo nội dung của các giao dịch.
Mỗi giao dịch được ghi chép lại theo những nội dung sau: tên của các bên tham gia
buôn bán, loại hàng hoá buôn bán và giá cả cùng những điều cam kết quan trọng
khác. Sau đó, mỗi bên sẽ chứng nhận sự hiện diện của họ cũng như thoả thuận giữa
họ lên mảnh gốm bằng cách ấn mạnh lên mảnh gốm “dấu” riêng của họ. Người ghi
chép tài sản sau đó sẽ hong khô mảnh gốm để đảm bảo những điều ghi chép trên
mảnh gốm không thể bị thay đổi.
* Kế toán ở Ai Cập, Trung Hoa, Hy Lạp và Roma cổ đại
- Kế toán ở Ai Cập cổ đại cũng phát triển theo cách tương tự như ở
Mesopotamia. Tuy nhiên, người Ai Cập sử dụng giấy làm từ cói thay vì gốm, do đó
việc ghi chép chi tiết trở nên dễ dàng hơn. Ở Ai Cập, người ghi sổ kế toán phải lưu
trữ cẩn thận các tài liệu ghi chép của mình trong một nơi gọi là kho lưu trữ sau khi
những tài liệu đó đã được kiểm tra bởi một hệ thống soát xét nội bộ chặt chẽ. Chính
do hệ thống kiểm tra này mà những người ghi sổ kế toán phải luôn trung thực và cẩn
thận vì họ sẽ bị xử phạt nếu vi phạm các điều luật liên quan. Mặc dù những ghi chép
như vậy rất quan trọng nhưng kế toán Ai Cập cổ xưa chưa bao giờ tiến bộ xa hơn
công việc liệt kê đơn giản trong suốt hàng nghìn năm tồn tại của nó. Có lẽ nguyên
nhân cốt yếu là do sự mù chữ và thiếu một loại tiền kim loại thích hợp đã cản trở sự
phát triển của nó. Trên thực tế, người Ai Cập sử dụng vàng và bạc với tư cách là vật
trao đổi ngang giá chung. Tuy nhiên, phương pháp đo lường giá trị đơn không thể
Trang 2

mô tả tất cả hàng hoá, do đó làm cho việc tích luỹ và tổng kết tài sản trở nên khó
khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển của cả hệ thống kế toán.
- Kế toán ở Trung Hoa trước Công Nguyên được sử dụng cho mục đích đánh
giá hiệu quả của chương trình Chính phủ và những người vận hành chương trình đó.
- Vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, người Hy Lạp đã áp dụng “kế toán
công khai” để tạo điều kiện cho toàn thể công dân theo dõi tình hình tài chính chính
phủ. Thành viên của Hiệp Hội Nhân dân Athens lập ra những quy tắc pháp lý cho
vấn đề tài chính và quản lý thu chi của hệ thống công thông qua sự giám sát của 10
nhân viên kế toán Nhà nước. Có lẽ sự đóng góp quan trọng nhất của Hy Lạp là việc
sáng tạo ra tiền kim loại vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Việc sử dụng
rộng rãi tiền kim loại trong một thời gian dài đã có tác động đến sự phát triển của kế
toán. Hoạt động ngân hàng ở Hy Lạp cổ đại đạt được sự phát triển nhiều hơn các xã
hội trước. Các ngân hàng giữ sổ ghi chép, tiền cho vay, và thậm chí thực hiện các
giao dịch chuyển tiền cho các cư dân ở các thành phố cách xa nhau thông qua các
ngân hàng trong cùng hệ thống.
- Kế toán ở Roma phát triển từ việc ghi chép truyền thống của các gia đình
được thực hiện bởi người chủ gia đình. Việc ghi chép này vốn nhằm mục đích phục
vụ cho việc tính thuế và xác định vị thế cũng như quyền lực của mỗi gia đình. Ở
Roma duy trì một hệ thống chứng từ và cân đối chính xác đối với các hoạt động thu
chi của chính phủ được dưới sự thực hiện người quản lý ngân sách quốc gia. Hệ
thống kế toán công được kiểm tra thường xuyên bởi các nhân viên kiểm tra sổ sách
và những người quản lý ngân sách quốc gia phải bàn giao lại toàn bộ công việc cho
người kế nhiệm của mình và cho Thượng viện La Mã trước khi thôi việc. Một trong
những cách tân của kế toán La Mã là việc sử dụng ngân sách thường niên nhằm phối
hợp các hoạt động tài chính khác nhau của nhà nước, hạn chế chi tiêu để đạt được
mức thu mong muốn và số thuế thu được trong một đơn vị quản lý sau khi xem xét
khả năng chi trả của dân cư.
2. Thời Trung đại
Thời kỳ kéo dài hàng nghìn năm kể từ khi đế quốc La Mã sụp đổ cho đến
trước thời điểm ra đời của cuốn sách đầu tiên của Luca Pacioli mang tên “Summa”

Trang 3
được coi là thời kỳ đình trệ của kế toán. Các hoạt động kế toán diễn ra ngoài lãnh
thổ của Italy thường không được đề cập đến trong các phần tổng kết lịch sử. Tuy
nhiên, như nhà lịch sử Michael Chatfield đã quan sát thấy, thông tin kế toán thời
trung cổ đã trở thành một trong những nền tảng của việc quản lý và các kỹ thuật
hạch toán cũng đã có cơ hội phát triển nhanh chóng. Nhiệm vụ trung tâm của kế
toán thời kỳ này là nhằm giúp cho Chính phủ và chủ sở hữu tài sản quản lý tài sản
theo trình độ từ thấp lên cao.
* Sự ra đời của phương pháp ghi sổ kép
Qua các giai đoạn phát triển của kế toán ở các quốc gia khác nhau, có thể thấy
kế toán sử dụng phương pháp ghi đơn, đơn giản và mang tính liệt kê mô tả nhiều
hơn. Nguyên nhân cốt yếu là thiếu chữ viết và tiền giao dịch thích hợp.
Phương pháp ghi sổ kép ra đời vào thế kỷ 14 ở Italy gắn liền với đóng góp của
Luca Pacioli dựa trên cơ sở thống nhất 7 nhân tố tiền đề:
Tài sản riêng: quyền thay đổi sở hữu tài sản bởi vì ghi sổ được xem là việc ghi chép
về tài sản và quyền tài sản thực.
- Vốn: thể hiện năng lực của cải, bởi vì nếu không có nó hoạt động thương mại
sẽ không thể thực hiện được.
- Thương mại: sự trao đổi hàng hoá ở mức phổ biến, bởi vì hệ thống thương
mại với quy mô nhỏ không thể tạo ra áp lực kinh doanh dẫn tới sự ra đời của một hệ
thống có tổ chức thay thế cho việc ghi chép đơn thuần.
- Tín dụng: giá trị hiện tại của hàng hoá trong tương lai.
- Chữ viết: một hệ thống ghi chép thường xuyên bằng một ngôn ngữ thông
dụng.
- Tiền tệ: mẫu số thông dụng cho trao đổi.
- Số học: làm phương tiện để tính toán lượng giá trị giao dịch.
Trong số những nhân tố trên, có một số nhân tố trên thực tế đã tồn tại ở thời cổ
đại. Tuy nhiên, chỉ tới thời trung cổ chúng mới xuất hiện đầy đủ và đủ mạnh để thúc
đẩy con người tới sự sáng tạo ra phương pháp ghi sổ kép. Nhờ đó, thương mại và
trao đổi buôn bán đã được đẩy lên tầm phát triển mới và loài người đã tìm được

phương pháp xác định lợi nhuận chuẩn xác hơn.
Trang 4
Kể từ Pacioli, phương pháp ghi sổ đã được thay đổi. Chuỗi những sự kiện
trong chu kỳ kế toán và các trình tự đặc biệt được Pacioli miêu tả trong cuốn “De
Computis” khá quen thuộc với kế toán viên hiện đại. Trên thực tế, sự khác nhau
giữa trình tự kế toán hiện đại với phương pháp kế toán của Pacioli là sự bổ sung và
trình độ tinh vi hơn xuất phát từ nhu cầu của quy mô hoạt động kinh doanh lớn hơn.
Theo Luca Pacioli, một thương nhân thành công phải hội tụ được 3 thứ: đủ vốn,
người ghi sổ có năng lực và hệ thống kế toán cho phép anh ta có được những thông
tin về tình hình tài chính của mình một cách nhanh nhất. Pacioli đưa ra hệ thống
gồm các thành phần sau:
- Bản ghi: nhằm ghi chép lại các nghiệp vụ phát sinh theo thứ tự phát sinh. Các
nghiệp vụ này có thể được ghi sổ theo nhiều đơn vị tiền tệ khác nhau được chấp
nhận ở thời kỳ đó và sau đó được quy đổi ra đồng tiền hạch toán chung.
- Nhật ký: bao gồm ghi nợ, có và phần giải thích nội dung nghiệp vụ được ghi
sổ. Không tính tổng quy mô nghiệp vụ phát sinh và không ghi đối ứng.
- Sổ cái: đây là bộ phận gần giống nhất với kế toán hiện đại. Cột số tiền và cột
ngày tháng giống y hệt như trong sổ kế toán hiện nay, với các mục bao gồm các
đoạn ngắn, ghi nợ ở bên trái và ghi có ở bên phải của trang sổ được đôi. Sau khi sổ
kế toán được thiết lập, hai được chéo sẽ được kẻ xuyên suốt mỗi lần ghi sổ, một từ
trái sang phải khi ghi nợ và một từ phải sang trái khi ghi có.
Kết thúc chu trình kế toán là việc lên bảng cân đối thử. Các số dư bên nợ trên
sổ cái được ghi vào bên trái của bảng cân đối còn các số dư bên có trên sổ cái được
ghi vào bên phải của bảng cân đối. Nếu việc ghi sổ đã được thực hiện chuẩn xác thì
bảng cân đối sẽ cân giữa hai bên.
3. Thời Cận đại và Đương đại
* Thế kỷ 19 ở Scotland, Anh và Mỹ
Scotland được coi là nơi sinh của kế toán hiện đại. Đây là nơi sản sinh các
nguyên tắc kế toán và cũng là nơi có những hội kế toán công khai lâu đời nhất. Kế
toán trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng với những ảnh hưởng không thể phủ nhận

đến sự phát triển kinh tế.
Trang 5

×