Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Lich su đảng bộ phuong dong nhan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.99 KB, 111 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Phường Đồng Nhân là một trong 20 phường thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Người
dân phường Đồng Nhân cịn tự hào được gìn giữ bảo tồn một di tích lịch sử lớn của dân
tộc đó là Đền thờ Hai Bà Trưng (Trưng Trắc và Trưng Nhị). Hai Bà Trưng Trắc, Trưng
Nhị là những người phụ nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc ta đã dũng cảm đứng lên đánh
đuổi giặc ngoại xâm, thu phục 65 thành trì, thống nhất giang sơn.
Khí phách và chí khí lẫm liệt của Hai Bà Trưng đã góp phần hun đúc cho người dân
phường Đồng Nhân chí kiên cường, niềm tự hào, gắn bó với nhau hơn trong việc xây
dựng địa phương và Thủ đô Hà Nội ngày càng văn minh giàu đẹp.
Phường Đồng Nhân xưa gọi là làng, nguyên là đất thôn Hoa Viên, một trong 19
phường, thôn của Tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ. Quá trình hội tụ dân cư và
phát triển của làng xưa, cũng như Phường ngày nay, có quan hệ mật thiết gắn liền với
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Qua các cuộc đấu tranh giữ nước, các thế hệ người dân Đồng Nhân nối tiếp nhau hăng
hái tham gia với nhiều hình thức và phương thức đấu tranh phù hợp để chống giặc giữ
nước, bảo vệ Thủ đô.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Đồng Nhân được giác ngộ, tự
nguyện đi theo đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng. Nhiều người đã tham gia hoạt
động cách mạng, góp phần vào cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội
thành công.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, nhiều cán bộ, đảng viên và hàng trăm con em
trong phường đã hăng hái tịng qn, có mặt ở những nơi nóng bỏng nhất của cuộc chiến
đấu và nhiều người đã anh dũng hy sinh trên các nẻo đường chiến tranh, góp phần tô thắm
thêm truyền thống vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân phường Đồng Nhân.
Trong xây dựng hịa bình, Đảng bộ và nhân dân phường Đồng Nhân với tất cả lòng tin
yêu vào Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa, đã liên tục phấn đấu tám
năm liền (1992-1999) được công nhận là "Đảng bộ trong sạch vững mạnh" và đi đầu trong
một số phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc của quận Hai Bà Trưng, như phong trào
"Thông tin tố giác tội phạm", "Liên kết với các trường giữ gìn an ninh trật tự ", tích cực


giải quyết tệ nạn xã hội, ổn định các mặt đời sống nhân dân trên địa bàn.
11

12


Thực hiện chủ trương của Thành ủy Hà Nội, Quận ủy Hai Bà Trưng và để đáp ứng
nguyện vọng của toàn thể cán bộ đảng viên, nhân dân trong phường, Ban Chấp hành Đảng
bộ phường Đồng Nhân chỉ đạo biên soạn cuốn "Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân phường Đồng Nhân (1930-2010)". Với mong muốn ghi lại khái quát những thành tích
và rút ra những bài học trong quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ chính
quyền, xây dựng Đảng, xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới, con người mới để góp phần
tuyên truyền giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Sau quá trình nỗ lực làm việc với sự đóng góp cơng sức, trí tuệ, tư liệu của nhiều thế
hệ cán bộ đã từng công tác ở phường, của các cụ cao tuổi, nhất là một số gia đình đã nhiều
thế hệ gắn bó với mảnh đất Đồng Nhân và một số cơ quan nhà máy xí nghiệp đóng trên
địa bàn, cuốn "Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân phường Đồng Nhân (1930 2010)" được xuất bản. Đây là cơng trình sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn cơng phu,
nghiêm túc của các đồng chí được giao trách nhiệm soạn thảo, đồng thời đây cũng là sản
phẩm thể hiện trí tuệ tập thể, lịng mong muốn bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt
đẹp của địa phương, của toàn Đảng bộ và nhân dân phường Đồng Nhân.
Nhân dịp này, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc
phường Đồng Nhân xin bày tỏ lòng biết ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Thành
ủy, Quận ủy và Ban Tuyên giáo Quận ủy Hai Bà Trưng, Ủy ban nhân dân quận Hai Bà
Trưng, Tạp chí Lịch sử Đảng, các vị lão thành cách mạng, các đồng chí lãnh đạo qua các
thời kỳ, các nhân chứng, cán bộ các ngành đã đóng góp những ý kiến quý báu, trợ giúp cả về
vật chất và tinh thần để cuốn Lịch sử được ra đời.
Ôn lại quá khứ, biết hiện tại, phấn đấu phát huy truyền thống quê hương để hịa chung
với nhân dân tồn quận, tồn thành phố và cả nước, Đảng bộ và nhân dân phường Đồng
Nhân quyết tâm đi theo đường lối đổi mới của Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tất cả vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh", thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và mong ước
của tồn dân.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong sưu tầm và biên soạn, song cuốn sách không tránh
khỏi thiếu sót, Ban Chỉ đạo và Ban Biên soạn rất mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng
góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong phường để cuốn lịch sử được chỉnh lý, bổ
sung và hoàn thiện hơn cho những lần xuất bản sau.
Xin trân trọng cám ơn.

11

12


11

12


Chương mở đầu
ĐỒNG NHÂN - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA

I. Đặc điểm lịch sử, địa lý
Phường Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội), được thành lập từ ba
tiểu khu: Thọ Lão, Thọ Yên, Đồng Nhân. Sau đó ba tiểu khu này sáp nhập lại thành tiểu
khu Đồng Nhân, rồi chuyển thành phường Đồng Nhân ngày 15-2-1981 1.
Phường Đồng Nhân (tính đến năm 2010) có diện tích 0,16 km2, dân số gần 10.000
nhân khẩu, gồm hơn 2.500 hộ, chia thành 8 khu dân cư với 40 tổ dân phố 2. Phường có
72.546,14m2 đất chuyên dùng và 87.453,86m2 là đất ở. Phường có mười hai khu tập thể,
gồm tám cụm dân cư. Phía Đơng giáp phường Đống Mác chiều dài 1210,4m, phía Tây

giáp phường phố Huế chiều dài 109,2m. Phía Bắc giáp phường Phạm Đình Hồ chiều dài
270m, phía Nam giáp phường Thanh Nhàn.
Phường có 6 tuyến phố chính: Nguyễn Cơng Trứ, Hương Viên, Đồng Nhân, Lê Gia
Định, Đỗ Ngọc Du, Thọ Lão. Xưa kia Đồng Nhân là vùng đất bãi nhiều cư dân từ nơi
khác về đây khai hoang lập ấp, đã bằng sức lao động và ý chí đấu tranh khắc phục khó
khăn, chinh phục thiên nhiên biến vùng đất hoang vu thành phố phường trù phú như ngày
nay. Đồng Nhân nguyên là đất thơn Hoa Viên, là một trong mười chín phường, thôn của
tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ, tới giữa thế kỷ thứ XIX, tổng này đổi ra tổng
Thanh Nhàn và chỉ gồm có tám phường thơn, vì một số phường thôn đã hợp lại với nhau.
Thôn Hoa Viên đã hợp với thôn Hương Thái và thôn Đức Bác, thôn Nhân Chiêu, thôn
Thành Môn... thành thôn mới như tên phố Hương Viên và vẫn gọi đến ngày nay. Tên gọi
phố Đồng Nhân vì phố này giáp với khu vực Đền thờ Hai Bà Trưng, gọi là Đình Đồng
Nhân. Đền được xây dựng tại bãi làng Đồng Nhân trên bờ sơng Cái, sau vì đất bãi bị lở
nên năm 1819 Đền được dời vào khu đất hiện nay vốn là Võ Sở (nơi dạy võ nghệ) đời Lê
cũ. Dân làng Đồng Nhân ngoài bãi phần lớn cũng dời vào cư trú tại đây và lập nên một
làng Đồng Nhân mới trên đất làng Hoa Viên nay chính là phường Đồng Nhân. 3 Từ khu
dân cư làng xóm, người dân bãi Đồng Nhân sống bằng nghề làm ruộng, thả cá, thợ thủ
1. Năm 1981, thực hiện Hiến pháp 1980, bộ máy chính quyền thành phố được tổ chức thống nhất thành 3 cấp, khu
phố Hai Bà Trưng thành quận Hai Bà Trưng, tiểu khu Đồng Nhân thành phường Đồng Nhân là cấp chính quyền cơ
sở.
2. Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tại Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Đồng Nhân lần thứ XI , tháng 62010, Tr.1.
3. Theo "Đường phố Hà Nội" của Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Hà Nội 1979.

11

12


công, buôn bán nhỏ, nay phường Đồng Nhân từng bước đơ thị hóa. Cơ cấu dân cư ở
phường cũng dần thay đổi, ngoài những hộ dân cư gốc làng Đồng Nhân đến nay có hơn

70% cư dân là cán bộ công nhân viên chức, lực lượng vũ trang và nhân dân ở khắp các địa
phương đến cư trú làm ăn sinh sống trên địa bàn phường. Mọi người dân ý thức được
quyền lợi, nghĩa vụ, gắn bó cuộc sống với Đồng Nhân để xây dựng phường thành quê
hương thứ hai của mình.
II. Truyền thống lịch sử - văn hóa
Phường Đồng Nhân có di tích lịch sử văn hóa, lịch sử kháng chiến đó là Đền thờ Hai
Bà Trưng. Đền thờ Hai Bà Trưng trước kia thuộc làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, tỉnh
Hà Đơng, nay ở phố Hương Viên quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội. Từ trung tâm
Hà Nội có nhiều đường đến Đền, thuận tiện nhất là từ bờ hồ Hồn Kiếm xi theo phố Bà
Triệu đến ngã tư Bà Triệu - Tô Hiến Thành, rẽ trái ra phố Tô Hiến Thành vượt qua phố
Huế đi tiếp đến phố Nguyễn Công Trứ, đến ngã ba Nguyễn Công Trứ - Đỗ Ngọc Du rẽ
phải đi theo phố Đỗ Ngọc Du khoảng 300m là nhìn thấy cổng đền (số 337 cũ).
Đền được xây dựng từ thời Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 3 (1142) ở bãi Đồng
Nhân trên bờ sông Hồng. Đất bãi bị lở vào năm Gia Long thứ 18 (1819) nên dân làng
Đồng Nhân đã dời làng vào khu Võ Sở cũ của triều Lê 4 thuộc thôn Hoa Viên, cũng thuộc
làng Đồng Nhân tức địa điểm ngày nay.
Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích lịch sử cấp quốc gia được Nhà nước xếp hạng theo
quyết định số 313/VH ngày 28-4-1962 của Bộ Văn hóa. Đền tượng trưng tinh thần bất
khuất của dân tộc. Gần hai nghìn năm noi gương hai vị nữ anh hùng, dân tộc Việt Nam đã
bao lần nổi lên chống quân xâm lăng, đế quốc và giành thắng lợi.
Chùa Thọ Lão là tên gọi theo địa danh của làng được nhân dân địa phương sử dụng từ
xưa đến nay. Xưa kia, di tích gắn với địa danh thơn Thọ Lão, tổng Hậu Nghiêm, huyện
Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Ngoài ra, di tích cịn có tên Nơm là chùa Bún, sở dĩ có tên gọi
như vậy bởi làng Thọ Lão xưa kia có nghề làm bún.
Di tích chùa Thọ Lão nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đơng Nam thành phố Hà Nội, là một
địa danh có từ lâu đời ở Thăng Long. Chùa trông ra phố Hương Viên là tên của một thôn,
nằm trong hệ thống 8 thôn của tổng Thanh Nhàn, hồi giữa thế kỷ XIX. Xưa kia,khu vực
này có hai làng Hương Thái và Hoa Viên là hai địa danh hợp lại thành tên Hương Viên.
Và chính mảnh đất này hiện cịn lưu giữ cụm di tích lịch sử văn hố đình- đền-chùa Hai


4. Lý Anh Tơng

11

12


Bà Trưng vừa tôn vinh vừa nhắc nhở những trang nữ nhi hào kiệt trong sự nghiệp chống
giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập tự chủ ngay từ những năm đầu Công nguyên.
Theo các sách "Bắc Thành địa dư chí tục", "Các tơng danh địa lãm 1807", "Phương
Đình địa chí, Hồi Đức phủ tồn đồ 1831", "Hà Nội địa bạ 1866", thì hồi đầu thế kỷ XIX,
Thọ Lão là một trong số 19 các phường thôn thuộc tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương,
Phủ Hồi Đức, đến năm 1866 thơn trở thành một bộ phận của thôn Cảm Hội thuộc tổng
Thanh Nhàn, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Từ năm 1954, chùa Thọ Lão thuộc khối
Thanh Nhàn - khu phố Hai Bà Trưng (Hà Nội), những năm gần đây, chùa thuộc phường
Đồng Nhân - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Về niên đại lịch sử xây dựng Thọ Lão Tự hiện nay khơng cịn. Trên nền chùa xưa mọc
lên nhà cao tầng của khu tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy rượu Hà Nội.
Khu vực khuân viên của chùa bị thu nhỏ nằm giữa hai khu tập thể này với một nếp nhà
nhỏ của chùa xưa, trước đây được làm Điện thờ Mẫu. Hiện vật duy nhất cịn lại đến ngày
nay là quả chng có niên hiệu là "Cảnh Thịnh Lục niên" (1798) thời Tây Sơn. Căn cứ
vào bộ khung gỗ của vì nóc Điện thờ Mẫu, cùng các hoa văn trang trí các đầu kèo và trụ
gỗ chỉ có thể biết ngơi chùa này có niên đại vào khoảng cuối thời Nguyễn (thế kỷ XIX,
XX). Tuy nhiên sự hiện diện của quả chuông và bài minh trên chuông (xem phần chữ Hán
Nôm) ở đời Cảnh Thịnh cuối thế kỷ thứ XVIII có thể chùa có niên đại sớm hơn cuối thế
kỷ XIX. Chưa biết chùa đã qua lần trùng tu nào không, nhưng khoảng năm 1945, trong
kháng chiến chống thực dân Pháp chùa bị đạn pháo bắn, làm hư hỏng nặng. Đến khi hai
khu tập thể được xây dựng, làm chỗ ở cho cơng nhân thì tịa tam bảo hồn tồn khơng cịn
nữa, bia đá ở chùa cũng mất.
Về kiến trúc ngày nay chùa chỉ là nếp nhà ba gian có hình chữ nhật, gian giữa để thờ

Phật, bên phải thờ Tổ, bên trái thờ Mẫu, mặt bằng kiến trúc theo lối 4 hàng chân, tức là
mỗi bộ vì có 4 cột (hai cột cái và hai cột quân). Kết cấu theo lối "Thượng chồng giường,
hạ kẻ chuyền" lối kết cấu này tạo cho vì kèo có hình dáng cân đối, lịng nhà cũng cân đối
bố cục chặt chẽ. Do tòa tam bảo bị phá nên Điện thờ Mẫu người ta đưa thêm vào đó hệ
thống tượng Phật và tượng Tổ. Tại ban thờ Phật phía trên cùng có ba pho tượng bán thân
ngồi trên tịa sơn son, tượng Phật tóc xoắn ốc (cịn gọi là Bụt ốc). Phía dưới tượng tam thế
là tượng A Di Đà, bên phải là tượng Quan Thế Âm, bên trái là Đại thế chí Bồ tát. Tại ban
thờ Tổ chỉ có một tượng Tổ ngồi, sơn son đỏ. Ban thờ Mẫu phía trên tịa có tam tịa Thánh
Mẫu với tượng ba bà mẫu đặt trong lồng kính. Chính giữa là bà Thiên Phủ, bên phải là bà

11

12


Mẫu Thoải, bên trái là bà Thượng Ngàn. Phía dưới Tam tịa Thánh Mẫu là ban đặt tượng
Thánh Cơ, Thánh Cậu, ơng Hồng cùng các cơ các cậu sơn trang.
Điều đáng lưu ý là chùa Thọ Lão có quả chng thời Cảnh Thịnh. Từ hiện vật này, các
nhà sử học quan tâm đến tác động văn hóa và đời sống tinh thần của nhà Tây Sơn với Hà
Nội thời bấy giờ.
Trong hệ thống di tích hiện cịn ở phường Đồng Nhân, chùa Thọ Lão là di tích có niên
đại tạo dựng sớm vào khoảng cuối thế kỷ XVIII.Cũng như những ngôi chùa khác trên đất
Thăng Long, chùa Thọ Lão được xây dựng với chức năng chính là thờ Phật. Là một cơng
trình kiến trúc tơn giáo có quan hệ mật thiết với đời sống văn hố tín ngưỡng của cộng
đồng cư dân làng xã. Với hệ thống giáo lý của Đức Phật từ bi, khuyến thiện, trừng ác.
Quan niệm về luân hồi, nhân quả đạo Phật thực sự đã đi vào lòng dân, gần gũi với đời
sống tâm linh vốn hiền lành, nhân hậu của người Việt và có thời kỳ đã trở thành hệ tư
tưởng chính thống của Nhà nước phong kiến Việt Nam. Sự hiện diện của ngôi chùa đã góp
phần tạo nên những truyền thống văn hố tốt đẹp của địa phương.
Đặc biệt, trong những năm tiền khởi nghĩa (trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945),

Chùa Thọ Lão là nơi tập kết, nuôi giấu nhiều cán bộ và bộ đội, là nơi hội họp, tuyên
truyền đường lối cách mạng kháng chiến của Việt Minh và nhiều tổ chức đoàn thể kháng
chiến như: Phụ nữ, Phụ lão, Thanh niên và nhiều tổ chức khác.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Thọ Lão là nơi tập kết và trung
chuyển thương binh của Trung đồn Thủ Đơ trong trận chiến đấu đêm ngày 19-12-1946 ở
Liên khu I. Chùa bị đạn pháo của giặc Pháp tàn phá chỉ còn lại ba gian nhà Mẫu. Sau ngày
giải phóng Thủ đơ (10-10-1954), sư trụ trì cùng tồn thể nhân dân phục dựng lại ngơi
chùa trên vị trí cũ. Chùa Thọ Lão một lần nữa lại cùng chia sẻ khó khăn cùng với Đảng và
Nhà nước cắt phần diện tích đất chùa để xây dựng khu nhà ở tập thể cho công nhân các
nhà máy Rượu, nhà máy Dệt Kim Đông Xuân, nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo. Ngày
nay, sự hiện diện của chùa Thọ Lão thuộc số 20 dốc Thọ Lão, phường Đồng Nhân, quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã góp phần tạo nên những giá trị truyền thống văn hoá
tốt đẹp ở địa phương. Với những giá trị lịch sử - nghệ thuật và cách mạng, cuối năm 2012,
chùa Thọ Lão (chùa Bún) được Bộ Văn hóa cơng nhận là Di tích cách mạng kháng chiến.
Theo tài liệu khảo cứu của Sở Văn hóa - Thơng tin Hà Nội, phường Đồng Nhân cịn
có đình Cảm Ứng thuộc số nhà 55 Nguyễn Cơng Trứ. Đình hiện nay khơng còn, song theo
tài liệu hồ sơ của phòng bảo tồn, bảo tàng, Sở Văn hóa - Thơng tin, dưới thời Pháp dãy
phố Nguyễn Công Trứ gọi là phố Nghĩa Địa (Rue de la cimetiere). Vì ở đây có một nghĩa
11

12


địa dành riêng cho người Pháp 5. Ít năm sau phố này được đổi là phố viên đội La Ri Vê
(Rue Ser Gent larrive). Tên Nguyễn Công Trứ được đặt sau khi giải phóng Thủ đơ.
Trước đó, đây là phần đất của thôn Cảm Ứng, thuộc Tổng Hậu Nghiêm, huyện Thọ
Xương. Sang giữa thế kỷ XIX, thôn Cảm Ứng hợp với thôn Yên Hội thành thôn Cảm Hội,
thuộc Tổng Thanh Nhàn, huyện Thọ Xương. Đình Cảm Hội, thực sự là sự phân thân của
đình Cảm ứng, hiện ở tại 132 Lò Đúc. Về đường đi, dễ nhất là đi từ trung tâm Bưu điện
Bờ Hồ xuôi theo phố Huế, tới ngã tư phố Huế - Nguyễn Công Trứ, rẽ trái tới số nhà 55

Nguyễn Công Trứ là địa phận của đình. Hiện ở đình khơng cịn vật gì sót lại, nhưng theo
truyền thuyết dân gian, việc xác định địa danh có thể khẳng định một cách tương đối niên
đại xây dựng ngơi đình có khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Theo lời kể của các cụ cao tuổi ở
địa phương, đình đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Từ trước năm 1946, đình cịn tương
đối ngun vẹn, quy mơ nhỏ song đình khá đẹp với nhiều đồ thờ, từ năm 1946 sau ngày
tồn quốc kháng chiến, đình bị bỏ khơng, khơng có người trơng nom, nên bị hư hỏng dần.
Sau ngày giải phóng Thủ đơ, đình bị hư hỏng nặng. Đến năm 1969, đình trở thành nhà trẻ
cho các cháu học, nay ở số nhà 55 Nguyễn Công Trứ khơng cịn dấu vết gì của đình Cảm
Ứng nữa.
Theo lời kể của các cụ cao niên ở địa phương và việc khảo cứu qua sách vở, thư tịch
có liên quan cho thấy Đình Cảm Ứng thờ một nhân vật huyền thoại có tên là Xà Cơng (ơng
Rắn), (Theo cuốn "Đường phố Hà Nội của Trần Huy Bá và Nguyễn Vinh Phúc") cũng theo
tư liệu tại Viện Thông tin Khoa học xã hội có ghi lại dịng tự khai của hương lão làng Cảm
Hội (phân chia từ làng Cảm Ứng cũ). Trả lời của Hội khảo cứu phong tục Đông Dương
năm 1938 cũng khẳng định đình thờ Xà Cơng. Tục truyền: Xà Công là tướng của Hùng
Vương thứ năm, ông đã từng dẹp yên giặc Ma Lôi nổi lên ở Bạch Hạc (Lâm Thao - Phú
Thọ ngày nay) Sau đó lại đánh tan giặc mũ đỏ ở vùng núi phía Tây của nước Văn Lang
xưa. Theo lời kể của cụ Luyện Công Nhu, ở số 3 Nguyễn Công Trứ vốn là người thơn Cảm
Ứng cũ: Đình Cảm Ứng thờ một vị thần sống ở thời Hùng Vương thứ năm có cơng đánh
giặc giữ nước. Thần được phong là "Lưu mã sung nguyên soái thần vương". Về lễ hội
trong năm là ngày 1 và 2 tháng 2 hằng năm là ngày sinh của thần, ngày 8 - 8 là ngày mất của
thần. (Theo tài liệu khảo cứu của Sở Văn hóa Thơng tin Hà Nội).

5. Tên thường gọi là nghĩa địa Tây, nhìn sang là nghĩa địa Sài Gịn, nay là trụ sở của Công ty xe buýt.

11

12



Chương 2
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG CỦA ĐỒNG
NHÂN TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1930-1954)

I. Đồng Nhân từ khi Đảng ra đời đến năm l945
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu của thế kỷ XX, đất nước ta chìm trong ách đơ
hộ của thực dân Pháp, dân chúng lầm than, chính đảng lãnh đạo cách mạng chưa ra đời, cả
dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thực dân, phong kiến diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình
thức, khuynh hướng khác nhau nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp. Xã hội Việt Nam lâm
vào cuộc khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và thiếu một lực lượng tiên phong
đủ sức đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân đứng lên làm cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc.
Những người có lịng u nước hoặc tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
hoặc khắc khoải chờ mong có một sự thay đổi nào đó. Chứng kiến cảnh nước mất, nhà
tan, các phong trào yêu nước do Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hoàng Hoa Thám
khởi xướng, nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh ra nước ngồi tìm con đường cứu nước mới.
Sau nhiều năm bơn ba khắp các châu lục, vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu
nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh ở Việt Nam ngày một
dâng cao, dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (17-61929); An Nam Cộng sản Đảng (15-11-1929) và Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (1-11930).
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong Cương lĩnh cách mạng của
mình, Đảng đã đề ra đường lối đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, đem lại

11


12


cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước
lên vũ đài chính trị, trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trọng đại của dân tộc.
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh; tiếp đến là phong trào vận động dân chủ 1936-1939 giành được những
thắng lợi quan trọng. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (họp tháng 71936), phong trào đấu tranh chống chiến tranh phát xít và chiến tranh đế quốc, chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình diễn ra sơi nổi
trong cả nước và nhiều nơi ở Hà Nội. Cuối năm 1936, đầu năm 1937, trước sự đấu tranh
mạnh mẽ của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ Pháp, Chính phủ của Mặt trận nhân dân
Pháp buộc bọn thực dân ở Đông Dương phải ân xá tù chính trị, từ đó hàng chục cán bộ
đảng viên và quần chúng cách mạng của các tỉnh ở nhà tù Côn Đảo, Sơn La được trả lại tự
do, trở về quê hương tiếp tục hoạt động, tăng thêm sức mạnh mới cho lực lượng và phong
trào cách mạng. Đáng chú ý là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh 1930- 1931, những cuộc
khủng bố của địch đã làm cho cơ sở cách mạng ở Hà Nội và một số địa phương khác bị
tổn thất nặng nề.
Để củng cố phong trào, Trung ương Đảng Cộng sản đã hết sức chú trọng chỉ đạo việc
bắt liên lạc gây lại cơ sở cách mạng ở Hà Nội. Tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã họp, tập trung giải quyết những vấn đề về công tác tổ chức của Đảng trong
phong trào Mặt trận dân chủ. Thực hiện chủ trương đó, tổ chức Đảng ở Hà Nội được khơi
phục lực lượng còn rất mỏng, tiến hành chắp nối các cơ sở một cách thận trọng và khẩn
trương6. Từ đây phong trào cách mạng lại len lỏi phát triển trong các tầng lớp nhân dân
Thủ đô. Khẩu hiệu: "Tự do, cơm áo, hịa bình" hợp với lịng dân. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng quần chúng tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ, đưa phong trào thành cao trào. Địi thả tù
chính trị, địi tự do báo chí, truyền đơn của mặt trận được phát hành rộng rãi đến các tầng
lớp nhân dân ở các khu vực chợ Mơ, Bạch Mai, Đại La, Đồng Nhân.. quần chúng hội họp
ký tên vào bản dân nguyện gửi lên chính phủ Bảo hộ. Năm 1938 dưới sự lãnh đạo trực

tiếp của Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Cừ, xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội, bộ phận
báo chí cơng khai của Đảng (nhóm Tin tức) đã vận động chi nhánh Đảng Xã hội Pháp
đứng ra xin phép tổ chức cuộc mít tinh nhân ngày Quốc tế Lao động 1 - 5 - 1938 tại khu
Đấu Xảo7 thành công rực rỡ. Hơn ba vạn người đã tham dự cuộc mít tinh bao gồm các
tầng lớp nhân dân Thủ đô và đông đảo quần chúng nhân dân ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc
6 Xem Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2012, tr.141.
7. Nay là Cung văn hóa Hữu nghị.

11

12


Ninh, Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên... Tại cuộc mít tinh này, sau khi các đại
diện các đồn thể cơng nhân, nơng dân, phụ nữ, thanh niên, trí thức lần lượt phát biểu,
đồng chí Trần Huy Liệu trịnh trọng lên đọc diễn văn vạch trần chính sách bóp nghẹt tự do
dân chủ, đàn áp bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp và đòi thực hiện yêu sách của quần
chúng, các tầng lớp nhân dân biểu lộ niềm tin tình cảm một lịng đi theo Đảng cộng sản
Đơng Dương bằng cách hô vang khẩu hiệu bất chấp sự có mặt của mật thám Pháp đang rình
rập, theo dõi cuộc mít tinh.
Những năm 1936-1939, phong trào vận động dân chủ, đấu tranh chống chiến tranh
phát xít và chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, địi quyền dân
sinh, dân chủ diễn ra sơi nổi trong cả nước. Các đảng viên nhất là các đồng chí lãnh đạo
của Đảng tìm cơ hội để xây dựng tổ chức Đảng trong phong trào của công nhân.
Từ ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, lúc đầu là cuộc
chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc là Đức, Ý, Nhật và Anh, Pháp, Mỹ (đến ngày 22-61941). Từ ngày 22-6-1941 trở đi, chiến tranh diễn ra giữa thế lực phát xít Đức, Ý, Nhật
với các lực lượng dân chủ chống phát xít (phe Đồng Minh do Liên Xơ là trụ cột). Chủ
nghĩa phát xít là đội quân xung kích chống chủ nghĩa xã hội. Những tội ác dã man của chủ
nghĩa phát xít thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ với mục tiêu
chống phát xít.

Tại châu Á - Thái Bình Dương, phát xít Nhật đẩy mạnh quy mô xâm lược Trung
Quốc, nhân dân Trung Quốc kháng chiến chống Nhật. Ở Đông Dương, cuối năm 1939,
thực dân Pháp thủ tiêu mọi quyền dân sinh, dân chủ, thẳng tay đàn áp phong trào cách
mạng, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp càng phát triển gay
gắt. Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời đối phó, rút vào hoạt động bí mật, chuyển
địa bàn hoạt động về nơng thơn.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật xâm lược Đơng Dương, thực dân Pháp ngoan ngỗn dâng
Đơng Dương cho Nhật. Nhật, Pháp câu kết với nhau áp bức, bóc lột nhân dân Đơng
Dương. Nhân dân Đơng Dương lâm vào tình trạng một cổ hai trịng.
Đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc quyền
chiếm đóng và cai trị Việt Nam, âm mưu vơ vét tài nguyên nhân lực, nhằm mở rộng chiến
tranh thế giới lần thứ hai.
Bản Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Thường vụ Trung
ương Đảng (12-3-1945) nêu rõ tình thế và thời cơ cách mạng. Đảng kịp thời phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đặc biệt
11

12


Đảng ta phân tích những điều kiện cụ thể để khởi nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi,
đặt ra cho các Đảng bộ địa phương tinh thần chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo khởi nghĩa
ở địa phương mình khi có điều kiện khởi nghĩa chín muồi.
Sau đêm đảo chính Pháp ít ngày, các tổ chức cứu quốc ở Đồng Nhân đã quán triệt nội
dung tuyên truyền chỉ thị: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung
ương Đảng để nhân dân thấy được kẻ thù chính của chúng ta lúc này là phát xít Nhật, tập
trung mọi hình thức đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Lúc này xảy ra nạn
đói khiến hàng nghìn nơng dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ tràn ra thành phố xin ăn rồi
chết thảm thương trên các vỉa hè, ngõ chợ do hậu quả của chính sách phá lúa trồng đay để
cung cấp sản phẩm phục vụ chiến tranh của phát xít Nhật. Nhiều người dân Đồng Nhân

cũng lâm vào cảnh đói rét, phải chịu cảnh ăn cháo, ăn khoai trừ bữa. Thêm vào đó là cảnh
lũ lụt vỡ đê, nhiều tỉnh đồng bằng bị ngập nước.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội thành công. Ngày 2 tháng 9
cùng với các tầng lớp nhân dân Thủ đô, nhân dân Đồng Nhân nơ nức tiến về quảng trường
Ba Đình dự ngày hội lớn của dân tộc, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thực hiện chủ trương chống "giặc đói" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, các
đồn thể quần chúng và nhân dân Đồng Nhân cùng nhau tích cực tham gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, mỗi gia đình có một hũ gạo tiết kiệm do bớt bữa ăn hằng ngày để lại, đề
phòng những tháng giáp hạt, thiên tai và ủng hộ kháng chiến.
Với dã tâm xâm lược, ngày 22-8-1945, nhóm sĩ quan tình báo Pháp do Xanhtơny cầm
đầu đi máy bay từ Côn Minh (Trung Quốc), xuống sân bay Gia Lâm, chuẩn bị cho mưu đồ
xâm lược việt Nam lần thứ hai.
Cuối tháng 9-1945, quân Tưởng với danh nghĩa Đồng Minh kéo vào miền Bắc nước ta
để tước khí giới quân Nhật, chúng địi tiếp quản một số vị trí quan trọng, địi tịch thu một
số vũ khí mà Nhật đã giao cho ta. Núp sau quân Tưởng là bọn phản động trong các tổ
chức Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt quốc gia liên minh nổi dậy chống phá cách mạng.
Bọn lưu manh, trộm cướp gây rối, làm cho tình hình an ninh trật tự phức tạp thêm.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ lâm thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát động và kêu gọi tồn dân đồn kết diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm, bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng.
Ngay sau khi giành được độc lập, đến tháng 10 năm 1945, lịch sử của đất nước, đặc
biệt là Thủ đô Hà Nội xảy ra nhiều sự kiện lớn, vô cùng phức tạp. Với danh nghĩa quân
11

12


Đồng Minh vào tước vũ khí của quân Nhật đã đầu hàng, bọn Tưởng Giới Thạch - Quốc
dân đảng Trung Hoa đã tràn vào Việt Nam. Núp sau lưng chúng là bọn phản động việt

gian âm mưu dựa vào các thế lực của các đồn qn ơ hợp này để cướp chính quyền nhằm
thủ tiêu những thành qua cách mạng mà nhân dân ta vừa mới giành được. Từ ngày 23-91945, ở Nam Bộ quân Pháp được sự hỗ trợ của quân Anh âm mưu gây chiến đánh chiếm
Sài Gòn - Gia Định. Ở Hà Nội, quân Pháp liên tục vi phạm các Hiệp định đã ký kết với
chính phủ ta. Chúng tăng cường khủng bố, khiêu khích, âm mưu dùng vũ lực đè bẹp lực
lượng vũ trang và chính quyền non trẻ của ta. Đồng thời phao tin đồn nhảm gây chia rẽ
làm giảm uy tín của khối đồn kết tồn dân, giúp bọn phản động, việt gian ngóc đầu dậy.
Tình thế cách mạng Việt Nam lúc đó có thể ví như "ngàn cân treo sợi tóc", cùng một lúc
phải đối phó với "thù trong giặc ngồi". Trong bối cảnh đó, nhân dân Đồng Nhân vẫn
tuyệt đối tin tưởng ở chủ trương đường lối chính sách cua Đảng, Chính phủ cách mạng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong các cuộc mít tinh, các ngày lễ cuộc vận động
chống "giặc đói, giặc dốt", "Tuần lễ vàng", ủng hộ quốc phòng, nhân dân Đồng Nhân
hăng hái tham gia. Đặc biệt là "Tuần lễ vàng" nhằm ủng hộ chính quyền cách mạng có
quỹ dự trữ mua sắm vũ khí xây dựng quân đội, đối phó nguy cơ giặc Pháp trở lại xâm
lược.
II. Đồng Nhân trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (19461954)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngồi việc tích cực xây dựng bảo vệ chính
quyền cơ sở, tham gia "Tuần lễ vàng" xây dựng quỹ Độc lập, ủng hộ Vệ quốc đoàn, ủng
hộ Nam Bộ kháng chiến, ngày 6-1-1946 nhân dân Đồng Nhân nô nức đi bầu cử Quốc hội
khóa I, bất chấp kẻ địch tìm mọi cách phá hoại. Lần đầu tiên nhân dân cầm lá phiếu được
hưởng quyền lợi, nghĩa vụ của công dân nước Việt Nam độc lập. Ngày 6-3-1946, Chính
phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ, đồng ý cho một lực lượng quân
Pháp thay chân quân Tưởng Giới Thạch vào đóng quân một số nơi ở Bắc Việt Nam.
Tháng 5-1946, nhân dân Đồng Nhân tiếp tục tham gia bầu cử Ủy ban hành chính khu
phố. Phấn khởi trước thắng lợi của cách mạng, nhân dân Đồng Nhân tích cực tham gia các
phong trào chống giặc đói, giặc dốt, bước đầu xây dựng nền kinh tế mới, văn hóa mới.
Tuy vậy đời sống nhân dân Đồng Nhân cịn nhiều khó khăn, túng thiếu, đặt trách nhiệm
cho chính quyền phải chăm lo đời sống, phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho dân.
Tình hình Hà Nội đầu tháng 3-l946 diễn biến phức tạp, theo sự thỏa thuận, Pháp đưa
quân vào miền Bắc nước ta để làm nhiệm vụ thay thế quân Trung Hoa Dân quốc rút về
11


12


nước. Ta cùng Pháp điều đình đi đến ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Với hiệp
định này ta có thêm thời gian hịa bình để củng cố và phát triển lực lượng ở cả hai miền
Nam-Bắc, quân đội Trung Hoa Dân quốc phải rút về nước, ta chỉ cịn phải đối phó với kẻ
thù Pháp.
Mặc dù đã ký kết Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định, lập các
ổ tác chiến khiêu khích quân và dân ta. Nhân dân Đồng Nhân ngoài người già, trẻ em đi
sơ tán, số cịn lại cùng tồn thành phố tích cực tham gia đấu tranh chính trị đòi Pháp thi
hành nghiêm chỉnh Hiệp định Sơ bộ, bảo vệ chủ quyền đất nước, bất hợp tác toàn diện với
Pháp (29-3-1946), mít tinh lớn ở Đơng Dương Học xá (14-4-1946). Lúc này âm mưu của
thực dân Pháp dùng vũ lực đánh chiếm Thủ đô Hà Nội đã rõ ràng. Cuối năm 1946, thực
dân Pháp ngang nhiên xóa bỏ Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9, tiến hành mở rộng
chiến tranh ra cả nước. Ngày 20-11-1946, chúng nổ súng gây hấn ở Lạng Sơn, Hải Phòng
và tháng 12-1946 đổ quân lên Đà Nẵng. Ngày 17-12-1946 thực dân Pháp bắn vào tự vệ và
nhân dân phố Hàng Bún, Yên Ninh. Ngày 18-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư cho
Chính phủ ta địi tước khí giới của tự vệ Hà Nội. Trước tình hình đó, ngày 18 và 19 tháng
12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn phúc (Hà Đơng) quyết
định phát động tồn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 19-12-1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến.
Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, cả Hà Nội bước vào cuộc chiến đấu chống giặc Pháp.
20 giờ 3 phút, đèn điện toàn thành phố vụt tắt, tiếp theo là tiếng đạn rền vang của đơn vị
pháo binh của ta ở pháo đài Láng bắn những quả đạn đầu tiên vào thành Hà Nội làm hiệu
lệnh tấn công. Ngay lập tức đại bác ở pháo đài Xuân Canh, Xuân Tảo cũng nhả đạn vào các
mục tiêu đã định trước. Tiếng đại bác rền vang trên bầu trời Thủ đô báo hiệu cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu ác liệt của cuộc kháng chiến, nhân dân Đồng
Nhân với vũ khí thơ sơ đã cùng bộ đội bám trụ chiến đấu bảo vệ đường phố, xóm làng.
Nhưng ngay sau, pháo sáng, súng cối, súng máy của giặc bắn vào các đường phố và các

xã ven nội nhằm uy hiếp ngăn cản các hoạt động của quân ta. Trước tình hình đó, Ủy ban
khu phố Đồng Nhân lãnh đạo đội tự vệ, cứu thương, tiếp tế dũng cảm cùng bộ đội chiến
đấu, phục vụ chiến đấu, động viên cụ già, trẻ em đi tản cư.
Từ tháng 1-1947, địch có thêm viện binh đã tập trung mở những đợt đánh lớn trên các
cửa ơ nhằm kiểm sốt vành đai ngoại thành, và phía nam ơ Cầu Dền, tiếp diễn ra những
cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch trên các tuyến vòng cung Vĩnh Tuy, ngã tư Trung
Hiền - Ngã Tư Vọng. Chiều 15-1-1947, địch huy động khoảng 150 tên, có hai xe tăng, hai
11

12


xe bọc thép, 10 ô tô vận tải bất ngờ từ Lò Lợn tiến đánh các khu vực Thanh Nhàn - Vĩnh
Tuy hịng tiêu diệt đơn vị Vệ quốc đồn và tự vệ chiến đấu ở đây, đồng thời cướp bóc tài
sản của nhân dân ta. Được nhân dân báo tin, các lực lượng vũ trang ta chủ động bố trí
phục kích nên mặc dù địch có xe tăng, súng lớn, quân đông cuối cùng vẫn phải tháo chạy
bỏ lại hơn chục xác chết.
Cuối năm 1947, nhiều gia đình ở Thanh Nhàn, Bạch Mai, Lương Yên, Đồng Nhân lần
lượt tìm đường hồi cư, cũng trong thời điểm này thành phố và quận đã cử nhiều cán bộ
các ngành về nội thành nắm dân và nắm tình hình hoạt động của địch. Các tài liệu truyền
đơn báo chí từ vùng tự do bằng đường dây bí mật vượt qua đồn bốt địch chuyển về Hà
Nội phân phối khắp thành phố, nhờ vậy mà nhân dân vùng tạm chiếm vẫn biết được
những thất bại của giặc trong chiến dịch Thu đông 1947 ở Việt Bắc, chiến thắng của bộ
đội ta ở các chiến trường, nắm chắc chủ trương trường kỳ kháng chiến của Đảng và Chính
phủ nên rất tin tưởng.
Năm 1951-1952, địch sử dụng hàng nghìn tên thường xuyên càn quét, lùng sục trong
toàn thành phố. Nhiều cơ sở cách mạng bị vỡ, cán bộ nhân dân nhiều người bị bắt, mất
liên lạc phải bật ra vùng tự do, nhưng những cơ sở cịn lại vẫn bí mật hoạt động. Nhân dân
Đồng Nhân vẫn tin tưởng ở cách mạng, một lòng hướng về kháng chiến, nuôi giấu cán bộ.
Bị thất bại nặng nề ở chiến dịch biên giới Cao - Bắc - Lạng và chiến dịch Tây Bắc

năm 1952, tháng 7-1953 Hăngri Nava - Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại
Tây Dương được cử sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đơng Dương.
Chính phủ Pháp điều 12 tiểu đoàn quân viễn chinh Pháp và Bắc Phi sang tăng viện cho
chiến trường Việt Nam. Từ tháng 5-1953 đến tháng 5 - 1954, bằng đạo dụ tổng động viên,
địch đã tăng thêm 10 vạn quân ngụy. Song dù đã tập trung cố gắng tới mức cao nhất với
hy vọng chuyển bại thành thắng trong vòng 18 tháng, thực dân Pháp ngày càng khó khăn,
lúng túng, sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Bước vào Đông Xuân 1953-1954,
quân Pháp bị động phải tung lực lượng cơ động đối phó với lực lượng chủ lực của ta tại
nhiều nơi trên chiến trường Đông Dương, Tây Bắc, Tây Nguyên, Trung-Nam-Bắc Lào,
đối phó với chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và Liên khu V.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Phối hợp với
mặt trận chính Điện Biên Phủ, phong trào chiến tranh nhân dân ở đồng bằng Bắc Bộ cũng
như trong cả nước dâng lên mạnh mẽ.
Dù địch khủng bố ráo riết, quây ráp bắt lính liên tục ở nhiều nơi, đến tháng 6 năm
1953 nhiều cơ sở của ta phục hồi, nhân dân Đồng Nhân với nhân dân Hai Bà Trưng đã
11

12


đấu tranh chống lại cuộc bầu cử Hội đồng bù nhìn ở thành phố và Hội đồng hương chính
ở các làng xã. Phong trào chống bắt lính phát triển thành phong trào quần chúng. Sinh
viên ở Đông Dương Học xá, học sinh trường cơng ích, trường Trần Văn Khánh chống
qn sự hóa học đường của địch, khơng ghi tên vào các kỳ tuyển sĩ quan.
Năm 1953-1954, nhân dân Đồng Nhân cùng nhân dân toàn thành phố dấy lên phong
trào đấu tranh địi hịa bình, địi Pháp phải thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký
kết. Theo Hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời chia làm hai miền kể từ giới tuyến quân sự
tạm thời 17 độ vĩ Bắc. Nhiệm vụ cách mạng được xác định: Miền Nam chịu sự kiểm soát
của Pháp và tay sai, tiếp tục đấu tranh để thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà;

Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, một
số nơi ở Hà Nội mãi đến ngày 10-10-1954 mới sạch bóng quân thù.8
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, nhân dân khu Hai Bà Trưng và Đồng Nhân
mau chóng chắp nối, phục hồi cơ sở, chuẩn bị thiết lập chính quyền khi địch rút khỏi miền
Bắc, giáo dục thuyết phục hội tề, ngụy binh trở về với nhân dân.
Ngày 6-10-1954, quân đội Pháp rút khỏi Văn Điển. Ngày 8-10-1954, một số đơn vị
vào chiếm lĩnh ngoại thành Hà Nội, nhân dân Đồng Nhân cùng toàn thành phố chuẩn bị
sẵn sàng đón bộ đội trở về tiếp quản Thủ đơ.
Sáng 10-10-1954, Ủy ban qn chính thành phố và Đại đoàn 308 giương cao lá cờ
"Quyết chiến Quyết thắng" trở về giải phóng Thủ đơ. 15 giờ ngày 10- 10- 1954, nhân dân
Đồng Nhân cùng nhân dân Hà Nội nô nức đổ về vườn hoa Cột Cờ dự lễ chào mừng chiến
thắng giải phóng Thủ đơ do Ủy ban qn quản tổ chức. Người dân Đồng Nhân tự hào đã
đóng góp một phần cơng sức vào thắng lợi của cả nước và Thủ đơ nói riêng, đồng thời
chuẩn bị xây dựng cuộc sống mới.

8. Thực tế các Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam được ký kết lúc 2 giờ 45 phút sáng ngày 21-7-1954;
Hiệp định đình chiến ở Campuchia ký lúc 11 giờ trưa ngày 21-7, nhưng để giữ cho Thủ tướng Pháp M.France
giữ được lời hứa với Quốc hội và nhân dân Pháp là lập lại hịa bình trong vịng 1 tháng nên thời gian được ghi ở
cuối các bản Hiệp định là ký lúc 24 giờ ngày 20-7-1954. Bắc Giang giải phóng ngày 4-8-1954, cịn ở khu vực
300 ngày Hồng Quảng (Hải Phòng) đến ngày 15-5-1955 mới được giải phóng.

11

12


Chương 3
ĐỒNG NHÂN CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA,
ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM

THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)

I. Khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế văn hóa ở địa phương (1955-1965)
Sau giải phóng Thủ đơ ngày 10-10-1954, nhiệm vụ mới được đặt ra cho thành phố Hà
Nội là nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, giải quyết nạn thất
nghiệp, ổn định đời sống nhân dân.
Bước vào giai đoạn mới, Đồng Nhân cũng như nhiều địa phương khác trên miền Bắc
phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh và của chế độ cũ để lại: Nhiều vùng đất bị bỏ
hoang hóa, hàng rào dây thép gai, bom mìn của địch gài lại chưa được tháo gỡ, nhiều nhà
cửa của nhân dân bị tàn phá, trâu bò bị bắn giết, nơng cụ hư hỏng, an ninh chính trị, trật
tự, an tồn xã hội cịn nhiều phức tạp. Tổ chức Đảng, chính quyền các cấp và các đồn thể
quần chúng chưa được củng cố.
Ngày 1-1-1955, hàng trăm người dân Đồng Nhân phấn khởi cùng nhân dân Thủ đô
tham gia cuộc mít tinh ở quảng trường Ba Đình lịch sử mừng chiến thắng, mừng Đảng,
mừng chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Thủ đơ. Nhân dân Đồng Nhân tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái bắt tay thực hiện nhiệm vụ củng cố chính quyền, khôi
phục kinh tế ổn định cuộc sống. Lúc này người dân Đồng Nhân gặp nhiều khó khăn hơn
do 8 năm trong vùng tạm chiếm của địch, ruộng vườn hoang hóa, đời sống nhân dân đói
khổ, lạc hậu, nhà cửa chật chội, chen chúc trong ngõ xóm tối tăm lầy lội, nhiều người
khơng có việc làm, trẻ em thất học, tệ nạn mê tín dị đoan cịn ảnh hưởng trong nhân dân.
Bọn tề ngụy ở địa phương tuy bị tan rã nhưng vẫn cịn số ít ngấm ngầm hoạt động chống
phá chính quyền. Để giải quyết khó khăn trước mắt, chính quyền địa phương đã cấp phát
gạo, vải cho những gia đình khó khăn và vận động nhân dân giúp đỡ nhau sửa chữa nhà
cửa, cùng nhau tu sửa đường làng ngõ xóm, lập ban vệ sinh phịng bệnh, các đợt tiêm
phòng tả, thương hàn được tiến hành sâu rộng, phong trào văn hóa văn nghệ diễn ra sơi
nổi tạo khơng khí vui tươi lành mạnh trong nhân dân, đẩy lùi từng bước các tệ nạn xã hội.
Tháng 10-1955, thành phố Hà Nội tiến hành đăng ký hộ tịch hộ khẩu. Nhân dân Đồng
Nhân tích cực thực hiện chủ trương của thành phố, hăng hái làm tốt công tác đăng ký hộ
khẩu, đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động cưỡng ép di cư của kẻ địch. Nhiều gia
11


12


đình đã giác ngộ từ bỏ ý định di cư vào Nam yên tâm ở lại quê hương. Lúc này ở nội
thành Hà Nội được phân cấp theo quận, khu phố, khối phố, rồi đến tổ dân phố, tất cả chia
theo số thứ tự 1,2,3... Cán bộ công an làm tốt công tác đăng ký hộ khẩu ở khu vực Đồng
Nhân lúc này là ông Nguyễn Trọng Định (ông Định ở số nhà 17, trại Mê Linh - Phường
Đồng Nhân). Sau khi đăng ký hộ khẩu, ông Định ở lại làm hộ tịch viên khối 1. Khu vực
phố Nguyễn Công Trứ do đồng chí Nguyễn Kim Nhung làm hộ tịch viên khối 7.
Ngày 24-4-1957 lần đầu tiên từ sau ngày giải phóng Thủ đơ, hơn 90% cử tri Đồng
Nhân đã hăng hái tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân thành phố khóa I.
Đến năm 1958, 1959, nhiều khu vực ao hồ, bèo tây được san lấp, một loạt nhà cao
tầng được xây dựng thành các khu tập thể: Trần Hưng Đạo, Nhà máy rượu Hà Nội, Bộ Y
tế, Đại học Dược, Viện vệ sinh dịch tễ (các tập thể này là khối 38).
Tập thể Dệt kim Đông xuân, Bộ Nông nghiệp, Dược phẩm II, Bộ Công nghiệp nhẹ,
Tổng Cục bưu điện (Năm tập thể này là khối 39+ 40).
Năm 1959, đồng chí Nhung chuyển về thị xã Sơn Tây, đồng chí Nguyễn Gia Bảo thay
đồng chí Nhung làm hộ tịch viên khối 7. Năm 1960 khối 1 thành khối 43, khối 7 thành
khối 32. Đồng chí Bảo làm hộ tịch viên cả 2 khối này.
Từ năm 1960 trở về trước, khối phố chưa thành lập tổ chức Đang Cộng sản Việt Nam.
Các cán bộ công tác tại khối phố có cảnh sát khu vực, phái viên Ủy ban. Nếu là đảng viên
thì sinh hoạt theo cơ quan ngành dọc, cơ sở chưa có đảng viên, một số quần chúng tích
cực được học lớp tìm hiểu về Đảng. Từ năm 1960, sau đợt cải tạo lại nhà cửa, cải tạo công
thương nghiệp, xây dựng các Hợp tác xã, một số cán bộ khối phố có thành tích xây dựng
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam như ông Phạm Văn Khương là Trưởng ban
bảo bệ khối 23 (ông Cương có thành tích xây dựng Hợp tác xã Vận tải, nhà ở số 7 xóm
Chùa Hai Bà); bà Phạm Thị Vượng hoạt động ở phụ nữ khối 26 (xây dựng Hợp tác xã đan
len, nhà ở 37 phố Nguyễn Công Trứ).
Thời kỳ này khu phố Hai Bà Trưng chia thành năm tiểu khu. Tiểu khu 2 gồm các

phường: phố Huế, Phạm Đình Hồ, Ngơ Thì Nhậm, Đồng Nhân. Đảng viên các khối phố
sinh hoạt thành chi bộ trực thuộc Đảng bộ tiểu khu 2, do đồng chí Đặng Trần Linh làm Bí
thư Đảng bộ.
Về tổ chức chính quyền, khối phố khơng phải là một cấp chính quyền cơ sở. Mỗi khối
có một đồng chí cán bộ Ủy ban hành chính khu phố được cử về làm nhiệm vụ, gọi là phái
viên.

11

12


Mỗi khối phố có một ban đại biểu và một ban bảo vệ. Ban đại biểu có từ 5-7 người có
nhiệm vụ tổ chức vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, chăm lo đời sống nhân dân, xét đề nghị trên cấp các loại tem phiếu, trợ
cấp khó khăn cho dân, tổ chức nhân dân thực hiện phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Về tổ chức đoàn thể, mỗi khối phố đều có các tổ chức đồn thể như Hội phụ lão do
ông Nguyễn Trọng Vịnh, nhà ở 18 ngõ Mê Linh làm Hội trưởng, Hội phụ nữ, khối 23 do
bà Hiệp, ở 13 ngõ Đồng Nhân làm hội trưởng, khối 26 do bà Xuân, ở 47 Nguyễn Công
Trứ, sau là bà Vượng, ở 37 Nguyễn Công Trứ làm Hội trưởng; Đoàn thanh niên khối 23
do anh Phạm Văn Lạc, ở số 7 xóm Chùa làm trưởng ban, khối 26 do ông ông Dương Văn
Việt, ở 13 Nguyễn Công Trứ làm trưởng ban.
Lúc này khối phố có 3 Hợp tác xã là: Gỗ Tiền Phong, Gỗ Đồng Tiến, Hộp giấy Hịa
Bình và một trường học cấp I, II mang tên Trưng Trắc.
II. Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1965-1975)
Ngày 5-8-1964 đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ngày 29-6-1966
chúng đánh phá Thủ đô, Thành ủy Hà Nội xác định: "Nhiệm vụ cấp bách trước mắt của
nhân dân Thủ đô cũng như nhân dân miền Bắc là cùng đồng bào miền Nam đánh thắng
đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội... Tư tưởng chỉ đạo

chung là quyết tâm phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, nhiệt tình cách mạng, ý thức
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng vượt qua khó khăn, dũng cảm và kiên quyết hồn
thành nhiệm vụ trong bất kỳ tình huống nào". Để thực hiện nghị quyết của Thành ủy,
Đồng Nhân đã chuyển toàn bộ hoạt động sản xuất xã hội từ thời bình sang thời chiến, sẵn
sàng chấp hành mệnh lệnh theo sự chỉ đạo của khu phố Hai Bà Trưng. Chuẩn bị tốt cơng
tác phịng khơng, sơ tán bảo vệ trật tự an ninh, chuẩn bị cứu thương, cấp cứu khi địch
đánh phá địa phương. Mỗi khối dân phố đều thành lập một ban sơ tán do bảo vệ, dân
phòng khối phố trực tiếp chỉ đạo. Việc đào hầm trú ẩn và chiến đấu được thực hiện ở từng
tổ dân phố và từng gia đình. Mỗi gia đình có một hoặc hai hầm chữ A và nhiều hố cá
nhân. Các đường phố ngõ xóm nơi cơng cộng có hố cá nhân. Những nơi làm việc đều có
hầm bằng tấm đan bê tơng để trú ẩn khi có lệnh báo động. Mỗi khối phố đều thành lập
một đội dân phòng, một đội phòng cháy chữa cháy, một đội cứu thương, cứu sập trực tiếp
do Ban đại biểu và Ban bảo vệ khối phố điều hành. Các đội này được tuyển chọn gồm
những người có tinh thần và sức khỏe được huấn luyện nghiệp vụ có các phương tiện cần
thiết để làm nhiệm vụ. Cơng tác phòng gian, phòng gián đề cao cảnh giác cách mạng,
11

12


chống chiến tranh tâm lý và luận điệu xuyên tạc của địch được phổ biến kỹ càng đến từng
hộ gia đình, từng tổ dân phố. Đồn thanh niên đã phối hợp với các lực lượng cơng an, dân
phịng tăng cường kiểm tra, tuần tra canh gác bảo vệ khu vực.
Cùng với việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, nhân dân Đồng Nhân tiếp tục đẩy mạnh
sản xuất. ổn định đời sống. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp của địa phương tổ chức sơ
tán về các tỉnh lân cận Hà Nội. Mỗi cơ sở chỉ để lại một bộ phận nhỏ bảo vệ nhà xưởng và
mua sắm nguyên liệu, vật tư.
Vào những ngày tháng năm này, cán bộ Đảng viên và nhân dân Đồng Nhân không
ngừng nêu cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng cùng nhân dân Thủ đô vừa xây dựng kinh
tế-xã hội vừa đấu tranh ủng hộ giải phóng miền Nam, sẵn sàng chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại miền Bắc của địch. Phong trào "Ngày thứ bảy đẩy mạnh đấu tranh thống
nhất Tổ quốc", do Thành ủy phát động được các chi bộ quán triệt, tổ chức vận động nhân
dân các khối tham gia bằng các việc làm cụ thể. Nâng cao năng suất lao động trong hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp, thi đua học tập tốt trong thanh niên học sinh, giữ gìn trật tự an
toàn trong các tổ dân phố... thi đua với khối 30 (khu phố Đống Đa), khối 26 (khu phố Hai
Bà Trưng) đã đạt thành tích xuất sắc trong phong trào bảo vệ trị an. Đội dân phòng hằng
năm thao diễn kỹ thuật phịng cháy, chữa cháy đoạt giải nhì, ba của khu vực và khu phố.
Nhân dân Đồng Nhân tích cực tham gia lao động xã hội chủ nghĩa, đưa thanh niên đi làm
nghĩa vụ quân sự vượt chỉ tiêu. Các đồn thể hoạt động rất tích cực. Hội phụ nữ duy trì
được tổ phục vụ cơm nồi, nước sôi cho nhân dân. Nhân dân sẵn sàng đi sơ tán khi có lệnh
của thành phố. Lực lượng bảo vệ dân phòng và cán bộ cơ sở ngày đêm tuần tra canh gác
bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và tài sản để nhân dân yên tâm đi sơ tán. Đoàn thanh
niên với phong trào "Ba sẵn sàng"9 hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực công tác và sẵn
sàng chiến đấu các phụ lão và các mẹ chiến sĩ, các cháu thiếu nhi tổ chức thăm hỏi động
viên các chiến sĩ phịng khơng đang trực chiến trong ụ pháo, giúp các chiến sỹ lá ngụy
trang và nước uống nên đã động viên các chiến sĩ hăng hái chiến đấu giữ được tình quân
dân thắm thiết.
Sau khi đế quốc Mỹ ngừng ném bom bắn phá miền Bắc, cùng với nhân dân khu phố
Hai Bà Trưng, nhân dân Đồng Nhân chuyển sang thời kỳ vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến
đấu. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp tiếp tục sản xuất. Đường làng, ngõ xóm, trường
học, tổ dân phố, tổ dân phòng... được củng cố. Các quầy lương thực, thực phẩm duy trì
cung cấp cho nhân dân cơng tác giữ gìn trật tự trị an được bảo đảm.
9. Đồng Nhân có 25 thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước đi năm 1965, 1 đồng chí hy sinh được công nhận
Liệt sỹ (số 34 Nguyễn Công Trứ), 5 đảng viên.

11

12



Ngày 2-9-l969 Chủ tịch Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân
dân Việt Nam từ trần. Sáng ngày 9-9-1969, cùng với nhân dân cả nước, đông đảo cán bộ
và nhân dân Đồng Nhân đã dự lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lịng thành kính
và biết ơn vơ hạn. Biến đau thương thành hành động cách mạng, Đồng Nhân dưới sự lãnh
đạo của khu phố Hai Bà Trưng đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị "Học tập và làm theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí minh" cho tồn thể cán bộ đảng viên và nhân dân.
Ngày 6-4-1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai với miền
Bắc nước ta. Máy bay Mỹ ồ ạt đánh phá Thủ đô Hà Nội, thực hiện mệnh lệnh của thành
phố và khu phố nhân dân Đồng Nhân tu sửa lại hầm hào chiến đấu, hố trú ẩn cá nhân
chuẩn bị sơ tán các cụ già trẻ em ra khỏi thành phố, đội dân phòng, phòng cháy, chữa
cháy, đội cửu thương chống sập được nhanh chóng củng cố chuẩn bị sẵn sàng mọi phương
tiện làm nhiệm vụ khi địch đánh phá.
Những ngày cuối năm 1972, đế quốc Mỹ mở đợt tập kích bằng máy bay B52 đánh phá
Hà Nội và Hải Phòng, nhiều khu vực ở khu phố Hai Bà Trưng cũng bị bắn phá, nhân dân
Đồng Nhân chấp hành lệnh sơ tán triệt để các cụ già em nhỏ, chỉ những người trực tiếp
phục vụ chiến đấu và lực lượng dân phòng ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ tài sản của nhân dân
mới được ở lại.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari được ký kết. Ngày 1-5-1973, nhân dân Đồng Nhân
cùng 10 vạn đồng bào và chiến sĩ Thủ đơ tham gia mít tinh tại Quảng trường Ba Đình lịch
sử mừng chiến thắng, biểu dương lực lượng và sức mạnh của dân tộc. Để mau chóng ổn
định đời sống, nhân dân Đồng Nhân cùng nhân dân Thủ đô bắt tay vào công cuộc khắc
phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục làm nghĩa vụ thiêng liêng với tiền tuyến lớn miền Nam.
Ngày 30-4-l975, miền Nam hồn tồn giải phóng, ngày 15-5-1975 nhân dân Đồng
Nhân cùng nhân dân Thủ đô dự mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy
mừng chiến thắng của dân tộc. Từ đây núi sông liền một dải dân nước Việt Nam đã sum
họp một nhà. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Đồng Nhân
nguyện một lòng vững bước cùng nhân dân cả nước phấn đấu xây dựng Việt Nam đàng
hoàng hơn to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong ước.

11


12


Chương 4
ĐỒNG NHÂN CÙNG CẢ NƯỚC XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975-1985)

I. Xây dựng hệ thống chính trị
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, ngày 30-4-1975, nhân dân Đồng Nhân cùng khu
phố Hai Bà Trưng khẩn trương bước vào xây dựng khôi phục kinh tế sau chiến tranh, náo
nức chờ đón Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IV, ngày 24-5-1976, cử tri Đồng Nhân, Thọ
Lão, Thọ Yên nô nức đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa VI, Quốc hội của nước Việt
Nam thống nhất. Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất đổi tên thành nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước và thành phố về thành lập cấp chính quyền ở cơ
sở, đại diện cho chính quyền khu phố kịp thời giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Một loạt khối phố được sáp nhập thành tiểu khu hành chính.
Khối 23 và khối 26 thành tiểu khu Đồng Nhân gồm các phố Nguyễn Cơng Trứ, Đồng
Nhân, xóm chùa Hai Bà, Đường 337, Đường 336.
Khối 38 và khối 39 thành tiểu khu Thọ Lão gồm: Tập thể nhà máy cơ khí Trần Hưng
Đạo Nhà máy Rượu, Bộ Y tế, Tập thể trường Đại học Dược, Viện Vệ sinh dịch tễ.
Khối 40 và khối 41 thành lập tiểu khu Thọ Yên gồm: Tập thể Dệt kim Đông Xuân, Bộ
Công nghiệp, Tổng cục Bưu điện, Xí nghiệp Dược phẩm TW 2, Bộ Cơng nghiệp nhẹ.
Lúc này tại mỗi tiểu khu hành chính đều có chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư là
những cán bộ đã về hưu, Phó Bí thư là cán bộ tại chức. Tiểu khu Đồng Nhân do ông Đặng
Văn Quý, ở số nhà 31 Nguyễn Công Trứ, là cán bộ miền Nam tập kết đã nghỉ hưu làm Bí
thư. Sau là ơng Hồng Anh Tuấn, ở số 7 ngõ 19 Nguyễn Cơng Trứ, ơng Nguyễn Gia Bảo

là Phó Bí thư. Tiểu khu Thọ Lão do bà Lê Thị Kỷ làm Phó Bí thư. Tiểu khu Thọ n do
ơng Trần Văn Nhẫn, ở tập thể Bộ Nơng nghiệp làm Bí thư, ơng Nguyễn Văn Tấn làm Phó
Bí thư. Mỗi chi bộ tiểu khu có trên dưới 20 đảng viên.
Về tổ chức chính quyền, tiểu khu hành chính lúc này chỉ là một bộ phận của Ủy ban
hành chính khu phố có dấu trịn với tiêu đề "Ban đại diện hành chính tiểu khu".

11

12


Tiểu khu Đồng Nhân lúc đầu do ông Nguyễn Gia Bảo, nguyên là cán bộ công an
thuộc đồn Công an số 21 chuyển ngành, làm Trưởng ban đại diện hành chính tiểu khu, ở
tiểu khu Thọ Lão do bà Lê Thị Kỷ ở tập thể Trần Hưng Đạo làm Trưởng ban, ở Thọ Yên
do ông Nguyễn Văn Phấn làm Trưởng ban. Các ban đại diện tiểu khu được Ủy ban hành
chính khu phố giao nhiệm vụ trực tiếp giải quyết những vấn đề có liên quan đến việc
chăm lo phục vụ đời sống cho nhân dân. Tổ chức vận động nhân dân thực hiện nghị quyết
của Đảng, chủ trương của Nhà nước trong các thời kỳ cách mạng. Vận động nhân dân nộp
thuế công thương nghiệp, tạo điều kiện cho thợ thủ công thành lập tổ sản xuất, Hợp tác xã,
giới thiệu người chưa có việc làm vào các cơ quan xí nghiệp của Nhà nước, thực hiện luật
nghĩa vụ lao động, quản lý thị trường cải tạo tiểu thương. Vận động nhân dân tham gia
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tại mỗi tiểu khu đều có Hội Phụ lão, Hội
Phụ nữ, Đồn thanh niên.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy và Ủy ban hành chính khu phố Hai Bà Trưng,
chi bộ Đảng và Ban đại diện tiểu khu đã chỉ đạo và tố chức các đoàn thể quần chúng thực
hiện nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng, chính
quyền cơ sở đã gần dân, bám dân trực tiếp lắng nghe những ý kiến, tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân phản ánh lên cấp trên kịp thời. Đã giải quyết một số thủ tục hành chính tránh
gây phiền hà cho nhân dân. 100% đảng viên trong chi bộ tham gia đảm nhận công tác
trọng trách của tiểu khu và đi đầu trong các phong trào được nhân dân tín nhiệm. Nhân

dân tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, tự nguyện đóng góp ngày cơng lao động xã hội chủ
nghĩa, xây dựng các cơng trình phúc lợi của thành phố. Nhiều gia đình có con em đến tuổi
đã tình nguyện tham gia quân đội, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Công tác quản lý thị
trường, cải tạo tiểu thương chuyển sang sản xuất có hiệu quả. Nhiều người đã bỏ buôn bán
chuyển sang sản xuất tại các Hợp tác xã, số còn lại chấp hành kê khai đăng ký kinh doanh
và nộp thuế theo quy định.
Sau khi đất nước giải phóng năm 1975, nhân dân ta tập trung giải quyết hậu quả chiến
tranh thì biên giới Tây Nam của chúng ta liên tục bị chính quyền phản động Pơnpốt Iyêngsari xâm phạm. Ngày 7-1-1979, quân và dân Campuchia với sự giúp đỡ của quân
tình nguyện Việt Nam đã chiến đấu giải phóng hồn tồn Campuchia, cứu dân tộc
Campuchia thốt khỏi họa diệt chủng của bè lũ Pôn pốt - Iyêngsari. Rạng sáng ngày 17-21979, Trung Quốc huy động 60 vạn qn vơ cớ tấn cơng tồn tuyến biên giới phía Bắc
Việt Nam, gồm 6 tỉnh từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây cho ta nhiều thiệt hại về người và
của.
11

12


Thực hiện lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam; Lệnh Tổng động viên của Chủ tịch nước và mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Quốc
phịng, tồn dân Đồng Nhân tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, quản lý
giáo dục thanh thiếu niên hư, phòng chống cháy nổ, tham gia tổ dân phòng tuần tra canh
gác bảo vệ tiểu khu, đảm bảo cho địa bàn không xẩy ra trộm cướp, án mạng. Đội phòng
cháy chữa cháy do ông Nguyễn Văn Doanh, ở 47 Nguyễn Công Trứ làm đội trưởng hằng
năm đi hội thao kỹ thuật phòng cháy chữa cháy toàn khu phố liên tục đạt giải nhì, có năm
được đi thi tại thành phố. Đội ngũ cán bộ tổ trưởng, tổ phó dân phố và các đồn thể nhiệt
tình tham gia tất cả các cơng tác do cấp trên giao phó. Riêng hội phụ nữ các tiểu khu vẫn
duy trì việc phục vụ cơm nồi, nước sôi cho nhân dân và quản lý giáo dục thanh thiếu niên
hư, đặc biệt cơng tác kế hoạch hóa gia đình do Hội phụ nữ làm nịng cốt, tích cực tuyên
truyền vận động phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện kế hoạch hóa, đã nhiều năm hạ tỷ
lệ sinh.

Ngày 25-7-1979, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân khu phố Hai Bà Trưng theo
sự chỉ đạo của thành phố đã sắp xếp lại 51 tiểu khu nhỏ thành 22 tiểu khu lớn với quy mô
mỗi tiểu khu có trên dưới 10.000 dân. Tháng 10-1979, ba tiểu khu Đồng Nhân, Thọ Lão,
Thọ Yên được nhập lại thành tiểu khu mới mang tên tiểu khu Đồng Nhân, với quy mô trên
dưới hơn một vạn nhân khẩu. Lúc này tiểu khu Đồng Nhân có 12 chi bộ (gồm 9 chi bộ
đường phố, 3 chi bộ cơ quan), do đồng chí Lê Lan, ở tập thể xí nghiệp Dược phẩm TW2,
là trung tá quân đội nghỉ hưu làm Bí thư Đảng ủy tiểu khu, đồng chí Lê Thị Kỷ, ở tập thể
Trần Hưng Đạo làm Phó Bí thư và là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tiểu khu và đồng chí
Nguyễn Gia Bảo làm Phó Chủ tịch. Trong Ủy ban nhân dân lâm thời lúc đó có các ban
ngành: Lao động xã hội, Văn hóa tuyên truyền, Thống kê, Quản lý thị trường, Ban qn
sự. Đồn cơng an do đồng chí Đinh Xuân Bá làm trưởng đồn. Các đoàn thể như Mặt trận
Tổ quốc do ông Trần Văn Nhẫn làm Chủ tịch, bà Nguyễn Minh Tâm là Hội trưởng phụ
nữ, ông Dương Văn Việt là Bí thư Đồn Thanh niên. Cùng trong thời gian này đang phải
xây dựng phịng tuyến phía Bắc chống quân Trung Quốc, Đồng Nhân đã thành lập 2 trung
đội xung kích, thay phiên nhau đi làm nghĩa vụ.
Năm 1981, thực hiện Hiến pháp 1980, bộ máy chính quyền thành phố được tổ chức
thống nhất thành 3 cấp, khu phố Hai Bà Trưng thành quận Hai Bà Trưng, tiểu khu Đồng
Nhân thành phường Đồng Nhân là cấp chính quyền cơ sở. Công an tiểu khu đổi là Công
an phường Đồng Nhân.

11

12


Cuối năm 1981, theo sự chỉ đạo của quận Hai Bà Trưng, phường Đồng Nhân đã tổ
chức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất. Tại Đại hội này, đồng chí Lê Lan được bầu
làm Bí thư Đảng bộ phường Đồng Nhân. Hội đồng nhân dân khóa I phường Đồng Nhân
đã bầu 50 đại biểu và bầu đồng chí Lê Thị Kỷ làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường,
Đồng chí Nguyễn Gia Bảo làm Phó Chủ tịch. Qn triệt nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận

Hai Bà Trưng lần thứ 17 "Muốn xây dựng quận trở thành vững mạnh, thì trước hết phải
xây dựng các Đảng bộ cơ sở, mà trọng tâm là xây dựng các Đảng bộ phường thật sự
trong sạch, vững mạnh để đủ sức lãnh đạo thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị ở địa
phương". Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy phường, toàn bộ đảng viên trong Đảng bộ đều
xác định rõ trách nhiệm của người đảng viên, mặc dù đã được nghỉ hưu theo chế độ song
vẫn tích cực tham gia cơng tác trong mọi lĩnh vực từ phường đến cụm dân cư, tổ dân phố,
giáo dục gia đình mình, động viên nhân dân xung quanh thực hiện các phong trào ở địa
phương, thực hiện đường lối nghị quyết của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà
nước.
Hội đồng nhân dân phường ra đời thực sự là người đại diện cho nhân dân, thường
xuyên gần gũi dân, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của dân kiến nghị với Ủy ban
nhân dân phường, hoặc báo cáo, đề xuất với Ủy ban nhân dân quận có những biện pháp
phù hợp giải quyết có hiệu quả, kịp thời đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Chính
quyền phường đã làm tốt cơng tác hậu phương quân đội, tổ chức tiễn đưa tân binh và đón
bộ đội xuất ngũ. Số thanh niên xuất ngũ được địa phương liên hệ với các cơ quan xí
nghiệp sắp xếp việc làm, trong đó có người được phịng lao động quận sắp xếp đi lao động
ở nước ngoài. Phường thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đối với gia đình
thương binh, gia đình liệt sĩ, hằng năm tổ chức gặp mặt gia đình chính sách.
Năm 1983, Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Đồng Nhân lần thứ II. Đại hội đã kiểm
điểm công tác trong nhiệm kỳ 2 năm 1981-1982 và đề ra phương hướng nhiệm vụ năm
1983-1984. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 12 đồng chí do đồng chí Nguyễn Khắc
Đàm làm Bí thư, đồng chí Lê Thị Kỷ làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch. Đánh giá kết quả
công tác năm 1983, Đảng bộ phường đã có chuyển biến bước đầu trong việc quán triệt
nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về công tác Thủ đô Hà Nội. Sau đại hội các chi bộ, Đại hội
Đảng bộ phường, các cấp ủy đã được kiện toàn. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
đoàn thể quần chúng trong phường được củng cố vững mạnh, ở từng thời gian do yêu cầu
công tác đã thành lập các ban chỉ đạo Công thương nghiệp, Kiểm tra tem phiếu, Chống
bão lụt, Xây dựng nếp sống công cộng...
11


12


×