Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Biện pháp dạy học Âm nhạc theo hướng phân hóa đối tượng có tương tác học sinh trong môn Âm nhạc tại trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.16 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và rèn luyện tại Trường ĐHSP Trung ương Hà Nội, bằng
sự biết ơn và kính trọng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, các
phòng, khoa thuộc Trường ĐHSP Trung ương Hà Nội, Trường CĐVH nghệ thuật
Đăk Lăk và các thầy giáo cơ giáo đã nhiệt tình hướng dẫn, giảng dạy và tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và

2

hồn thiện đề tài nghiên cứu khoa học này.

2

Đặc biệt, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Cơ giáo Nguyễn Thị Thắm,
người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè cùng đồng nghiệp đã tạo điều kiện
sát, nghiên cứu để hoàn thành đề tài này.
Tuy nhiên điều kiện về năng lực bản thân còn hạn chế, chuyên đề nghiên
cứu khoa học chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ giáo, bạn bè và đồng nghiệp để bài
nghiên cứu của tôi được hồn thiện hơn.

3
3
4
4
5
6
6
7
7



Tơi xin chân thành cảm ơn!

10
12

12

16
16
16
MỤC LỤC
1

22
22
26
29


1. Lý do chọn đề tài……………………………………………….
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài……………………………………
3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………….
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………….
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………
6. Đóng góp của đề tài ……………………………………………..
7. Cấu trúc đề tài……………………………………………………..
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lí luận …………………………………………………….
1.2 Cơ sở thực tiễn………………………………………………….

1.2.1 Thực trạng dạy học theo hướng phân hóa đối tượng học sinh
tại trường T’H Nguyễn Thị Minh Khai……………………………….
1.2.2.Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP DẠY- HỌC MƠN ÂM NHẠC THEO HƯỚNG
PHÂN HĨA ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH CÓ TƯƠNG TÁC
1. Quan điểm chung về soạn giảng môn âm nhạc …………………………
2. Dạy học và soạn giảng theo hướng có phân hóa đối tượng học sinh….
3. Tở chức dạy học phân hóa trong mỡi lớp học, tiết học........................
3.1.Quan tâm đúng đối tượng trong những hoạt động dạy học đồng loạt....
3.2. Tổ chức những hoạt động phân hóa trên lớp......................................
3.3. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.........................
3.4. Kết hợp đánh giá của cô giáo với tự đánh giá của trò...........................
KẾT LUẬN…………………………………………………………………..
ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………..
1. Lý do chọn đề tài
2


Như chúng ta đã biết. Âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả để
thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ nhằm góp phần giáo dục tồn diện
cho học sinh, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người là một việc bắt buộc.
Hiện nay ở các trường phở thơng, quan điểm dạy học phân hố đối tượng trong
môn âm nhạc chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên chưa thực sự coi trọng yêu
cầu phân hoá đối tượng trong dạy học. Đa số các giờ học âm nhạc vẫn được tiến
hành đồng loạt áp dụng như nhau cho mọi đối tượng học sinh, các yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng biểu diễn, gõ đệm, kỹ năng xác định cao độ của các bài học hát, tập
đọc nhạc... quy định cho mọi đối tượng học sinh đều có chung một mức độ khó dễ. Do đó khơng phát huy được tính tối đa năng lực cá nhân của học sinh, chưa
kích thích được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc chiếm
lĩnh tri thức, dẫn đến chất lượng giờ dạy không cao, chưa đáp ứng được mục tiêu
giáo dục.

Vấn đề đặt ra, dạy học âm nhạc sao cho mọi học sinh đều nhận được sự quan
tâm thích đáng của giáo viên, được hoạt động nhận thức tích cực và phù hợp với
năng lực của mình và được phát triển hết khả năng, năng khiếu của mỗi học sinh
đang là vấn đề cần quan tâm.
Phân phối chương trình học hát cũng như tập đọc nhạc quy định thời gian rất ít
nên việc nắm vững lí thuyết và vận dụng vào bài học đối với học sinh là khó khăn.
Nhiều học sinh gặp khơng ít lúng túng sai sót khi luyện tập hát, Tập đọc nhạc
( TĐN), tập biểu diễn , gõ đệm . Nếu các giờ dạy vẫn được tiến hành đồng loạt, áp
dụng như nhau cho mọi đối tượng học sinh thì sẽ có nhiều học sinh yếu kém khơng
nắm được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Dạy học phân hoá phù hợp với từng đối
tượng học sinh , dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác nhau.
Mỡi người có năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, sẽ tạo ra động lực học tập
cho các em, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của
3


các học sinh có năng khiếu. Chỉ có dạy học phân hố theo đối tượng học sinh mới
có khả năng loại trừ tình trạng quá tải đối với học sinh. Dạy học phân hoá cũng là
điều kiện chuẩn bị nghề cho học sinh. Phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo
động lực thúc đẩy học sinh học tập. Dạy học phân hóa là một con đường, một cách
có thể khắc phục những hạn chế nêu trên. Để phù hợp riêng, cần phải dạy học phân
hóa.
Vì những lí do đã nêu, tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài: “Biện pháp dạy
học Âm nhạc theo hướng phân hóa đối tượng có tương tác học sinh trong mơn
Âm nhạc tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Huyện Kbang, Tỉnh Gia
Lai” nhằm nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc tại nhà trường.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
- Từ năm 2009- 2019 qua 10 năm công tác, đúc rút kinh nghiệm từ bản thân
cũng như đọc và nghiên cứu các tài liệu viết về lí luận dạy học phân hóa , tài liệu
hướng dẫn tự học, sách tham khảo, tạp chí nghiên cứu giáo dục.

/>- Modun TH 33thực hành dạy phân hóa ở tiểu học. Tài liệu Bộ GD& ĐT …
- Thông qua các tài liệu trên đã góp phần cho tơi xử lý các thơng tin của đề tài,
giúp vấn đề tôi đưa ra trong đề tài được sáng tỏ hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm đưa ra các giải pháp, phương pháp, cách thức để đào tạo học sinh theo
hướng phân hóa đối tượng học sinh đạt hiệu quả.
- Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào mơn Âm nhạc để vừa bồi dưỡng
nâng cao phát triển năng khiếu cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản
4


cho học sinh trung bình, cho học sinh yếu kém khơng có năng khiếu. Qua đó nâng
cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu :Biện pháp dạy học Âm nhạc theo hướng phân hóa đối
tượng có tương tác học sinh trong mơn Âm nhạc.
b. Phạm vi nghiên cứu : HS tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Huyện
Kbang, Tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu viết về lí luận
dạy học phân hóa trong mơn Âm nhạc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến
tài liệu hướng dẫn tự học, sách tham khảo, tạp chí nghiên cứu giáo dục, sau đó
phân tích, tởng hợp, sáng tạo.
- Phương pháp điều tra: Quan sát, tìm hiểu, tiến hành thăm lớp, dự giờ trao đởi,
tìm hiểu ý kiến một số đồng nghiệp dạy giỏi mơn Âm nhạc và các mơn khác, có
kinh nghiệm, có tâm huyết và quan tâm đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thử nghiệm ở học sinh tại T’H
Nguyễn Thị Minh Khai, so sánh kết quả, đánh giá sự tiến bộ của học
sinh trước và sau khi áp dụng đề tài.
6. Đóng góp của đề tài

Phân hoá dạy học là con đường nâng cao hiệu quả của q trình dạy học, nó
mang lại hiệu quả to lớn. Khi áp dụng phương pháp này học sinh sẽ nắm vững
kiến thức hơn, hiểu rõ các cách biểu diễn và cách làm bài tập ở tập đọc nhạc, vận
dụng thành thạo các kỹ năng gõ đệm, hát, múa và thể hiện đúng tiết tấu của bài
TĐN, đọc đúng tên nốt, đúng giai điệu bài TĐN. Giúp học sinh trung bình và học
5


sinh yếu nắm vững chắc về các yêu cầu của các bài học, cách biểu diễn, cách gõ
đệm. Được học và rèn luyện kỹ năng thực hành theo hướng tích cực hóa hoạt động
nhận thức ở những mức độ khác nhau thông qua bài luyện tập yêu cầu mục tiêu
khác nhau. Bên cạnh đó cịn giúp học sinh khá giỏi có điều kiện tìm hiểu thêm một
số hình thức một số thể loại âm nhạc khác, các bài học khác nâng cao hơn nhằm
phát huy tài năng, năng khiếu, phát huy tính tự học, tìm tịi, sáng tạo của học sinh
trong học âm nhạc.
7. Cấu trúc đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận , tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài có cấu trúc gồm
2 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương II: Biện pháp dạy- học mơn âm nhạc theo hướng phân hóa đối tượng
học sinh có tương tác.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lí luận
- Dạy học phân hóa tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học phù
hợp với năng lực, sở thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất
6



phát từ chức năng giáo dục, xét đến cùng là chức năng phát triển năng khiếu của
mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó,
cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối đa năng khiếu của mình khi nhà giáo dục và
hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu, nguyện vọng bằng một
chương trình nội dung và cách thức phù hợp. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2
khố VIII đã nêu: “Đởi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào q trình dạy
- học”.“Đởi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình,
nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được
chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo
dục của khu vực và trên thế giới; khắc phục cách đởi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn
tởng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của
dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo
điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước”. Trên thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh
nghiệm của mình khi giảng dạy trên lớp đã có ý thức chuẩn bị cơng phu bài giảng,
tìm hiểu trình độ nhận thức chung của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS
cịn yếu kém trong học tập, trên cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục
đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng
của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện
"mũi nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học âm nhạc cần được tiến
hành theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp
làm nền tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều
kiện chung của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung
và phương pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ năng khiếu
7



và điều kiện chung đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát
thực, chưa phù hợp với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa
đưa diện học sinh yếu kém, khơng có năng khiếu lên trình độ trên trung bình. Giúp
các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể hịa nhập vào học tập đồng loạt theo
trình độ chung.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng dạy học theo hướng phân hóa đối tượng học sinh tại
trường T’H Nguyễn Thị Minh Khai.
1.2.1.1. Đối với giáo viên
a. Ưu điểm
- Giáo viên biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để giúp học sinh
tích cực, chủ động thực hiện các nội dung theo mục tiêu bài soạn.
- Chất lượng giờ học chuyển biến tích cực thể hiện qua từng tiết học. Các phong
trào văn nghệ tại địa chỉ đơn vị, địa phương cũng góp phần nâng cao kiến thức âm
nhạc cho cơ và trị.
- Trong tiết dạy, giáo viên có đầu tư vào bài dạy, thể hiện sự tự tin, phát huy tính
sáng tạo trong phương pháp, trong xử lý tình huống sư phạm.
- Bài soạn đảm bảo kiến thức, kỹ năng. Hầu hết bài soạn có lồng ghép các nội
dung cần tích hợp, phân hóa đối tượng học sinh.
- Giáo viên chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học trong các tiết dạy.
- Tiến trình tiết dạy hợp lý, sử dụng nhiều hình thức tở chức lớp học và phương
pháp dạy học đặc trưng của bộ mơn, có chú ý phân hóa đối tượng học nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
8


- Giáo viên mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng.
b. Những hạn chế
- Trong việc soạn giảng giáo viên đôi lúc chưa thể hiện sự phân hóa đối tượng
học sinh ( HS). Đơi khi chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học.

- Một số bài soạn chưa thể hiện cụ thể nội dung hoạt động của cơ và trị, chưa
phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp.
- Dạy học bộ mơn tở chức các hoạt động như thảo luận, luyện tập nhóm, trị
chơi... chưa tự nhiên và kém hiệu quả.
- Chưa đáp ứng đủ cơ sở vật chất: Chưa có phịng học âm nhạc riêng, chưa có
các thiết bị âm thanh, loa đài, máy chiếu nhằm phục vụ cho dạy học âm nhạc
- Thiết bị dạy học đàn organ, đàn piano, kèn melodyon, nhạc cụ gõ chưa được
khai thác sử dụng hợp lý, gây lãng phí.
c. Ngun nhân hạn chế
- Giáo viên chưa có nhiều thời gian để đầu tư trong việc lựa chọn và thiết kế
công cụ dạy học.
- GV giảng dạy một lớp chỉ có 1 tiết/ 1 tuần, thời gian tiếp cận với HS cịn ít
chưa đủ điều kiện để GV hiểu sâu đối tượng học sinh để phân hóa đối tượng HS.
- HS còn chưa thành thạo các kỹ năng học tập theo nhóm cộng tác.
- Kinh phí nhà trường chưa đủ điều kiện để xây dựng phòng học và các thiết bị
dạy học riêng cho môn âm nhạc.

9


- Thời gian tiết học là 40 phút và học theo phân phối chương trình nên khơng có
điều kiện khai thác, hướng dẫn học sinh sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy và
học.
1.2.1.2 Đối với học sinh:
a. Ưu điểm:
- Hầu hết học sinh đều thích thú học tập và tham gia tích cực các hoạt động âm
nhạc..
- Đặc biệt mối quan hệ tương tác học tập giữa học sinh và học sinh chưa được
khai thác tốt.
- Các em mạnh dạn trong việc tham gia trị chơi, tích cực luyện tập hát, múa, gõ

đệm tập đọc nhạc, biết sáng tạo động tác đơn giản cho bài hát.
- Các em tự trang bị bộ gõ khi học như thanh phách, song loan...
b. Những hạn chế
- Năng lực cảm thụ và tiếp thu âm nhạc có sự khác biệt giữa các đối tượng học
sinh trong nhà trường, giữa HS có năng khiếu và khơng có năng khiếu.
- Đại đa số các em học sinh dân tộc nhất là tại hai điểm làng H’tăng và làng
Chiêng cịn gặp khó khăn về phát âm, trong thời gian đầu dạy hát truyền khẩu.
- Học sinh khối bốn, năm chưa được học tập đọc nhạc đúng theo quy trình mà
chỉ học theo phân phối chương trình, thời gian một tiết học là 40 phút, chưa đủ
điều kiện về thời gian để HS được luyện sâu hơn bài tập đọc nhạc. .
- Một số học sinh chưa chủ động học và luyện tập, chây lười học tập.
c. Nguyên nhân hạn chế
10


- Âm nhạc là một mơn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với
mơn học khác, tuy nó khơng địi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối nhưng lại địi
hỏi người học phải có sự yêu thích, sự đam mê thậm chí là một chút cái gọi là
“năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được.
- HS người đồng bào dân tộc thiểu số đa số sử dụng giao tiếp bằng tiếng địa
phương nên khi nói và phát âm tiếng việt rất khó để chính xác về âm, vần, ngữ
điệu.
- Một số HS cịn xem nhẹ mơn âm nhạc nên khơng tập trung trong giờ học.
1.2.2.Tiểu kết chương 1.
Qua việc trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu tình hình thực tế tại trường T’H Nguyễn
Thị Minh Khai, Kbang, Gia Lai cho thấy, từ những nguyên nhân, hạn chế cho thấy
Âm nhạc là một mơn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với mơn
học khác, tuy nó khơng địi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối nhưng lại địi hỏi
người học phải có sự u thích, sự đam mê thậm chí là một chút cái gọi là “năng
khiếu”, điều này khơng phải học sinh nào cũng có được. HS người đồng bào dân

tộc thiểu số đa số sử dụng giao tiếp bằng tiếng địa phương nên khi nói và phát âm
tiếng việt rất khó để chính xác về âm, vần, ngữ điệu. Một số HS còn xem nhẹ môn
âm nhạc nên không tập trung trong giờ học. Năng lực cảm thụ và tiếp thu âm nhạc
có sự khác biệt giữa các đối tượng học sinh trong nhà trường, giữa HS có năng
khiếu và khơng có năng khiếu. Đại đa số các em học sinh dân tộc nhất là tại hai
điểm làng H’tăng và làng Chiêng cịn gặp khó khăn về phát âm, trong thời gian
đầu dạy hát truyền khẩu. Thời gian một tiết học là 40 phút, chưa đủ điều kiện về
thời gian để HS được luyện sâu hơn bài tập đọc nhạc. .Từ những vấn đề nêu trên ,
đề tài hướng đến mục đích đởi mới. Sử dụng những biện pháp dạy học Âm nhạc
theo hướng phân hóa đối tượng có tương tác học sinh trong mơn Âm nhạc tại
11


trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai, Huyện Kbang, Tỉnh Gia Lai” đưa diện học
sinh yếu kém, khơng có năng khiếu lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt
được chuẩn tối thiểu để có thể hịa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung,
nhằm nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc tại nhà trường.

CHƯƠNG 2
BIỆN PHÁP DẠY- HỌC MƠN ÂM NHẠC THEO HƯỚNG PHÂN HĨA
ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH CÓ TƯƠNG TÁC
1. Quan điểm chung về soạn giảng mơn âm nhạc
- Trình độ văn hóa âm nhạc là một bộ phận nhỏ để tạo thành một trình độ văn
hóa chung ở mỡi cấp học, bậc học. Trình độ văn hóa âm nhạc tạo nên bởi một quá
trình tập hát, nghe nhạc và những hiểu biết mang tính phở thơng về âm nhạc.
Người có trình độ văn hóa âm nhạc nhất định khơng địi hỏi phải hát hay, đàn giỏi
mà chủ yếu căn cứ vào năng lực cảm thụ, tiếp thu âm nhạc và tích cực tham gia các
hoạt động âm nhạc như: văn nghệ chương trình ngoại khóa, tham gia các câu lạc
bộ nghệ thuật, tập đàn, tập hát và biết rung động trước thế giới âm nhạc.
12



- Vì là mơn học mang tính nghệ thuật địi hỏi người thầy, người cơ đơi lúc phải
thốt khỏi những ràng buộc từ bản thân, khi lên lớp phải toàn tâm và biết rõ trọng
trách, nhiệm vụ được giao.
- Việc xử lý tình huống trong dạy học âm nhạc là khơng hạn chế. Tính thuyết
phục qua mỡi tiết học là thước đo của lịng kiên trì luyện tập, làm mẫu chính từ
người thầy, người cơ.
- Học sinh tiểu học và nhất là học sinh khối lớp bốn năm phải được học nhạc
theo quy trình về mạch kiến thức, HS phải được vui chơi và hiểu được âm nhạc là
món ăn tinh thần trong đời sống con người.
- Soạn giảng theo phương pháp phân hóa phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của HS; Bồi dưỡng cho HS năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
- Soạn giảng theo phương pháp phân hóa giúp q trình dạy học sẽ đạt hiệu quả
mong muốn nếu biết sử dụng các hứng thú của học sinh vào mục đích dạy học và
giáo dục.
2. Dạy học và soạn giảng theo hướng có phân hóa đối tượng học sinh
- Sự hiểu biết của giáo viên về từng học sinh là một điều kiện cần thiết đảm bảo
hiệu quả của quá trình học phân hoá. Trong một lớp học, học sinh dù ở cùng một
độ t̉i nhưng vẫn ln có những khác biệt nhất định về thể chất, sở thích, tính
cách, năng lực, năng khiếu, trình độ phát triển tư duy...
- Trong một lớp học phân hóa, sự tương đồng của các học sinh được thừa nhận
và coi như điều hiển nhiên, còn những khác biệt là nhân tố quan trọng để lựa chọn
nội dung, phương pháp, hình thức tở chức, phương tiện dạy và học.

13


- Để sử dụng những biện pháp phân hoá phát triển học sinh diện yếu kém, khơng

có năng khiếu lên trình độ trung bình cần có các điều kiện sau:
+ Giáo viên cần nắm vững kiến thức trọng tâm của mỡi bài học cũng như quy
trình dạy cho từng nội dung khác nhau, từ đó thiết kế các hoạt động phù hợp với
các đối tượng học sinh.
+ Khi soạn bài cần lựa chọn câu hỏi gì? Bài luyện tập yêu cầu nào cho ai? Khi
nào sử dụng câu hỏi, bài tập trong sách thực hành âm nhạc? khi nào phải soạn câu
hỏi yêu cầu phù hợp với trình độ học sinh?
+ Xác định ngồi đối tượng học sinh bình thường, phải chỉ ra cho được câu hỏi
nào, bài tập luyện tập yêu cầu ở mức độ nào dành cho học sinh giỏi, năng khiếu,
bài tập luyện tập yêu cầu ở mức độ nào dành cho học sinh yếu, phải thể hiện trên
kế hoạch bài học.
+ Xây dựng câu hỏi và bài luyện tập phân hoá phải dựa trên nguyên tắc là:
Nguyên tắc đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, chính xác của nội dung.
Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và phát huy tính tích cực của HS
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
- Trong thực tế, học sinh giỏi có năng khiếu thường được giáo viên gọi và trả lời
nhiều lần, học sinh yếu còn hạn chế ít khi được giáo viên gọi tên. Vì thế, đối tượng
này dần dần bị lãng quên và trở thành đối tượng ngồi bên lề lớp học. Vậy dạy học
theo hướng có phân hóa đối tượng học sinh nhằm khắc phục biểu hiện này.

14


- Việc phân hóa đối tượng trong dạy học mơn âm nhạc tiểu học nói chung cũng
như ở lớp 4,5 nói riêng phải được giáo viên xem xét và cụ thể hóa phương pháp lên
lớp, phải áp dụng tùy vào tình hình thực tế của trường, từng lớp, nhóm, cá nhân,
với mục tiêu sao cho tất cả các HS đều được học và tránh áp đặt, dàn trải dẫn đến
mất thời gian và phản tác dụng.

- Sau từng tiết dạy, giáo viên ghi chép nhanh những nội dung, cách làm chưa đạt
mục tiêu bài dạy có phân hóa để tiếp tục trao đởi khi họp tở chun mơn, từ đó
điều chỉnh việc soạn giảng cho phù hợp hơn.
- Đối xử cá biệt ngay trong những tiết dạy học đồng loạt.
- Tở chức những phân hố ngay trên lớp:
Thể hiện bởi sơ đồ sau:

Ra bài luyện tập phân
hố, phân theo trình độ
năng lực.

Hoạt
Hoạtđộng
động
của
củahọc
hoạt
sinh
sinh

Điều kiện phân hố của
cơ, phân hố mức độ
độc lập hoạt động của
trò, quan tâm riêng biệt

15

Tác động qua lại giữa
các học trị: Thảo luận
học theo cặp, theo

nhóm


- Tở chức dạy học phân hố theo năng lực chung vừa sức học . Việc tổ chức dạy
học phân hố theo năng lực chung có thể căn cứ vào kết quả học tập của năm học
trước mà nhà trường phân học sinh thành các nhóm có cùng sức học dựa trên các
trình độ: Hồn thành tốt, hồn thành, chưa hoàn thành mà giáo viên giao cho học
sinh những nhiệm vụ tương ứng. Ví dụ:
Nhóm A - có trình độ giỏi, khá và có thể nói là có năng khiếu(T). ( Hát: đúng
giai điệu và lời ca, múa phụ họa biểu diễn nhuần nhuyễn, tự tin, gõ đệm tốt, thể
hiện được sắc thái, TĐN:đọc nhạc đúng cao độ, trường độ và ghép lời ca chính
xác).
Nhóm B - có trình độ thấp hơn ( H). (Hát: đúng giai điệu và lời ca, biết múa phụ
họa, TĐN đọc đúng cao độ, trường độ và ghép lời ca (một cách tương đối). Biết gõ
đệm theo phách hoặc nhịp và tiết tấu).
Nhóm C - có trình độ thấp nhất ( C ) . ( Hát: Hát theo lời ca kết hợp với gõ đệm
theo bài hát (không phân biệt phách mạnh nhẹ), chỉ đọc đúng tên nốt hoặc đọc
đúng cao độ và trường độ một cách tương đối. Không yêu cầu gõ đệm).
3. Tổ chức dạy học phân hóa trong mỡi lớp học, tiết học
3.1.Quan tâm đúng đối tượng trong những hoạt động dạy học đồng loạt
Trong dạy học, ta cần lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm
nền tảng, do đó những hoạt động cơ bản là hoạt động đồng loạt. Tuy nhiên ngay
trong những hoạt động này, thông qua quan sát, đàm thoại và kiểm tra, người giáo
viên cần phát hiện những sai sót khác giữa các học sinh về tình trạng lĩnh hội và
trình độ phát triển, năng khiếu, từ đó có những biện pháp phân hóa nhỏ.Chẳng hạn
như:
16


Lơi cuốn đơng đảo học sinh có trình độ khác nhau vào quá trình dạy học bằng

cách giao những nhiệm vụ phù hợp, vừa sức với từng đối tượng HS.
Khuyến khích học sinh yếu kém khi họ tỏ ý muốn trả lời câu hỏi và tận dụng
những tri thức và kĩ năng riêng biệt của từng học sinh….
Phân hóa việc giúp đỡ, kiểm tra và đánh giá học sinh.
3.2. Tổ chức những hoạt động phân hóa trên lớp
Ở những lúc nhất định trong q trình dạy học có thể thực hiện những hoạt động
phân hóa tạm thời, tở chức cho học sinh hoạt động một cách phân hóa. Biện pháp
này được áp dụng khi trình độ học sinh có sự sai biệt lớn, có nguy cơ yêu cầu quá
cao hoặc quá thấp. Cụ thể:
3.2.1. Ra bài tập phân hóa, phân bậc (cấp độ), số lượng
Ý đồ của việc ra bài tập phân hóa là để những học sinh khác nhau có thể tiến
hành những hoạt động khác nhau.
Có thể phân hoá về yêu cầu bằng cách sử dụng những mạch bài tập phân bậc.
Việc phân bậc hoạt động có thể dựa vào những căn cứ như: Sự phức tạp của đối
tượng hoạt động, nội dung của hoạt động....(độ khó)
Cũng có thể phân hoá về số lượng: Để lĩnh hội một kiến thức, rèn luyện một kỹ
năng nào đó, số học sinh khá, giỏi có thể cần nhiều bài tập cùng loại hơn số học
sinh Trung bình hoặc yếu. Vì thế, giáo viên cần ra đủ liều lượng bài tập như vậy
cho từng loại đối tượng học sinh. Những học sinh còn thừa thời gian, đặc biệt là
học sinh giỏi, sẽ nhận thêm những bài khác để đào sâu và nâng cao. Ví dụ:
- Tuần 11 : Ơn tập bài hát: Cháu yêu bà (lớp 2) thì HS giỏi : giao việc tìm động
tác vận động phụ họa (ĐTVĐPH) để hướng dẫn cho nhóm thực hiện (nếu có tở
17


chức hoạt động nhóm để sáng tác ĐTVĐPH) hoặc cho các em lần lượt trình bày
động tác của mình tìm được trước lớp. HS trung bình,yếu : hướng dẫn cụ thể từng
động tác (có thể trích chọn hoặc sử dụng toàn bộ động tác của học sinh giỏi) để cả
lớp thực hiện.
- Giao cho HS giỏi quan sát, giúp đỡ tập luyện kèm HS yếu hơn.

3.2.2.Điều khiển phân hoá của giáo viên:
Trong điều khiển học sinh học tập giáo viên có thể định ra yêu cầu khác nhau về
mức độ hoạt động độc lập của học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng yếu
kém, ít hoặc khơng gợi ý cho học sinh khá, giỏi.
Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm cá biệt: Động viên học sinh nào đó có phần
thiếu tự tin, lưu ý học sinh này hay hát sai lời, đọc sai tên nốt, nhắc nhở học sinh
kia sử dụng động tác phụ họa chưa phù hợp nội dung,...Với cách làm này, người
học được cuốn hút tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên tở chức và chỉ
đạo, thơng qua đó các em tự lực khám phá, tìm tịi kiến thức khơng thụ động trông
chờ vào việc truyền thụ của giáo viên. Người học được hoạt động, được trực tiếp
quan sát, thảo luận, luyện tập, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tế
cuộc sống theo khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của mỡi cá nhân.
3.2.3.Phân hóa hoạt động của học sinh theo nhóm cùng trình độ.
Trong một lớp học, trình độ kiến thức, khả năng tư duy của học sinh khơng đồng
đều vì vậy khơng thể áp dụng cách dạy đồng loạt. Cách dạy này hạn chế khả năng
nhận thức của học sinh. Học sinh khá giỏi có năng khiếu khơng có điều kiện để
phát triển. Học sinh yếu kém cũng khơng có cơ hội để vươn lên. Vì thế, để phát
huy tính tích cực của người học địi hỏi phải có sự phân hóa về trình độ, cường độ,
tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập…
18


Theo đó, đối với học sinh trung bình trở xuống cần dạy học bám sát chuẩn kiến
thức, kỹ năng, tránh ôm đồm kiến thức dẫn đến quá tải cho học sinh. Đối với học
sinh khá, giỏi, căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng để mở rộng cung cấp kiến
thức, phát huy tính sáng tạo ở học sinh.
Khi phân hóa học sinh theo nhóm cùng trình độ khơng nên gọi tên nhóm là:
Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu để tránh sự tự cao, tự đại hoặc tự ti mặc cảm trong học
sinh. Giáo viên có thể khắc phục bằng cách đặt tên nhóm theo màu hoặc theo tên
con vật, lồi hoa,…

3.2.4. Phân hóa các tác động qua lại giữa các học sinh như: Tổ chức luyện tập,
thảo luận trong lớp - Học theo cặp - Học theo nhóm.
Lớp học là mơi trường giao tiếp cơ - trị, trị - trị, tạo nên mối quan hệ hợp tác
giữa các cá nhân trong q trình chiếm lĩnh kiến thức. Thơng qua thảo luận, tranh
luận, luyện tập trong nhóm, lớp, ý kiến mỡi cá nhân được bộc lộ và được chia sẻ.
Học sinh không chỉ có điều kiện học tập với nhau mà cịn học tập lẫn nhau. Kiến
thức mà người học thu được là sự đóng góp của nhiều người. Đồng thời qua học
tập hợp tác, các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết phục, kĩ năng lắng nghe tích cực,
ư thức tở chức, tinh thần tương trợ được rèn luyện và phát triển.
Dạy học thơng qua hợp tác nhóm tạo nên mối quan hệ tương tác giữa trị với trị,
giữa cơ với trị, tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên và tạo nên
môi trường học tập an tồn. Trong mơi trường đó mỡi cá nhân được phép thể hiện
tối đa khả năng nhận thức và kinh nghiệm của mình, biểu diễn hát, múa một cách
tự tin và thoải mái bởi cảm giác an toàn.
Học tập hợp tác theo nhóm cịn phát triển ở học sinh kỹ năng tổ chức, kỹ năng
điều khiển và lãnh đạo. Thông qua đó hình thành ở học sinh những phẩm chất mới.
Vì thế, trong quá trình điều khiển học sinh học tập, cần phát huy những tác dụng
19


qua lại giữa những học sinh bằng các hình thức học tập khuyến khích sự giao lưu
của học sinh như: thảo luận, biểu diễn, trình bày trong lớp, nhóm, học theo cặp.
Với hình thức học theo cặp, học theo nhóm học sinh năng khiếu giúp đỡ học
sinh yếu kém và qua việc giúp đỡ đó học sinh khá giỏi càng nắm chắc kiến thức
hơn.
Muốn được như thế thì hình thức tở chức phải có tính thuyết phục, nêu gương,
khơng mang tính chất áp đặt,... xây dựng hình thức khơng phải chỉ có một chiều:
Học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh trung bình, yếu kém mà phải liên kết hai bên
cùng có lợi (biểu dương, tun dương, ghi nhận cơng lao, tạo tình tương thân
tương ái).

3.2.5. Phân hóa mức độ độc lập hoạt động của trò bằng cách quan đến từng đối
tượng học sinh.
Cần tăng cường cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi
học sinh. Các bài học được thiết kế thành một chuỗi nhiệm vụ phù hợp với khả
năng nhận thức của từng đối tượng người học. Như vậy học tập có thể đáp ứng
được trình độ của người học, phù hợp với phong cách học của mỡi cá nhân.
Qua đó người học rèn luyện ý thức tự lực, ý thức trách nhiệm với kết quả học
tập của mình.
Ở hoạt động này, giáo viên giao cho học sinh những nhiệm vụ đã được phân
hóa (thường thể hiện qua hướng dẫn học hoặc các phiếu học tập mà giáo viên soạn
sẵn tại lớp) như:
3.2.6. Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với từng loại đối tượng
để cùng đạt một yêu cầu (Đáp ứng chuẩn kiến thức kĩ năng).

20


Ví dụ: - Tuần 31 : Ơn 2 bài TĐN số 7, 8 - Hoạt động 1 và 2 (lớp 4) · HS giỏi :
thực hành đọc nhạc ghép lời kết hợp gõ đệm theo nhịp và tiết tấu lời ca cả 2 bài
TĐN. · HS trung bình, yếu : chỉ đọc đúng tên nốt nhạc hoặc đọc đúng cao độ và
trường độ (một cách tương đối) kết hợp ghép lời ca và gõ đệm1 trong 2 bài TĐN.
* Lưu ý về tập đọc nhạc :
- Lớp 4 : Yêu cầu chung thường là đọc đúng cao độ, trường độ và ghép lời ca. ·
HS giỏi : thực hiện đúng yêu cầu chung. · HS trung bình, yếu : chỉ đọc đúng tên
nốt nhạc hoặc đọc đúng cao độ và trường độ (một cách tương đối).
- Lớp 5 : yêu cầu chung thường là đọc đúng cao độ, trường độ, ghép lời ca và
gõ phách theo bài TĐN. HS giỏi : thực hiện đúng yêu cầu chung hoặc cao hơn. ·
HS trung bình, yếu : chỉ đọc đúng tên nốt hoặc đọc đúng cao độ và trường độ (một
cách tương đối). Khơng u cầu gõ đệm
3.2.7. Phân hố về nội dung bài tập, nội dung kiểm tra bài cu,…để tránh đòi hỏi

quá cao đối với học sinh yếu kém và quá thấp đối với học sinh giỏi.
Ví dụ: Tiết 25:- Học hát : Chị ong nâu và em bé( Lớp 3)- Kiểm tra bài cũ tiết 24
nội dung 2: Kiểm tra nhận biết một số hình nốt nhạc
+ HS khá, giỏi: Lên bảng chỉ và đọc tên hình nốt nhạc, nêu giá trị trường độ của
các hình nốt, viết một số hình nốt lên khng nhạc.
+ HS trung bình, yếu: Lên bảng chỉ và đọc tên hình nốt nhạc, nêu giá trị trường độ
của các hình nốt.
3.2.8. Phân hố u cầu về tính độc lập, bài tập cho đối tượng yếu kém chứa
nhiều yếu tố dẫn dắt hơn đối tượng khá giỏi.
Ví dụ: Truyện kể âm nhạc : - Tuần 16 : Cá heo với âm nhạc (lớp 3)
21


HS giỏi : + Em hiểu biết gì về cá heo? + Lợi ích của cá heo? + Ngồi khả năng
nghe được âm nhạc, ngồi thực tế, em cịn nhận thấy cá heo có khả năng nào nữa?
HS trung bình, yếu : + Chuyện gì đã xảy ra ở vùng biển Bắc cực?
Phân hoá bài tập về nhà: Ra riêng những bài luyện tập nhằm tạo tiền đề xuất
phát cho đối tượng yếu kém để chuẩn bị cho bài học sau. Cũng như ra riêng những
bài tập luyện nâng cao cho đối tượng học sinh giỏi để xây dựng mũi nhọn học tập
trong lớp học.
3.3. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Chính vì thế, điều
quan trọng nhất là người giáo viên phải giúp HS biết cách khai thác, lựa chọn tìm
kiếm thơng tin bằng cách hình thành thói quen tự học, tự luyện tập, tự nghiên cứu.
Khi người học có phương pháp, thói quen, ý chí tự học thì sẽ ham học, thích học,
đó là điều kiện tốt để khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỡi cá nhân, kết quả
học tập sẽ nâng cao.
Thói quen tự học được thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc, học trên lớp, học ở nhà, học
trong thư viện và học ngoài thực tiễn cuộc sống, thơng qua các phương tiện: tài
liệu, sách báo, truyền hình, phim ảnh, internet, thực tiễn, thầy cô giáo và những

người xung quanh…
Trong dạy và học hiện nay giáo viên cũng cần xem việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả học tập mà còn
là một mục tiêu dạy học.
3.4. Kết hợp đánh giá của cô giáo với tự đánh giá của trò

22


Trong dạy - học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định kết
quả thực trạng và để điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời điều chỉnh
hoạt động dạy của GV.
Trong dạy học thụ động, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong dạy
học phân hóa, học sinh được tạo điều kiện phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh
giá lẫn nhau để điều chỉnh cách học. Tự đánh giá và tự điều chỉnh hành vi, hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường
phải trang bị cho học sinh.
Để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì
việc kiểm tra, đánh giá khơng thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kỹ năng đã học mà cần khuyến khích phát triển trí thơng minh, óc sáng tạo
trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Thơng qua việc đánh giá, học sinh không chỉ được rèn luyện kĩ năng xem xét,
phân tích vấn đề mà trên cơ sở đó tự điều chỉnh cách học, điều chỉnh hành vi phù
hợp. Ví dụ: Sau khi hoạt động nhóm luyện tập hát và gõ đệm theo phách, nhịp.
Những HS khá giỏi của các nhóm khác có thể tự động đi chia sẻ, kiểm tra nhận xét
nhóm bạn xem nhóm bạn hát đã tốt chưa? Gõ đệm chính xác khơng? ; HS khá giỏi
có thể tự tìm biện pháp giúp đỡ bạn để bạn thực hiện chính xác hơn. Có thể tự
nhận xét, tun dương nhóm bạn. Sau đó báo cáo với cơ giáo.
* Kết quả đạt được:
Kết quả áp dụng phương pháp phân hóa trong dạy- học đã góp phần nâng cao

chất lượng học tập của bộ môn âm nhạc với học sinh đại trà tại trường T’H Nguyễn
Thị Minh Khai.

23


Cụ thể kết quả kiểm tra về phân hóa đối tượng giảng dạy môn âm nhạc được
thống kê qua các giai đoạn ở các khối lớp 1, 2, 3, 4, 5 trường T’H Nguyễn Thị
Minh Khai năm học 2017- 2018 như sau:
- Chưa áp dụng giải pháp.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy
Thời gian đầu TS
học kỳ một:

HS

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

(T)

(H)

Chưa hoàn thành
(C)

( Từ tuần 1 đến

Số


Tỉ

tuần 8)

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

180

37,7%

280

58,7%

17

3,6%

Chưa áp dụng

giải pháp.

477

lệ Số

Tỉ

lệ Số

Tỉ lệ

Nhận xét đa số học sinh chưa nắm được các kỹ năng biểu diễn, kĩ năng gõ đệm,
kỹ năng hát và thể hiện sắc thái, cách trình bày biểu diễn bài hát cịn lúng túng.
TĐN đọc còn sai nhiều về cao độ và trường độ.
- Kết quả sau khi áp dụng biện pháp
Lần 1: Khảo sát lần 1.
Thời gian giữa
học kỳ đến cuối
học kì I:
( Từ tuần 9 đến
tuần 18)

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

TS


(T)

(H)

(C)

HS

Số
lượng

Tỉ lệ %

24

Số

Tỉ

lượng

%

lệ Số
lượng

Tỉ lệ
%



Qua bảng thống kê khảo sát trên cho thấy: Học sinh đã nắm chắc kiến thức
cơ bản về âm nhạc trong chương trình học của các khối lớp, vận dụng khá tốt các
bài học vào trong cuộc sống, hát đúng tư thế, hát tự nhiên, tập lấy hơi và hát rõ lời.
Hát đúng giai điệu và lời ca biểu diễn các bài hát tự tin, mạnh dạn nhuần nhuyễn
hơn, biết nhận xét đánh giá tương tác giữa học sinh với học sinh. TĐN đọc đúng
cao độ và trường độ, có ý thức tự học để thuộc bài hát. Tập hát kết hợp vỗ tay hoặc
gõ đệm. Biết tên bài hát và tác giả.
Lần 2: Khảo sát lần 2.
Thời gian từ đầu
học kì II đến TS
nay: ( Từ tuần
HS
19 đến tuần 25)

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

(T)

(H)

(C)

Số

Số


Số

Tỉ

lượng

%(%)

4

0,8%

lượng
Kết quả áp dụng
biện pháp lần 2

477

245

Tỉ lệ %

51,4%

lượng
228

Tỉ lệ %


47,8%

lệ

Qua bảng thống kê khảo sát trên cho thấy: Học sinh nắm vững chắc các kiến
thức về âm nhạc vận dụng thành thạo các kỹ năng gõ đệm, hát, múa và thể hiện
đúng tiết tấu của bài TĐN, đọc đúng tên nốt, đúng giai điệu bài TĐN. Đọc nhạc
cùng mọi người và có thể đọc một mình, nhận biết chính xác cao độ các nốt , biết
phân tích nội dung bài học, biết dựa vào các bài hát đã học linh hoạt biến đổi và
biết vận dụng bài hát đã học vào sinh hoạt cộng đồng, biểu diễn các động tác phù
hợp với nội dung của bài, hát đúng tư thế, hát tự nhiên, tập lấy hơi và hát rõ lời.
Hát đúng giai điệu và lời ca biểu diễn các bài hát tự tin, mạnh dạn nhuần nhuyễn,
thể hiện được sắc thái và tình cảm của bài hát. Hát cùng mọi người và có thể hát
một mình. Học sinh tích cực tự học, tự tìm hiểu kỹ phương pháp thực hiện các yêu
25


×