Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Các phương pháp dạy và học từ vựng phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Tiếng Anh ở trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.66 KB, 14 trang )


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO
SÁNG KIẾN, CẢI TIẾN ĐỀ NGHỊ XÉT CÔNG NHẬN DANH HIỆU
CHIẾN SĨ THI ĐUA CƠ SỞ NĂM 2015
I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN
- Họ và tên: Dương Thị Kim Long. Năm sinh: 1978
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Đại học Tiếng Anh
- Chức năng, nhiệm vụ được phân công: Giáo viên dạy lớp
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Bình B
II. NỘI DUNG
1. Thực trạng
Ngày nay, trong trường phổ thông thì việc giảng dạy của người truyền đạt tri thức và
việc học của người tiếp thu tri thức là hai vấn đề rất cần thiết, đòi hỏi chất lượng cao. Thực
tế trong giảng dạy thì thầy dạy tốt nhưng chưa hẳn là trò học tốt.Tuy nhiên nếu dạy có
phương pháp thích hợp thì hiệu quả sẽ cao hơn, nhất là môn Tiếng Anh ở trường Tiểu học,
cần phải làm cho học sinh phấn khởi, hồ hởi, tự giác, vui vẻ tiếp nhận và chờ đón những
điều mới mẻ, phải làm sao cho học sinh thích học chứ không đơn thuần là truyền thụ tri
thức, học sinh không có cảm giác bị gò bó, là gánh nặng hay bắt buộc từ bên ngoài. Học
sinh “thích” học thầy cũng “ muốn” dạy và hiệu quả giáo dục cũng cao hơn. Một trong các
quan điểm đổi mới giáo dục phổ thông mà chúng ta đang thực hiện là tích cực hóa các hoạt
động của học sinh. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải làm cách nào? Dạy ra sao? Dạy như
thế nào để thích hợp với tâm lí lứa tuổi và khả năng học tập của học sinh.Trong dạy và học
Tiếng Anh, từ vựng là một kiến thức quan trọng, là phương tiện, điều kiện hình thành và
phát triển kỹ năng giao tiếp. Vì vậy việc học từ vựng và rèn luyện kĩ năng sử dụng từ vựng
là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ, tiếp thu một ngôn ngữ nói chung và Tiếng Anh
nói riêng. Nó được thể hiện dưới hai hình thức: Lời nói và chữ viết. Muốn sử dụng ngôn
ngữ đó tức là phải nắm vững hình thức biểu đạt của chúng. Song do có mối liên quan của
từ vựng với các yếu tố khác trong ngôn ngữ ( ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu…) hoặc trong


tình huống giao tiếp. Tôi cho rằng để xây nên một bức tường ngôn ngữ thì từ vựng là
“những viên gạch” và ngữ pháp là “những mạch vữa” để gắn kết những viên gạch tạo nên
bức tường ngôn ngữ. Vì vậy, nếu không có vốn từ vựng cần thiết thì người học rất khó
thực hiện chức năng ngôn ngữ trong giao tiếp. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng
1

cho học sinh, giáo viên không chỉ chú ý vào việc truyền thụ tri thức, sử dụng các phương
tiện dạy học mà cần phải quan tâm đến việc tổ chức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt
động của học sinh, đề cao và phát huy tối đa vai trò tích cực chủ động sáng tạo của các em
trong học tập. Giáo viên cần tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động
của mình. Nhưng phần lớn các em không hiểu tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học,
chỉ học qua loa để rồi không sử dụng được nó.
Để đáp ứng được nhu cầu thực tế. Mỗi giáo viên cần tìm cho mình một phương pháp
dạy học tối ưu, phù hợp với từng đối tượng thực tế của từng học sinh để đạt kết quả cao đó
mới là vấn đề, là mục đích mà mỗi giáo viên đang đứng lớp phải suy nghĩ.
Thiết bị dạy học còn thiếu chưa đáp ứng đầy đủ nhằm phục vụ tối đa cho việc đổi
mới phương pháp dạy học đặc biệt là tranh ảnh.
Chưa có phòng chức năng của bộ môn tiếng Anh. Vì thế, học sinh chưa phát huy hết
khả năng của bản thân trong quá trình học bài và rèn luyện các kỹ năng .
Bên cạnh đó, số lượng học sinh ở vùng ven, vùng sâu tương đối nhiều, đa số là gia
đình nghèo, gặp nhiều khó khăn. Họ ít quan tâm đến việc học của các em, phần lớn các em
còn phụ giúp việc gia đình nên chưa ý thức nhiều đến việc học.
Mặc dù Tiếng Anh đã trở thành môn học chính thức trong trường học. Nhưng việc
phát huy lợi ích của nó vẫn chưa được quan tâm nhiều. Phần lớn là do chất lượng dạy học
chưa cao, chưa thu hút được sự ham mê học tập của học sinh. Điều đó thể hiện rõ trong các
tiết dạy. Các em luôn cảm thấy mệt mỏi khi phải tiếp thu thụ động các kiến thức mà giáo
viên truyền đạt một chiều. Hơn thế nữa, một số giáo viên sử dụng phương pháp dạy học
cũ, không phù hợp với các đối tượng học sinh khiến các em nhàm chán, chậm tiếp thu.
2. Tên sáng kiến và lĩnh vực áp dụng
Sau một thời gian giảng dạy ở bậc tiểu học, tôi đã viết thành đề tài: “ Các phương

pháp dạy và học từ vựng phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Tiếng Anh ở
trường Tiểu học”. Qua đề tài sẽ nhìn thấy được thực tế học tập của học sinh. Những thuận
lợi, khó khăn, từ đó đưa ra phương pháp thích hợp cho phân môn này.
3. Mô tả nội dung, bản chất của sáng kiến
A . Nội dung:
a. Kỹ năng giới thiệu từ vựng:
Khi nói đến ngữ liệu mới là nói đến ngữ pháp và từ vựng. Chúng có mối quan hệ
khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của câu.Trong một bài học
luôn xuất hiện từ mới, nhưng không phải từ vựng mới nào cũng cần được đưa vào để dạy.
Lưu ý có 2 dạng từ chọn để dạy:
- Từ “chủ động” và từ “bị động”
2

Từ “chủ động” là những từ cốt lõi để hiểu văn bản và có tần suất dùng nhiều trong giao
tiếp. Nó có liên quan đến các kỹ năng ( Nghe – nói – đọc – viết ). Dạng từ này giáo viên
lưu ý đầu tư thời gian để giới thiệu và cho các em luyện tâp nhiều hơn.
Từ “ bị động” giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết không cần đầu tư vào các hoạt
động ứng dụng, chỉ cần đọc hiểu trong văn cảnh.
+ Khi dạy từ mới cần làm rõ các yếu tố cơ bản sau:
• Form ( dạng từ)
• Meaning (ý nghĩa)
• Use ( cách sử dụng)
b. Một số phương pháp để giới thiệu từ một cách sinh động:
+ Giới thiệu từ thông qua các dụng cụ trực quan:
- Dùng đồ vật thật, các đồ chơi trẻ em, các mô hình… Ví dụ: doll, ball,
robot…unit 14
- Tranh ảnh: Vẽ trực tiếp lên bảng, dùng tranh ảnh, biểu đồ, tranh treo
tường…Ví dụ: cat, dog, tiger (unit 15)
+ Giới thiệu từ thông qua hành động của giáo viên: dùng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
….Ví dụ: brush teeth, sing, headache,….

+ Giới thiệu từ thông qua ngữ cảnh: giúp học sinh hiểu từ được học và sử dụng
đúng tình huống giao tiếp.
+ Giới thiệu từ thông qua phương pháp so sánh, đối chiếu ( đồng nghĩa và trái
nghĩa) Ví dụ : noisy > < quiet, city > <countryside (unit14)
+ Giới thiệu từ thông qua phương pháp định nghĩa, dịch nghĩa: đối với những từ
trừu tượng. Ví dụ: constact, deposit ( Unit 15)
+ Giới thiệu từ thông qua phương pháp liệt kê tên: Giáo viên có thể liệt kê các
thành phần có liên quan đến từ ngôi nhà (house) như door, room, living room,
bathroom…(Unit 11)
+ Giới thiệu từ thông qua phương pháp đoán nghĩa, khám phá nghĩa của từ: tra từ
điển, ghép từ và tranh, ghép từ và nghĩa.
Như vậy, giới thiệu từ vựng chính là tìm cách dạy cho học sinh chiếm lĩnh kiến
thức một cách nhanh nhất, dễ dàng nhất, tạo lôi cuốn, hấp dẫn các em cùng tham
gia học tập. Trong phần giới thiệu từ để đạt hiệu quả cao ngoài chọn các kĩ năng
phù hợp, giáo viên cần phải phát âm chuẩn, trình bày đúng, chính xác, rõ ràng trên
bảng để các em nhận biết từ dạy ở mọi góc độ khách quan.
3

c. Biện pháp tổ chức thực hiện
• Giáo viên cần thực hiện các bước sau để dạy từ vựng mới:
Điều quan trọng nhất trong vấn đề dạy từ mới là phải dạy theo đúng trình tự :
nghe , nói, đọc, viết :
* “Nghe” Dùng tranh vẽ, vật thật, ví dụ, tình huống, điệu bộ, nét mặt … để gợi
mở khi dạy từ. Giáo viên cho học sinh nghe bằng cách đọc mẫu ba lần.
* “Nói” sau khi cho học sinh nghe ba lần, giáo viên yêu cầu cả lớp đồng thanh. Sau
đó gọi cá nhân nhắc lại.(4-5 học sinh)
* “Đọc” Giáo viên ghi từ mới lên bảng và yêu cầu các em nhìn từ đó để đọc. Cho
học sinh đọc đồng thanh, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho các em.
* “Viết” Sau khi học sinh đã đọc từ đó chính xác, giáo viên yêu cầu các em viết vào
vở.

* Kiểm tra nghĩa từ bằng Tiếng Việt: Giáo viên hỏi có học sinh nào biết nghĩa
Tiếng Việt của từ đó không và yêu cầu các em nêu lên, giáo viên ghi lên bảng.
* Kiểm tra trọng âm của từ: Giáo viên phát âm lại các từ và yêu cầu học sinh nhận
diện âm tiết có trọng âm để đánh dấu.
Trong giảng dạy giáo viên cần cố gắng phát huy hết khả năng tự học hỏi của học
sinh. Bên cạnh đó, giáo viên còn phải biết sắp xếp các từ vựng sẽ dạy trong bài theo một
trình tự hợp lý, tạo các lời dẫn gợi mở theo chủ điểm của bài học. Trong tiết học chỉ dạy tối
đa 6-8 từ, các từ này phải thuộc loại hoạt động, nghĩa là các từ này học sinh phải sử dụng
thường xuyên ở lớp nhằm giúp các em rèn các kỹ năng cơ bản, đặc biệt là kỹ năng nói và
viết. Giáo viên nên phiên âm các nguyên âm chính của từ mới, để học sinh phát âm dễ
dàng hơn.
• Một số thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
Kiểm tra từ vựng của học sinh là việc rất quan trọng giúp cho giáo viên biết học sinh
nắm được từ ở mức độ nào để có biện pháp dạy thích hợp hơn.Các thủ thuật kiểm tra và
củng cố sẽ khuyến khích các em hăng say, tích cực hơn trong học tập, thuộc bài ngay tại
lớp. Việc kiểm tra thường diễn ra đơn giản.
- Kiểm tra đơn giản gồm một số trò chơi:
+ What and where : giáo viên vẽ vòng tròn và điền từ vào sau đó cho học
sinh đọc và xóa dần các từ. Cuối cùng yêu cầu các em viết lại các từ đó đúng vị trí.
(Unit 5) Ví dụ:
4

book
pen
ruler rubbe
r
penci
l

+ Bingo: Học sinh chọn 4 từ trong số các từ mà giáo viên đã cho, sau khi nghe giáo

viên đọc, nếu học sinh nào nghe được 4 từ trước nhất thì hô to “ Bingo”.
+ Matching: Một cột giáo viên sắp xếp từ, cột thứ hai giáo viên có thể sắp xếp hình
hay nghĩa. Chia lớp thành 2 nhóm mỗi nhóm 5 học sinh. Yêu cầu các em nối chúng cho
phù hợp. Nếu nhóm nào nối chính xác, nhanh hơn nhóm đó sẽ thắng (unit 14) Ví dụ:
A B
1. map a.quạt
2. fan b.bản đồ
3. cupboard c. tủ đựng quần áo
4. wardrobe d. búp bê
5. doll e. tủ chén
+ Jumple words: Giáo viên cho xáo trộn vị trí các từ và sau đó yêu cầu các em sắp
xếp lại cho đúng, có nghĩa. Giáo viên cho cả lớp sắp xếp từ trong 2 phút, sau đó chia thành
2 hoặc 3 nhóm lên bảng xếp. Nhóm nào nhanh, chính xác sẽ thắng. Ví dụ (unit 11)
trhafe - father
steris - sister
robterh - brother
tmoehr - mother
+ Rub out and remember: Giáo viên cho học sinh đọc lại các từ sau đó, xóa dần
các từ trên bảng và yêu cầu các em tái tạo lại.
+ Clap the board: Giáo viên cho các từ trên bảng, chia làm 2 nhóm, giáo viên đọc
từ nào học sinh chạy lên bảng và chạm tay vào từ đó, nếu bạn nào chạm đúng từ giáo viên
vừa đọc sẽ được ở lại, cứ lần lượt như thế đến hết từ. Cuối cùng giáo viên tổng kết đội nào
còn nhiều bạn ở lại sẽ thắng.Ví dụ:

+ Guess the picture: Dùng tranh mặt trái để giơ lên và hỏi “What’s this?/ who is
this?” và yêu cầu học sinh khác đoán, nếu đúng giáo viên trả lời “Yes”. Và mời học sinh
đoán đúng lên thế cô hỏi tiếp tranh khác, và cứ thế chơi trò chơi đến hết tranh.
+ Kim’s game: Giáo viên dùng đồ vật để trong cái mâm sau khi cho học sinh nhìn
5
notebook

book

rubber
book
desk
school bag
book
Pencil
case

trong một phút rồi đậy lại. Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm và yêu cầu 2 nhóm học sinh
lên bảng ghi lại tên các đồ vật sau đó mở mâm vừa đậy để kiểm tra. Nếu nhóm nào ghi
được nhiều từ chính xác, nhanh thì nhóm đó thắng.
+ Simon says: Khi giáo viên nói có từ “simon says” thì học sinh sẽ lặp lại từ, nếu
không có từ “simon say” thì học sinh không nói theo giáo viên.
Ngoài việc thực hành để hiểu và nhớ từ bằng các hình thức bài tập nêu trên, người
dạy còn có thể cho người học thực hành thêm nhằm mục đích củng cố hay tổng kết lại các
nội dung hoặc lĩnh vực từ vựng mà các em đã được học bằng cách tổ chức các trò chơi
như: lucky number, Network, Wordstorm, Nought and crosses, pelmanism, dictation
lists… Những hoạt động trò chơi này giúp các em vừa học vừa chơi tạo không khí thoải
mái mà khắc sâu kiến thức, không bị gò bó, cứng nhắc như những môn học khác.
• Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì giáo
viên cần dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của họ.Thầy giáo chỉ là người hướng
dẫn, tổ chức thực hiện; người học đóng vai trò chủ đạo trong quá trình học tập ; tức là phải
phát huy cao độ tính tích cực của học viên trong luyện tập thực hành. Học sinh muốn lĩnh
hội tốt những kiến thức đó thì phải tự học bằng chính các hoạt động của bản thân, không sợ
mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu loát trong giai đoạn này là rất quan trọng. Bên cạnh đó,
thời gian học ở trường rất ít, cho nên phần lớn thời gian còn lại là ở nhà, các em phải tổ
chức cho được hoạt động học tập của mình. Nếu các em làm được điều đó thì hoạt động

dạy và học ngày càng tốt hơn. Sau đây là 7 bước học từ vựng hiệu quả :
- Khi học từ hãy chọn nhóm từ vựng ( chủ đề từ vựng) cần học. Ví dụ chọn nhóm từ có
liên quan đến sở thích, thực phẩm, giao thông, du lịch, …Các em có thể thực hiện bước
này với những từ mới mà các em đã nhiều lần bắt gặp khi đọc, hoặc nghe.
- Sử dụng hình ảnh, âm thanh để nhớ tốt hơn.Ví dụ bạn đọc từ beautiful (xinh đẹp) thì hãy
gắn liền với một loài hoa đẹp mà em thích.
- Dùng một quyển sổ từ vựng để viết các cụm từ và từ trong Tiếng Anh. Không chỉ để ghi
các từ vựng thường gặp, mà còn ghi các cụm từ, câu văn để nhớ được rằng từ đó dùng như
thế nào. Và nhớ là viết các kí hiệu phiên âm để không quên cách phát âm.
- Khi học một từ vựng mới các em nhớ hãy học luôn cả những từ vựng xung quanh có
liên quan. Ví dụ em tìm thấy từ “house” em nhớ thêm từ “living room”, “bedrooom”,
“bathroom”, “kitchen”.
- Nhớ học những từ có cùng gốc. Ví dụ: read (động từ), readable ( tính từ), reader (danh
từ).
- Các em không nên ghi các từ, cụm từ mới rồi để nguyên trong sổ mà hãy sử dụng
6

chúng thường xuyên . Các em phải nghe phát âm chuẩn của từ vựng đó. Phát âm lại từ
vựng em đang học một cách rõ ràng, chính xác. Em đặt một câu với từ vựng mới đó rồi
đọc câu em vừa viết lên, và tập đến khi không còn nhìn vào sổ nữa.
- Khi em đã làm xong những bước trên. Ôn lại từ mới vừa học sẽ giúp em ghi nhớ rất lâu
Nếu em không ôn lại từ mới vừa học trên sẽ chẳng có ý nghĩa nào cả, em sẽ quên hết. Có
nhiều cách để ôn lại: đọc lại trong sổ đã ghi, áp dụng vào thực tế, nghe chúng thật nhiều
lần, dán chúng lên tường, hoặc viết lên giấy nhỏ bỏ vào túi để các em có thể học nó ở mọi
nơi mọi lúc.
B. Bản chất
Bản chất của sáng kiến này là giới thiệu một số phương pháp dạy và học từ vựng hiệu
quả, tạo một môi trường học tập Tiếng Anh có sự phối hợp giữa học sinh với học sinh, và
giữa học sinh với giáo viên. Nhằm kích thích sự say mê, gây hứng thú cho các em học
sinh, tạo sự bất ngờ qua tiết dạy. Từ đó giúp các em học tập tốt hơn.

4. Khả năng và phạm vi áp dụng sáng kiến
Sau khi đưa phương pháp mới về việc dạy từ vựng vào quá trình dạy học kết quả
cho thấy : Nguồn từ và câu của các em tăng lên rõ rệt, nhờ có nguồn này mà học sinh tích
cực học tập, mạnh dạn, tự tin. Hoạt động của các em mang tính tự giác, giờ học thoải mái,
hiệu quả mang lại rất cao. Đa số các em nắm được cách học, và khi làm bài tập đọc hiểu,
viết hay nói các em không còn lo lắng nữa và luôn đạt kết quả tiến bộ hơn trong các bài
kiểm tra. Số học sinh đọc kém, ít nhớ từ vựng, viết chậm trong lớp giờ đã giảm xuống rất
nhiều, chứng tỏ ý thức học của các em rất tốt. Những giờ học tiếng Anh rất hăng say, tích
cực trong các hoạt động trò chơi, thực hành, các em đọc to, rõ và nhớ từ rất giỏi khi chỉ
vừa học xong bài. Như vậy, việc vận dụng các thủ thuật giúp học sinh nhớ từ trên lớp
không chỉ tạo không khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh mà còn là một sự sáng tạo
của người thầy. Tôi nghĩ rằng nếu tiếp tục thực hiện Sáng kiến kinh nghiệm nghiêm túc,
thường xuyên trong giảng dạy thì chất lượng bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học An
Bình B nói riêng và cả huyện nói chung sẽ có được kết quả khả quan hơn.
Sáng kiến này được áp dụng dạy khối 3 trong phạm vị tại đơn vị trường Tiểu học An
Bình B. Triển vọng của sáng kiến là được triển khai rộng ở khối 4, 5 và một số trường Tiểu
học trong huyện.
5. Những lợi ích và hiệu quả mang lại khi nhân rộng sáng kiến
a. Lợi ích:
- Đối với học sinh:
+ Biết vận dụng một số cách học từ vựng ở nhà.
+ Giúp các em có thái độ học tập đúng đắn, tiếp thu bài tốt, khả năng tư duy
7

cũng tiến bộ rõ.
+ Các em có học được nhiều từ, biết đặt câu, biết nghĩa, và có thể áp dụng trong
thực hành giao tiếp. Từ đó các em sẽ say mê, thích thú khi học bộ môn này.
- Đối với giáo viên:
+ Thật ra không phải bài học nào cũng dạy cho học sinh từ vựng. Khi dạy phải
chuẩn bị trước những dụng cụ trực quan sinh động , những hoạt động phù hợp với từ đối

tượng, câu hỏi gợi ý đúng với trình độ các em. Giáo viên cần giúp đỡ kịp thời những học
sinh yếu kém với thái độ ân cần, nhẹ nhàng để em hiểu và thoát khỏi mặc cảm. Và từ đó,
các em dần có ý thức vươn lên, tiến bộ rõ trong học tập. Qua thực tế cho thấy, học sinh yếu
rất thích được khen tặng dù đó chỉ là tiến bộ rất nhỏ, giáo viên cần phát hiện và khen tặng
kịp thời để khuyến khích tinh thần các em.
+ Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan sinh động cũng góp phần tích cực, lôi
cuốn hấp dẫn các em cùng khám phá, thi đua nhau trả lời câu hỏi, tạo một không khí vui
tươi, thoải mái trong học tập. Từ đó, giúp các em khắc sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng.
+ Người thầy cần chủ động tìm hiểu những kiến thức chuyên sâu về tâm lí lứa
tuổi để lựa chọn trò chơi phù hợp cho từng đối tượng học sinh, tạo động lực học Tiếng Anh
cho các em.
Mặc dù “từ vựng” chỉ là một phần của tiết dạy nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành kiến thức ngôn ngữ. Bời vì có được nhiều từ vựng là cơ sở để học tốt
4 kỹ năng nghe-nói-đọc-viết, đặc biệt là kỹ năng nói cần lượng từ vựng rất lớn.
b. Hiệu quả
Qua kiểm nghiệm thực tế đơn vị trường thấy rằng các em có tiến bộ rõ nét so với chất
lượng đầu năm. Những học sinh lười học, không tập trung chú ý bài, chậm tiếp thu, nhút
nhát, thiếu tự tin, phát âm không rõ, đọc bài còn rất chậm.
Hiện nay, các em rụt rè, nhút nhát đã trở nên linh hoạt, mạnh dạn, tự tin hơn, tích
cực tham gia học tập, từ đó chất lượng giáo dục được nâng lên Nguyên nhân là do giáo
viên sử dụng phương pháp chưa phù hợp, ít chăm lo rèn luyện đến từng đối tượng học sinh,
hướng dẫn không rõ ràng, cụ thể gây lung túng cho học sinh trong khâu thực hành dẫn đến
mất nhiều thời gian mà hiệu quả không cao.
Trong học kỳ I vừa qua chất lượng môn Tiếng Anh ở khối 3 được nâng lên, số học
sinh khá giỏi tăng lên, số lượng học sinh yếu kém giảm so với kết quả khảo sát đầu năm,
cụ thể là:
8


Trên đây là những sáng kiến, giải pháp mới, kỹ thuật mới (gọi chung là sáng kiến) các đề

án, dự án của bản thân tôi trong năm 2015.
Kính đề nghị Hội đồng xét duyệt sáng kiến xem xét, công nhận đề tài sáng kiến cấp cơ
sở.
An Bình , ngày 23 tháng 3 năm
2015
Thủ trưởng đơn vị Người báo cáo
(Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên)
Nguyễn Trường Hải Dương Thị Kim Long

9
Kết quả khảo sát ban đầu khối lớp 3
Tổng số : 55 học sinh
Kết quả sau khi thực nghiệm khối lớp 3
Tổng số 55 học sinh
10 điểm : 3 học sinh 10 điểm : 12 học sinh
9 điểm : 5 học sinh 9 điểm : 12 học sinh
8 điểm : 6 học sinh 8 điểm : 11 học sinh
7 điểm : 5 học sinh 7 điểm : 10 học sinh
6 điểm : 18 6 điểm : 6 học sinh
5 điểm : 8 5 điểm : 4 học sinh
4 điểm : 10 4 điểm : 0 học sinh

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH (TRƯỜNG/TT/ PHÒNG GDĐT)
1. Ưu điểm chính








2. Tồn tại cần khắc phục







10

3. Kết quả thực hiện tại đơn vị







4. Hướng phát triển






4. Xếp loại
A 5 ; B 5 ; C 5 ; KXL 5 ; Sao chép 5
………………, ngày …… tháng… năm
2015

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(ký tên và đóng dấu)
11

MỤC LỤC
Nội dung Trang
Phần mở đầu 01
Phần nội dung 03
Chương 1. Cơ sở lý luận 03
Chương 2. Cơ sở thực tiễn 07
Chương 3. Biện pháp 12
Kết luận và kiến nghị 19
12

13

14

×