Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

tiểu luận triết mác lý LUẬN về NHÀ nước vô sản TRONG tác PHẨM “góp PHẦN PHÊ PHÁN TRIẾT học PHÁP QUYỀN của HÊGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.96 KB, 32 trang )

Tiểu Luận
Môn: Lịch s triết học Mác
Đề tài:
lý luận về nhà nớc vô sản trong tác phẩm Góp phần
phê phán triết học Pháp quyền của hêghen - lời nói
đầu của c.mác; nguồn gốc của gia đình, của chế
độ t hữu và của nhà nớc của ph.Ăngghen; nhà nớc
và cách mạng cđa V.i.lªnin

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước là một hiện tượng cơ bản, phức tạp của mọi xã hội có giai
cấp, là tác nhân biến đổi của xã hội và phát triển kinh tế. Vì vậy ngay từ
thời kỳ cổ đại, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra lý giải
khác nhau về nguồn gốc, bản chất của nhà nước.Tuy nhiên họ đều đứng
trên quan điểm chủ quan và do những nguyên nhân khách quan và hạn chế
về lịch sử nên họ chưa giải thích được đúng nguồn gốc, bản chất và lý luận
về nhà nước. Chỉ đến học thuyết Mác-Lênin về nhà nước mới giải thích
được một cách đúng đắn và khoa học về điều này. Vì thế tìm hiểu và
nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của nhà nước và lý luận về nhà nước vô
sản trong một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin để từ đó
nhận thức rõ những tư tưởng vĩ đại của các nhà kinh điển khơng chỉ có ý
nghĩa đối với nước ta nói riêng mà cịn có ý nghĩa đối với tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa nói chung.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu về nguồn gốc, bản chất của nhà nước, lý luận về nhà nước
vô sản trong một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
- Hiểu được sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước


xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. Phạm vi đề tài
3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Giáo trình lịch sử triết học Mác
- Một số tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
- Các tài liệu, sách, báo, tạp chí có liên quan

2


3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa vào phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS, các phương
pháp như: phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá...
4. Cấu trúc đề tài
Đề tài: Lý luận về nhà nước vô sản trong tác phẩm “Góp phần phê
phán triết học Pháp quyền của Hêghen - lời nói đầu” của C.Mác;
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của
Ph.Ăngghen; “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin.
I. Giới thiệu tác giả
1. C .Mac
2. Ph. Ăngghen
3. V.I. Lênin

II.Tư tưởng trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
1.Tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen-lời
nói đầu” của C.Mác
1.1.Hồn cảnh lịch sử
1.2.Nội dung tư tưởng

2.Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà

nước” của Ph.Ăngghen
2.1.Hoàn cảnh lịch sử
2.2.Nội dung tư tưởng

3.Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin
3.1.Hoàn cảnh lịch sử
3.2.Nội dung tư tưởng

III. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đối với việc xây dựng
nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
3


NỘI DUNG

I.Giới thiệu tác giả
1.C.Mác(1818-1883)
Ông sinh ra ở tỉnh Tơ-ve-rơ. Cha ơng là Hen-ri-Mác-một trạng sư của
triều đình Phổ có tư tưởng cấp tiến. Năm 1835, C.Mác học luật ở đại học
Bon, rồi chuyển lên học ở đại học Beclinh. Tại đây, ông say sưa nghiên cứu
lịch sử và triết học. Với tư chất và sự say mê ấy, năm1841 C.Mác bảo vệ
luận án tiến sĩ triết học ở trường I-lêna. Năm 1843, C.Mác kết hôn với
Jenny. Bố của Jenny là người có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của ông.
Sau khi C.Mác tốt nghiệp, xã hội Đức hết sức phức tạp. Vì vậy, Mác đã
nghiên cứu lý luận và tham gia vào phái Hêghen trẻ. Từ đây, ông đã trở
thành một nhân vật tinh thần tronh tổ chức này. Tháng 10-1843, C.Mác từ
Đức sang Pháp, thời gian này C.Mác tiếp tục tiếp cận với các nhà khoan
học Pháp,nghiên cứu đời sống lý luận ở Pháp. Năm 1844, C.Mác và
Ph.Ăngghen gặp nhau ở Pháp. Ngày 14-3-1883, ông mất ở Anh.
2. Ph.Ăngghen(1820-1895)

Ông sinh ra ở một thành phố Béc-Men (Đức) trong một gia đình chủ
xưởng sợi,một gia đình tư sản. Bố Ph.Ăngghen là một tín đồ cường nhiệt,
rất khắt khe với con cái. Năm 1834, Ph.Ăngghen bước vào học phở thơng
nhưng rời nghỉ học.Năm 1838, Ơng làm thư ký cho một hiệu bn, trong
thời gian đó ơng tự trau dời kiến thức ,làm giàu tri thức của mình bằng tri
thức của nhân loại. Năm 1840,Ông trở thành cộng tác viên của một tờ báo
Đức. Năm 1841, Ph.Ăngghen gia nhạp quân sự. Ở đây, ông đã tiiếp cận với
trường phái Hêghen trẻ và hoạt động cùng tổ chức này. Năm 1842, ông từ
Đức sang Anh để tiếp cận lý luận kinh tế, ở đây ông đã chứng kiến thực
tiễn sự phát triển của xã hội Anh, đấu tranh của giai cấp công nhân Anh,

4


ông tham gia vào phong trào đố. Năm 1844, Ph.Ăngghen đã từ Anh sang
gặp C.Mác ở Pháp để từ đó có một tình bạn vĩ đại.
3. V.I.Lênin(1870-1924)
V.I.Lênin sinh ra ở Thành phố Xim-biếc, trong một gia đình cơng
chức. Cha ơng là thanh tra tiểu học. Năm 1887, học xong trung học,
V.I.Lênin vào học ở trường đại học luật ở Kazan. Tại đây, Ông tham gia
phong trào cách mạng của sinh viên, bị bắt và bị đi đày ở Côcusokinô, một
làng nhỏ ở tỉnh Kazan. Năm 1889, Ông về Kazan, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác và gia nhập nhóm Mác-xít Nga. Từ năm 1889 đến 1891, Ông tiếp tục
học luật ở Xanh Pêtecbua. Ông tham gia phong trào cách mạng ở đây và trở
thành người lãnh đạo phong trào từ tháng 8-1893.
Năm 1894, Ông viết tác phẩm “người bạn dân là thế nào,họ đấu tranh
chống những người dân chủ xã hội ra sao?”. Đây là bản tuyên ngôn và
cương lĩnh của những người Mác-xít Nga, đồng thời cịn là tác phảm mở
đầu cho giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển triết học Mác.Năm 1895,
V.I.Lênin tập hợp nhóm cơng nhân Mác-xít ở Xanh Pêtecbua thành lập hội

Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân- một tổ chức tiền thân
cuả Đảng vô sản Nga sau này. Năm 1900, Ơng ra nước ngồi lập tờ báo có
khuynh hướng chính trị Mác-xít mang tên “Tia lửa”.Thnág 4-1917,
V.I.Lênin đưa ra Luận cương Tháng 4; tháng 7-1917 Ông sang Phần Lan
lánh nạn và viết tác phẩm: “Nhà nước và cách mạng”. Ngày 7-10-1917,
V.I.Lênin trở về và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Mười thành công, đưa
nước Nga đi lên Chủ nghĩa Xã hội, mở trang sử mới cholịch sử nhân
loại.Ngày 8-11-1917, V.I.Lênin công bố sắc lệnh lịch sử về hịa bình và
ruộng đất. Với vị trí đứng đầu Nhà nước Xơviết, Ơng lãnh đạo Đảng
Bơnsêvich chống thù trong giặc ngoài, củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã
hội đầu tiên trên thế giới,.
Năm 1919, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin Quốc tế cộng sản III được
5


thành lập. Sau nội chiến, V.I.Lênin đưa ra: “Chính sách kinh tế mới” có ý
nghĩa to lớn.
II. Tư tưởng trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin
1.Tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Pháp quyền của Hêghen-lời
nói đầu” của C.Mác
1.1.Hồn cảnh lịch sử
Mùa xuân năm 1843, báo “Sông Ranh” bị đóng cửa do chính phủ Phổ
quy cho tờ báo này tun truyền cách mạng. Do đó, C.Mác phải rời Cơ-lơnhơ đến Crai-snach. Tại đây ông nghiên cứu lịch sử hiện đại, nhất là lịch sử
cách mạng tư sản Pháp (1789-1794), các tác phẩm của các nhà duy vật
Pháp như RútXô, Mơng-Tét-Ski-ơ, Ma-Kia-Ven,...Nhờ vậy ơng nhận thấy
cần phải rứt khốt đoạn tuyệt với triết học Hêghen, vì thế sau năm 1843,
đầu năm 1844 Mác chuyển đến sống ở Pari và cùng xuất bản với Ru-Zơ tờ
“Niên giám Pháp-Đức. Ở Pari ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong
trào đấu tranh giai cấp của công nhân Pháp, cùng với việc tiếp xúc với các

nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, C.Mác đã có sự thay đổi lập
trường chính trị. Vì vậy tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen-lời nói đầu” ra đời.
1.2.Nội dung tư tưởng
Đây là tác phẩm đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong quá trình
chuyển biến của C.Mác từ Chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa cộng sản. C.Mác viết tác phẩm tháng 12 -1843 đến tháng 1-1844
phê phán quan điểm của Hêghen về nhà nước và pháp quyền ,sự tán dương
của Hêghen đối với chế độ quân chủ lập hiến, đặc biệt là đối vối chế độ
quân chủ lập hiến quan liêu và quân chủ Phổ lúc đó. Bên cạnh việc phê
phán Mác nêu vai trị lịch sử tồn thế giới của giai cấp vô sản, đồng thời

6


cũng đề xuất luận điểm nói về ý nghĩa cách mạng hóa to lớn của lý luận
tiên phong trong cuộc đấu tranh nhằm cải tổ lại Xã hội một cách căn bản.
Hêghen cho rằng: “Đối với những lĩnh vực dân pháp và phúc lợi tư
nhân,gia đình và xã hội cơng dân thì Nhà nước,một mặt là sự tất yếu bên
ngồi và là quyền lực tối cao của những lĩnh vực ấy đều phục tùng và lệ
thuộc vào bản chất của quyền lực đó. Nhưng mặt khác, Nhà nước lại là
mục đích bên trong của những lĩnh vực ấy, và sức mạnh của Nhà nước là ở
sự thống nhất giữa mục đích chung cuối cùng của Nhà nước với lợi ích đặc
thù của những cá nhân, tức là ở chỗ cá nhân có nghĩa vụ đối với Nhà nước
đến mức nào thì đồng thời cũng có quyền lợi đến mức đó.
C.Mác phê phán Hêghen khi Hêghen nói tới sự lệ thuộc bên trong của
dân pháp ... vào Nhà nước, tức là nói rằng tất cả những điều đó về thực
chất đều do Nhà nước quy định. Nhưng đồng thời ông lại quy sự lệ thuộc
ấy thành mối quan hệ “sự tất yếu bên ngồi”và đem đối lập nó, coi là mơt
mặt khác, với một mối quan hệ khác, trong đó gia đình và Xã hội cơng dân

quan hệ với Nhà nước như với “mục đích bên trong”của minh. C.Mác phê
phán Hêghen khi Hêghen coi “sự tất yếu bên ngồi” chỉ có thể có nghĩa là
“luật pháp và lợi ích” của gia đình và của xã hội phải nhượng bộ “lợi ích”
và “luật pháp” của Nhà nước. Trong trường hợp có xung đột,rằng chúng
phải phục tùng Nhà nước,sự tồn tại của chúng lệ thuộc vào sự tồn tại của
Nhà nước hoặc ý chí của Nhà nước và luật pháp của Nhà nước thể hiện ra
là một sự tất yếu đối với “ý chí” và “luật pháp” của gia đình và của xã hội
cơng dân. Tuy nhiên, Hêghen khơng nói đến Nhà nước quan hệ với “luật
pháp và những lợi ích của những lĩnh vực ấy” với tư cách là”quyền lực tối
cao”. “Lợi ích” và “luật pháp” của những lĩnh vực ấy quan hệ với Nhà
nước, với tư cách là những cái “phục tùng” Nhà nước.Những lĩnh vực ấy
sống trong “sự lệ thuộc” như vậy vào Nhà nước.Chính vì “sự phục tùng” và
“sự lệ thuộc” là những quan hệ bên ngoài thu hẹp cái bản chất độc lập và

7


mâu thuẫn với bản chất đó,nên quan hệ của “gia đình” và của “xã hội cơng
dân” với Nhà nước là quan hệ “sự tất yếu bên nhoài”, một sự tất yếu đi
ngược lại bản chất bên trong của sự vật.
Mặt khác, Hêghen cho rằng Nhà nước là mục đích bên trong của
những lĩnh vực ấy và sức mạnh của Nhà nước là ở sự thống nhất giữa mục
đích chung cuối cùng của Nhà nước với lợi íh đặc thù của những cá
nhân,tức là ở chỗ cá nhân có ngiã vụ đối với Nhà nước đến mức nào thì
đồng thời cũng có quyền lợi đến mức đó. Ở đây, Hêghen đã nêu ra: theo
C.Mác đó là một sự tương phản khơng thể giải quyết được, một mặt sự tất
yếu bên ngoài, mặt khác là mục đích bên trong. Sự thống nhất giữa mục
đích chung cuối cùng của Nhà nước với lợi ích đặc thù của những cá nhân
dường như là ở chỗ nghĩa vụ của cá nhân đối với Nhà nước và những
quyền mà Nhà nước trao cho cá nhân, là đồng nhất với nhau.

Hêghen cho rằng: Nhà nước với tư cách là một cái gì có tính ln lý,
là sự thâm nhập lẫn nhau của cái có tính chất thực thể và của cái đặc thù,
bao hàm trong bản thân nó một điều là: nghĩa vụ cuả tơi đối với cái có tính
chất thực thể, đồng thời cũng là hình thức tồn tại của sự tự do đặc thù của
tôi, tức là trong Nhà nước, nhiệm vụ và quyền lợi được hợp nhất trong
cùng một quan hệ. Cách nói ấy của Hêghen có thể hiểu: Nhà nước xuất
hiện vơ ý thức và tùy tiện từ gia đình và xã hội công dân. Gia đinh và xã
hội công dân dường như là cái cơ sở tự nhiên tối tăm mà từ đó bốc cháy
ngọn đuốc Nhà nước. Chất liệu của Nhà nước, được hiểu là những công
việc của Nhà nước, cụ thể là gia đình và xã hội cơng dân, vì chúng hợp
thành những bộ phận trong Nhà nước, tham gia bản thân của Nhà nước.
C.Mác phê phán Hêghen: Khi gia đình và xã hội cơng dân được Hêghen coi
là những lĩnh vực của khái niệm Nhà nước, cụ thể là những lĩnh vực của
giai đoạn hữu hạn của Nhà nước, là tính hữu hạn của Nhà nước. Đó là cái
Nhà nước đang phân chia bản thân thành những lĩnh vực ấy, lấy những lĩnh

8


vực ấy làm tiền đề, và Nhà nước làm việc đó chính là để từ tính ý tưởng
của 2 lĩnh vực ấy trở thành tinh thần hiện thực vô hạn cho mình. “Nhà nước
phân chia bản thân để ...”.Nhà nước “phân chia như vậy chất liệu của tính
hiện thực của mình cho những lĩnh vực đó, thành thử việc phân chia này...
biểu hiện ra là một sự phân chia do ...làm môi giới cái gọi là: “ý niệm hiện
thực” (tinh thần là vơ hạn,là hiện thực) được hình dung như thể là nó hoạt
động trheo một nguên tắc nhất định và nhằm một mục đích nhất định, nó
phân chia bản thân thành những lĩnh vực hữu hạn; nó làm việc đó để “trở
lại trong nó, tồn tại cho nó”, hơn nữa nó làm như vậy để cho kết quả đúng
là cái kết quả trong hiện thực, C.Mác đã chỉ ra “trong đoạn này cái chủ
nghĩa thần bí lơgic phiếm thần luận hoàn toàn bộc lộ rõ”.

Hơn nữa C.Mác phê phán Hêghen khi ông cho rằng” ý niệm hiện
thực, tức tinh thần, tự phân chia bản thân thành 2 lĩnh vực ý tưởng của khái
niệm của mình, thành gia đình và xã hội cơng dân, tức là hình thành giai
đoạn hữu hạn của mình”- do đó, sự phân chia nhà nước thành gia đình và
xã hội cơng dân là một sự phân chia ý tưởng, tức là một sự phân chia tất
yếu với tư cách là một bộ phận của bản chất của nhà nước. Gia đình và xã
hội cơng dân là những bộ phận hiện thực của nhà nước, là những tồn tại
tinh thần hiện thực của ý chỉ, là những phương thức tồn tại của nhà nước.
Gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành nhà nước. Chúng chính là
động lực. Cịn theo Hêghen thì ngược lại, chúng được sản sinh ra từ ý niệm
hiên thực. Việc chúng kết hợp thành nhà nước không phải là kết quả của
q trình sống của chính chúng; ngược lại, chính ý niệm,trong quá trình
sống của mình,đã tách chúng ra khỏi bản thân.Thật vậy, chúng là tính hữu
hạn của ý niệm ấy. Chúng tồn tại không phải nhờ tinh thần của bản thân
chúng, mà nhờ một tinh thần khác. Chúng không phải là những tự quy
định, mà là những quy định bắt nguồn từ một cái khác nào đó. Đó là lễ tại
sao chúng được {Hêghen} quy định là “tính hữu hạn”, là tính hữu hạn của
bản thân “ý niệm hiện thực”. Mục đích tồn tại của chúng khơng phải là bản
9


thân sự tồn tại đó. Ý niệm tách những tiền đề ấy khỏi bản thân “để từ tính ý
tưởng của chúng trở thành tinh thần hiện thực vô hạn cho mình”. Điều đó
có nghĩa là: nhà nước chính trị khơng thể tồn tại nếu khơng có cơ sở tự
nhiên là gia đình và cơ sở nhân tạo là xã hội công dân. Chúng là cái tất yếu
của nhà nước.
C.Mác đã phê phán Hêghen và phái Hêghen trẻ coi nhà nước là hiện
thân của lý tính, trật tự và cơng lý. Hêghen đã thần thánh hóa nhà nước
Phổ, muốn cho Nhà nước Phổ tồn tại vĩnh viễn và tuyên bố đó là động lực
của lịch sử. C.Mác phê phán quan điểm Duy tâm đó của Hêghen, quan

điểm ơng coi Nhà nước Phổ là hiện thân lý tính, trật tự về cơng lý không
phải là không lôgic tất nhiên rút ra từ tiền đề lý luận nào đó, mà là sự mơ
tả, lý tưởng hóa Nhà nước đương thời mạo xưng là nhà nước lý tưởng.
C.Mác coi đó là sự cúi mình của Hêghen trước bọn quý tộc phần đông.
Hêghen quan niệm các cuộc cách mạng tư sản tuy là cần thiết nhưng là sự
biểu hiện chưa chín muồi của tinh thần tuyệt đối. Ông cho rằng chỉ cần đạt
đến nnền quân chủ lập hiến là mọi cuộc cải tạo cách mạng xã hội đều được
từ trên xuống dưới theo sáng kiến của chính quyền nhà nước chứ khơng
phải từ dưới lên trên bằng con đường cách mạng. Mặt khác Hêghen coi xã
hội cơng dân là sự tha hóa của Nhà nước. C.Mác cho rằng đây là quan điểm
Duy tâm thần bí, Hêghen khơng nhìn thấy nguồn gốc nhà nước mà theo
C.Mác, khơng phải xã hội cơng dân là sự tha hóa của nhà nước mà ngược
lại, nhà nước là do xã hội công dân đẻ ra. Thực chất C.Mác đã bác bỏ quan
niệm Duy tâm về mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế -xã hội và nhà nước.
Về bản chất nhà nước, Hêghen “Chế độ nhà nước là hợp lý chừng nào
nhà nước phân biệt và quy định trong bản thân mình hoạt động của mình
cho phù hợp với bản tính của khái niệm. Cụ thể là sao cho mỗi quyền lực
đó là một tổng thể, do chỗ nó thực sự chứa đựng trong nó và cũng bao gồm
trong nó cả những yếu tố khác nữa, và vì những yếu tố này biểu hiện sự

10


khác biệt của khái niệm, nên chúng vẫn còn lại nguyên vẹn trong tính ý
tưởng của nhà nước,và chỉ hợp thành một tổng thể riêng biệt”, nhà nước là
tấp quán và ý thức của các cá nhân của nhà nước, cho nên chế độ nhà nước
của mỗi dân tộc phụ thuộc nói chung vào tính chất và sự hình thành của tự
ý thức của dân tộc ấy, sự tự do chủ quan của dân tộc và do đó, cả tính hiện
thục của chế độ nhà nước, đều nằm trong tự ý thức đó...Vì thế mỗi dân tộc
đều có chế độ nhà nước phù hợp với nó và thích hợp với nó.

Hêghen coi nhà nước là sự giải quyết và điều hịa tất cả những mâu
thuẫn về kinh tế và chính trị. C.Mác chứng minh rằng, các mặt đối lập
không thể điều hịa được, vì chúng là những mâu thuẫn thực sự. Hơn nữa,
C.Mác làm sáng tỏ lý do xuất hiện nhà nước trong lịch sử đó là do mâu
thuẫn khơng thể điều hịa được và ơng chỉ ra chế độ nhà nước hiện tồn là
chế độ nhà nước của chế độ tư hữu.
Việc Mác nêu lên mối quan hệ giữa nhà nước và chế độ tư hữu làm
cho ông vượt lên trên tất cả những tư tưởng triết học và xã hội học trước
kia. Đây là sự phát triển trong lập trường chính trị của Mác. Tuy nhiên
trong lúc này Mác vẫn coi các mặt đối lập ít nhiều cịn có tính chất siêu
hình ở chỗ chưa thấy sự quy định lẫn nhau trong một thể thống nhất.
2.Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Ph.Ăngghen
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Tác phẩm được Ph.Ăngghen viết năm 1884, nó được coi là cuốn sách
giáo khoa về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, khoa học xã hội và dân tộc học đã
có những phát kiến quan trọng đối với lịch sử xã hội, nhất là xã hội cổ đại.
Môc-găng-nhà nhân chủng học người Mỹ đã viết cuốn “Xã hội cổ đại”.
Cuốn sách thu hút sự chú ý của C.Mác và Ph.Ăngghen. C.Mác đã nghiên

11


cứu cuốn sách đó và có nhận xét, phê phán trong một tài liệu riêng. Sau khi
C.Mác mất, Ph.Ăngghen sắp xếp lại bản thảo, ông quyết định viết một cuốn
sách về vấn đề này nhằm hoàn thiện hệ thống những quan niệm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử,đồng thời chộng lại chủ nghĩa duy vật tầm thường về
lịch sử đang thịnh hành lúc bấy giờ. Mục đích Ph.Ăngghen viết tác phẩm
chỉ ra sai lầm của giai cấp tư sản. Vào những năm 60 khi họ cho rằng gia

đình tư sản là hình thức gia đình lý tưởng nhất, nó tồn tại từ xưa cho đến
nay, trừ chế độ quần hôn. Họ cho rằng sự ra đời Nhà nước và chế độ tư hữu
là lẽ tự nhiên. Và ông viết tác phẩm này khi quan điểm Duy vật lịch sử đã
hoàn thiện.
2.2.Nội dung tư tưởng
Đây là tác phẩm được coi là cuốn sách giáo khoa về chủ nghĩa duy vật
lịch sử, Ph.Ăngghen đã dựa vào thành tựu khoa học và đứng trên quan
điểm duy vật về lịch sử để vạch ra nguồn gốc của chế độ tư hữu của giai
cấp và của nhà nước trong lịch sử, cũng như nguồn gốc, điều kiện tiêu vong
của chế độ tư hữu,của giai cấp và của nhà nước.
Từ cách trình bày nguồn gốc tiến hóa cua các hình thức gia đình trong
lịch sử, ơng đi đến khẳng định: hình thức gia đình cổ xưa nhất của lịch sử
là chế độ quần hôn. Khi chế độ quần hơn của gia đình hình thành, trong q
trình tiến hóa của gia đình, do yếu tố kinh tế thay đổi, sự phát triển dần từ
gia đình huyết tộc đến gia đình Ru-naơ-lu-an,gia đình cặp đơi, gia đình gia
trưởng và đến gia đình một vợ một chồng.
Từ đó ta thấy được sự thay đổi quy mơ của gia đình là do yếu tố kinh
tế chi phối. Hơn nữa, dựa trên tài liệu lịch sử, khảo cổ học, nhân chủng
học...Ph.Ăngghen đã phân tích nguồn gốc ra đời, đặc điểm của các tổ chức
xã hội của thời đại cộng sản nguyên thủy. Để từ đó đứng trên quan điểm
duy vật biện chứng ông chỉ ra nguyên nhân của sự tan rã chế độ thị tộc, đó
chính là ngn nhân kinh tế. Kinh tế dẫn đến chế độ tư hữu xuất hiện nhà
12


nước giai cấp. Do sản xuất phát triển, các công xã thị tộc trao đổi vật phẩm
với nhau, đồng thời có sự phân cơng lao động giữa các ngành nghề, giữa
lao động chân tay từ đó xuất hiện sở hữu tư nhân. Nhờ quá trình trao đổi
sản xuất, một số người giàu lên, một số phá sản bị tước mất tư liệu sản xuất
dẫn đến chế độ chiếm hữu nô lệ đi đơi với sự phân hóa nội bộ thành những

giai cấp đối lập nhau. Khi giai cấp xuất hiện thì chia ra thành 2 loại :kẻ đi
tước đoạt và người bị cướp đoạt, hay nói khác đi đó là xuất hiện giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị. Khi xuất hiện giai cấp đối kháng thì tất yếu phải
cí đấu tranh, thủ tiêu nhau. Vì vậy xuất hiện nhà nước, nguồn gốc của nhà
nước là do đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp thù địch.Ông kết luận “Nhà
nước không phải là những lực lượng thù địch từ bên ngồi gán cho, khơng
phải là hiện thực của tinh thần đạo đức như Hêghen đã khẳng định, Nhà
nước xuất hiện do mâu thuẫn xã hội khơng thể điều hịa được, chừng nào
mâu thuẫn xã hội khơng thể điều hịa được, chừng ấy tồn tại nhà nước.
Ph.Ăngghen vạch ra rằng, nhà nước cũng như giai cấp và chế độ tư hữu
xuất hiện ở một giai đoạn lịch sử nhất định do sự phát triển của nền sản
xuất xã hội tạo ra. Nhà nước sẽ tiêu vong khi giai cấp và đấu tranh giai cấp
khơng cịn và chế độ tư hữu cũng mất đi.
Khẳng định đó của Hêghen thể hiện chủ nghĩa duy vật lịch sử rất rõ
ràng, từ khẳng định của ông ta nhận ra được rằng: sự tồn tại của nhà nước,
giai cấp khơng vĩnh viễn, nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử khi ông nêu ra quan điểm nhà nước tự tiêu vong.
Hơn nữa trong tác phẩm, Ph.Ăngghen còn chỉ ra q trình vận động,
phát triển, q trình tiến hóa của những tổ chức, cộng đồng người trong lịch
sử. Đó là từ thị tộc đến bào tộc-bộ lạc và bộ tộc, sự tan rã của chế độ này
như thế nào, Ph.Ăngghen chỉ ra đó là do kết quả của sản xuất. Đây là một
bước tiến mới trong tư tưởng của ông.
Cũng trong tác phẩm,đứng trên quan điểm duy vật biện chứng,
13


Ph.Ăngghen đã phân kỳ sự phát triển của xã hội qua 3 thời đại :mông muội,
dã man, văn minh.
Tác phẩm : “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” là kiểu mẫu của sự vận dụng sáng tạo quan điểm duy vật lịch sử. Tác

phẩm góp phần chứng minh trên cơ sở những luận cứ khoa học, những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
3.Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin
3.1.Hoàn cảnh lịch sử
Tác phẩm ra đời trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến
trước Cách mạng tháng Mười nổ ra. Với mục đích gắn liền việc phân tích
biện chứng sâu sắc về thời dại mới,khuynh hứơng phát triển của lịch sử,
những nhiệm vụ của giai cấp vô sản và Đảng cách mạng của nó.
Vào đầu thế kỷ XX,Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn cuối cùng
của nó:giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn này đã được V.I. Lênin coi là
đêm trước của Cách mạng vô sản, Xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh thế
thới thứ nhất (1914-1918) làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản gay gắt
đến tột độ, đã thúc đẩy nhanh chóng q trình chín muồi của khủng hoảng
cách mạng tronhg nhiều nước đế quốc. Thực tế náy đã đặt ra trước giai cấp
vơ sản và các đảng Mác-xít của nó nhiệm vụ lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản và giành chính quyền về tay giai cấp cơng nhân.V.I.Lênin đã
nhấn mạnh: “Vấn đề thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp
vô sản đối với Nhà nước khơng chỉ có ỹ nghĩa chính trị -thực tiễn mà cịn
có tích chất nóng hổi nhất nữa. Vì đây là vấn đề làm cho quần chúng thấy
rõ những việc họ sẽ phải làm trong một tưong lai gần đây, để tự giải phóng
khỏi ách tư bản”(V.I.Lênin tồn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, tập
33, năm 1976, trang 5).
Thực tiễn Cách mạng đặt ra yêu cầu cần tổng kết một cách sáng tạo

14


kinh nghiệm cách mạng mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản và trên
cơ sở đó phát triển hơn nữa lý luận Mác-xít về Cách mạng xã hội chủ
nghĩa,trong đó cốt lõi là học thuyết về Nhà nước. Do vậy cần phải trình bày

có hệ thống các quan điểm của những người sáng lập Chủ nghĩa cộng sản
khoa học về Nhà nước, các quan điểm này đã bị bóp méo xun tạc dưới
nhiều hình thức của chủ nghĩa cơ hội quốc tế xét lại và phát triển chúng cho
phù hợp với hồn cảnh lịch sử mới. Vì vậy, V.I.Lênin đã giải quyết một
cách xuất sắc những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu này trong tác phẩm:
“Nhà nước và cách mạng”, đặt cơ sở cho lý luận về Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa -phần quan trọng nhất của học thuyết Mác-xít về Nhà nước.Về sau lý
luân này được V.I.Lênin phát triển dựa trên kinh nghiệm chính quyền Xơ
viết.
Tác phẩm này được Lênin viết trong thời kỳ tháng 8, tháng 9-1917
đến tháng 5-1918, xuất bản tháng 5-1918. Nội dung của tác phẩm phê phán
quan điểm sai lầm, cơ hội,xét lại của Bec-stanh, Cau-sky...về vấn đề Nhà
nước và Cách mạng, phát triển lý luận Mác-xít về các vấn đề đố trên cơ sở
tổng kết một cách sáng tạo kinh nghiệm Cách mạng mới của giai cấp vô
sản.tác phẩm gồm 6 chương,riêng chương 7 Lênin dự định viết về “ kinh
nghiệm của cuộc cách mạng Nga những năm 1905 và 1907” nhưng chưa
thực hiện được, vì những cuộc khủng hoảng chính trị trước Cách mạng
tháng Mười-1917.
3.2.Nội dung tư tưởng
Trong tác phẩm Lênin trình bày nhiều nội dung triết học quan
trọng.Tổng kết những luận điểm cơ bản của học thuyết Mác về Nhà nước
từ các tác phẩm của Mác và Ăngghen, Ông tiếp tục khẳng định những tư
tưởng của Mác và Ăngghen về Nhà nước, nhiệm vụ của giai cấp vô sản
trong cách mạng. Đây là tác phẩm đặc sắc của V.I.Lênin trên nhiều phương
diện triết học, kinh tế chính trị,chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó lần đầu
15


tiên học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề nhà nước được trình
bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất.V.I.Lênin đã khẳng định vấn đề

nhà nước là một trong những vấn đề căn bản của chủ nghĩa mác, phân tích
mối liên hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của xã hội, tính tất yếu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và chun chính vơ sản, xác định thực chất và
nhiệm vụ của nhà nước vô sản và nền dân chủ vô sản, đã phát triển sáng tạo
những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước trong điều kiện
mới.
V.I.Lênin khẳng định chỉ có chủ nghĩa Mác mới làm rõ nguồn gốc
,bản chất và các hình thức của nhà nước. Theo lênin “chính trị là sự tham
gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà
nước,việc xác điịnh những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của
nhà nước” (V.I.Lênin:Toàn tập, Nxb Tiến bộ,Matxcơva,1976, t.33,tr.404).
Vấn đề cơ bản nhất của chính trị là quyền lực nhà nước.Trong xã hội có
giai cấp,các tập đồn, các tầng lớp xã hội có vị trí khác nhau trong cơng
việc quản lý nhà nước.Do vậy có thể khẳng định chính trị là sự phả ánh
quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn,các tầng lớp xã hội khác nahu trong
việc giành ,giữ và sử dụng chính quyền nhà nước.
Trên cơ sở này, Lênin xác đinh nguồn gốc nhà nước “Nhà nước làd
sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa
được. Bất cứ ở đâu, hay lúc nào và chừng nào, về mặt khách quan, những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hịa được thì nhà nước xuất hiện”.
(V.I.Lênin:Tồn tập,Nxb Tiến bộ,Matxcơva,1976, t.33,tr.10).
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của
một ai hay một giai cấp nào đó. Bản chất giai cấp của nhà nước do cơ sở
kinh tế trên đó nhà nước tồn tại quy định. Giai cấp nắm chính quyền nhà
nước trong một thời đại phải là giai cấp thống trị về kinh tế ,do đó cũng là
giai cấp “được coi là thừa nhận là đại biểu chung của xã hội”(C.mác và
16


Ph.Ăngghen :Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,1995,t.1,tr.585).

Tong thời cổ đại đó là giai cấp chủ nơ,ở trung đại là giai cấp quý tộc phong
kiến,bước vào thời kỳ hiện đại là giai cấp tư sản và ngày nay là giai cấp vô
sản. Tương ứng với các giai cấp đó,trong lịch sử đã xuất hiện các kiểu nhà
nước khác nhau :nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến,nhà nước tư sản và
nhà nước vơ sản.
Vị trí trung tâm trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” là những
vấn đề về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, học thuyết
về hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tổng kết thực tiễn lịch sử và phát triển quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới của cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin chỉ rõ vấn đề cơ bản của bất
kỳ cuộc cách mạng nào là vấn đề chính quyền nhà nước. Sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã làm sâu sắc thêm mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản và tạo ra những tiền đề kinh tế,chính trị và xã
hội cần thiết cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chun
chính vơ sản là tất yếu lịch sử, giai cấp vơ sản dùng chính quyền nhà nước
để đàn áp thiểu số dân cư là bọn bóc lột và xay dựng xã hội mới. Chun
chính vơ sản là nhà nước q độ và nó khác về cơ bản với nhà nước tư sản:
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước từ chỗ là công cụ thống trị giai cấp
chuyển thành cơ quan thể hiện ý chí của tồn dân.
V.I.Lênin thấy rõ nhu cầu cấp bách đặt ra từ tình hình đó là phải tổng
kết,khái quát và thát triển sáng tạo lý luận Macxít về cách mạng xã hội chủ
nghĩa và nhà nước chun chính vơ sản, để hướng phong trào cộng sản
quốc tế đi đúng mục tiêu cao cả của nó.Theo V.I.Lênin vấn đề thái độ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản đối với nhà nước khơng chỉ
có ý nghĩa chính trị thực tiễn, mà cịn có tính chất nóng hổi nữa, vì đây là
17



vấn đề làm cho quần chúng thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một
tương lai gần đây, để tự giải phóng khỏi ách tư bản.
Thực hiện những nhiện vụ đặt ra ở thời đại của mình, V.I.Lênin đã
thực sự làm một cuộc tổng kết lý luận về các vấn đề nhà nước và nhà nước
chun chính vơ sản, về cách mạng và cách mạng xã hội chủ nghĩa.Trong
các tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, “Cách mạng vô sản và tên phản
bội Causki’’,”Sáng kiến vĩ đại”, “Kinh tế chính trị trong thời kỳ chun
chính vơ sản”,...V.I.Lênin đã đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh đến một số
nội dung cơ bản của lý luận về nhà nước chuyên chính vơ sản mà trong
điều kiện mới, chính những nội dung ấy lại là cái phân biệt người Mácxít
với những người macxít giả hiệu.
Vì vậy, khơng có cách nào khác, giai cấp vô sản phải đập tan bộ máy
quyền lực của giai cấp tư sản, đồng thời thiết lập bộ máy chính quyền nhà
nước của mình, một nhà nước dân chủ gấp triệu lần so với dân chủ tư sản.
Bộ máy nhà nước kiểu này dựa vào lực lượng chuyên chính của nhân dân
để đập tan mọi sự phản kháng của giai cấp tư sản và bóc lột, phản động,
đồng thời với đội tiền phong của mình là chính đảng cộng sản, nhà nước vơ
sản lãnh đạo tồn thể quần chúng nhân dân xây dựng một xã hội mới tốt
đẹp hơn, văn minh hơn-đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa.V.I.Lênin viết: “Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng
vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa tất nhiên phải
đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản. Chun
chính của giai cấp đó, tức là một chính quyền khơng bị chia sẻ với ai hết,và
trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng. Giai cấp tư sản chỉ có
thể bị lật đổ khi nào giai cấp vơ sản trở thành giai cấp thống trị đủ sức trấn
áp sự phản kháng không thể tránh khỏi, tuyệt vọng của giai cấp tư sản, và
đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao động và bị bóc lột để xây dựng một
chế độ kinh tế mới.

18



Như vậy, điều quan trọng bậc nhất, mang tính quyết định đối với vấn
đề xây dựng nền chuyên chính của giai cấp vơ sản là sự thống trị về chính
trị, tức là sự lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp vơ sản đối với tồn bộ xã
hội.Trên thực tế, chun chính của giai cấp vơ sản cũng chính là chun
chính của một giai cấp. Nhưng so với nền chuyên chính của giai cấp bóc lột
trước đây thì nền chun chính này khác về bản chất. Bởi giai cấp vô sản là
giai cấp bị áp bức bóc lột cuối cùng trong lịch sử, có lợi ích thống nhất với
lợi ích cuảt tồn thể quần chúng bịi áp bức bóc lột, vùng lên giàng lấy
quyền lãnh đạo làm điều kiện giải phóng cho giai cấp mình, đồng thời giải
phóng tồn thể các giai cấpvà tầng lớp bị bóc lột khác. Và như vậy, nhà
nước chiun chính vơ sản,về nhun tắc,chính là là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, một nhà nước có khả năng thực sự thực hiện quyền dân chủ đối
với nhân dân, thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào quá trình tổ chức,
quản lý và xây dựng xã hội mới. Với ý nghĩa đó, nhà nước chuyên chính vơ
sản cũng cịn là hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp công
nhân với đông đảo quần chúng nhân dân là trịu cột của sự liên minh ấy là
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức.
V.I.Lênin khẳng định,sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tạo ra tính mn hình mn vẻ của hình thức chính quyền nhà
nước,song thực chất của chúng tất nhiên chỉ là một: chun chính vơ sản.
Kết quả nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm cùng những bài học của cách
mạng là kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng giai cấp cơng nhân
chỉ có thể giành được chính quyền và thiết lập nền chun chính vơ sản
bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa,trong cuộc cách mạng đó giai
cấp vơ sản phá hủy bộ máy nhà nước tư sản và lập dựng lên bộ máy nhà
nước mới. V.I.Lênin dạy : “Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận dấu
tranh giai cấp đến mức thừa nhận chun chính vơ sản thì mới là người
macxít.


19


Nhiệm vụ của chun chính vơ sản là thủ tiêu chế độ người bóc lột
người và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chun chính vơ sản có vai trị tổ
chức quan trọng trong việc xây dựng xã hội mới, đó là một nhà nước kiểu
mới, nhà nước dân chủ kiểu mới. Nguyên tắc tối cao của nó là liên minh
của giai cấp cơng nhân với tồn thể nhân dân lao động và các tầng lớp xã
hội khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước vô sản là nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình: phát triển sản xuất, xóa bỏ sự phân chia xã
hội thành giai cấp, nhà nước vô sản sẽ tự tiêu vong, nhà nước mất đi, chế
độ nhà nước được thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa. Đúng
như V.I.Lênin đã chỉ ra,với việc hoàn thành xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa, nhà nước sẽ hồn tồn khơng cần thiết nữa.
Trong tác phẩm của mình, V.I.Lênin vạch ra thực chất và nhiệm vụ
của chun chính vơ sản, vai trị tổ chức cực kỳ to lớn của nó trong việc
xây dựng xã hội mới sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất dân chủ của nhà nước vô sản,
sự khác biệt cơ bản của nó với nền dân chủ tư sản. V.I.Lênin dạy rằng
chuyên chính vơ sản là một kiểu nhà nước mới, “nhà nước dân chủ kiểu
mới (dân chủ đối với những người vơ sản và nói chung những người khơng
có của), và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”(tr.43). Nhà
nước vô sản bảo vệ quyền lợi của những người lao động. Như lênin đã chỉ
rõ, sự khác biệt cơ bản cử chun chính vơ sản với nhà nước tư sản biểu
hiện ở các hình thức tổ chức nhà nước và ở vai trò lịch sử mà no thực hiện.
V.I.Lênin đã cụ thể hóa và phát triển học thuyết của C.Mác về hai giai
đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội,
vạch ra về mặt lý luận cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong. Trong giai đoạn

chủ nghĩa xã hội, do trình độ phát triển kinh tế cịn thấp, do vậy phải thực
hiện nguyên tắc “làm theo năng lực,hưởng theo lao động”, chỉ đến giai
20


đoạn sau chủ nghĩa cộng sản, khi trình độ phát triển kinh tế ở mức cao mới
thực hiện theo nguyên tắc: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Do
vậy, sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình lâu dài tùy thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản, dần chuyển thành tổ
chức tự quản xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Lênin khẳng định nước Cộng hịa Xơ viết phải tiếp thu cho bằng được
tất cả những gì quý giá trong những thành quả của khoa học và của kỹ thuật
trong lĩnh vực đó. Chúng ta sẽ có thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội hay
khơng, điều đó chính là tùy ở những kết quả của chúng ta trong việc kết
hợp Chính quyền xơ viết với chế độ quản lý Xơ viết với những tiến bộ mới
nhất của chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm này, V.I.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng
chống các quan điểm xuyên tạc, phản động, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét
lại để bảo vệ học thuyết của Mác và Ăngghen về nhà nước và cách mạng.
Những quan điểm của lênin trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
có ý nghĩa to lớn trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh thế giới đang vận
động dưới tác động của q trình tn cầu hóa kinh tế và phát triển kinh tế
thị trường. Mặc dù tận dụng được thành quả của khoa học và công nghệ,
thực hiện sự điều chỉnh trên phạm vi quốc tế, song bản chất của nhà nước
tư sản vẫn không thay đổi, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn
không thay đổi và có chiều hướng sâu sắc thêm. Điều này khẳng định tính
đúng đắn trong quan điểm của Lênin, phản bác lại những học thuyết tư sản
về chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tồn cầu hóa, về nhà nước
phúc lợi chung...
Họ đưa ra rất nhiều lý luận về nhà nước, trong đó họ biện hộ sự thống

trị của các giai cấp bóc lột, xóa nhịa tính chất giai cấp của nhà nước tư sản.
Nhằm làm cho nhân dân lao động sao nhãng những vấn đề cơ bản của đời
sống xã hội, các nhà tư tưởng tư sản tán dương nhà nước tư sản hiện đại,
21


miêu tả nó như một nhà nước siêu giai cấp “phồn vinh chung” trong đời
sống xã hội.
Tuy nhiên cũng cần nhận thức đầy đủ hơn quan điểm củ Lênin trong
điều kiện mới hiện nay. Trong xã hội có giai cấp, chính quyền nhà nước
thực hiện sự thống dưới các hình thức nhà nước khác nhau. Nói đến hình
thức nhà nước là nói đến hình thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền
lực nhà nước. Một nhà nước tồn tại dưới hình thức nào,tùy thuộc vào
những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa trong và ngồi nước, tùy thuộc
vào tương quan so sánh lực lượng của giai cấp trong xã hội. Ngoài ra,
truyền thống và đặc điểm của mỗi dân tộc có ảnh hưởng đến hình thức nhà
nước.
Về bản chất, Nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp. Nhưng
giai cấp nắm chính quyền nhà nước lại nhân danh xã hội dể điều hành và
quản lý xã hội, nhà nước trong thực tế tồn tại như một cơng quyền, như một
quyền lực cơng cộng. Vì vậy, nhà nước khơng những có tính giai cấp, mà
cịn có tính xã hội,không những thực hiện chức năng giai cấp, mà cịn phải
hồn thành các chức năng xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt
nguồn từ lý do ra đời của nhà nước tạo thành bản chất chủ yếu của nó.
Chức năng xã hội bắt nguồn từ nhiệm vụ giải quyết những công việc chung
của xã hội.Nhà nước thực hiện chức năng xã hội trong mối liên hệ mật thiết
với các chức năng giai cấp. Hơn nữa, chức năng xã hội cịn là cơ sở cho sự
thống trị chính trị giai cấp.
Vì vậy, sẽ là mơ hồ nếu khơng thấy được tính chính trị,tính giai cấp
của các chủ trương, chính sách và sự tác động can thiệp của nhà nước vào

các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,giáo dục...Nhưng ngược lại, nếu quy các chức
năng đa dạng của nhà nước về chức năng giai cấp, hoặc tuyệt đối hóa tính
chất giai cấp, tính chất chính trị của nhà nước mà khơng thấy được tính xã
hội, vai trị chức năng xã hội trong phát triển xã hội thì sẽ là phiến diện.
22


Khi nhà nước nằm trong tay “giai cấp đại biểu cho tồn thể xã hội
trong thời đại của mình”, nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trị tiến
bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội biểu hiện càng rõ
rệt.
Như vậy, vấn đề đầu tiên được Lênin đề cập đến trong tác phẩm, “Nhà
nước và cách mạng” là vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Đây là
vấn đề phức tạp nhất, đã, đang và sẽ ln cịn là đối tượng của cuộc đấu
tranh tư tưởng gay gắt nhất. Trên cơ sở phân tích sâu sắc các tác phẩm của
mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng chỉ có chỉ nghĩa C.Mác
mới đưa ra được câu trả lời khoa học và đúng đắn cho câu hỏi: Nhà nước là
gì, nó xuất hiện khi nào và trên cơ sở nào, tại sao trong các thời kỳ lịch sử
khác nhau nhà nước cách mạng các hình thức khác nhau và đóng vai trị
khác nhau?
Lênin khẳng định rằng nhà nước là một hiện tượng lịch sử, là công cụ
thống trị nằm trong tay các giai cấp bóc lột, nhà nước xuất hiện khi xã hội
phân hóa thành những giai cấp đối kháng.
Cùng với việc nêu rõ bản chất của nhà nước nói chung, nhà nước tư
sản noí riêng, đồng thời khẳng định những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản. Người vạch ra tính tất yếu của cách mạng XHCN. Người nhân xét
rằng dưới chủ nghĩa đế quốc, cơ sở xã hội của cách mạng được mở rộng.
Cách mạng bạo lực là con đường khách quan để thủ tiêu nhà nước tư sản,
“Khơng có cách mạng bạo lực thì khơng thể trhay thế nhà nước tư sản bằng
nhà nước vô sản được”. Sau khi lật đổ nền chun chính của giai cấp bóc

lột, cách mạng XHCN phải thiết lập nền chun chính vơ sản.”
V.I.Lênin tập trung phân tích bản chất và nhiệm vụ của chun chính
vơ sản, vai trị tổ chức cực kỳ to lớn của nó trong việc xây dựng xã hội mới
sau thắng lợi của cách mạng XHCN. Khẳng định luận điểm của chủ nghĩa
Mác về nhà nước vô sản. Người nhấn mạnh: “Nhà nước, tức là giai cấp vô
23


sản được tổ chức thành giai cấp thống trị”, bản chất của nhà nước vơ sản
thể hiện rằng nó khơng cịn là nhà nước theo ngun nghĩa của nó nữa mà
là nửa nhà nước-chế độ dân chủ “từ chỗ là dân chủ tư sản biếm thành dân
chủ vô sản,từ chỗ là nhà nước(...) nó biến thành một cái gì thực ra không
phải là nhà nước hiểu theo nghĩa thật sự nữa”.
Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính chất dân chủ của nhà nước vơ sản, sự
khác biệt của nó với nền dân chủ tư sản. Người chỉ ra rằng chuyên chính vô
sản là một nhà nước kiểu mới, “Nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối
với những người vô sản và nối chung những người khơng có của), và
chun chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”. Nhà nước vô sản bảo vệ
quyền lợi của những người lao động, sự khác biệt cơ bản của chun chính
vơ sản với nhà nước tư sản biểu hiện ở các hình thức tổ chức nhà nước và ở
vai trị lịch sử mà nó thực hiện. Lênin khẳng định trong nền chun chính
vơ sản phải đảm bảo quyền lực thống nhất trong tay giai cấp vơ sản,thực
hiện”sự thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản, chun chính của giai cấp
đó, tức là một chính quyền khơng bị chia sẻ với ai hết, và trực tiếp dựa vào
lực lượng vũ trang của quần chúng”...
Những tư tưởng, lý luận của Lênin về nhà nước và cách mạng trong
tác phẩm đã trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại thành công, thiết lập nhà nước công- nông đầu tiên trên thế giới,
mở đầu cho kỷ nguyên của CNXH hiện thực, hình thành hàng loạt nhà
nước XHCN sau đó.

III. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin đối với việc xây
dựng nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thấm nhuần
sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa MácLênin về nhà nước và nhà nước chun chính vơ sản vào những điều kiện
cụ thể của cách mạng Việt Nam, kể cả trong những giai đoạn “giông tố và
24


cách mạng” cũng như trong những giai đoạn “yên tĩnh” và ổn định. “Từ khi
giành chính quyền trong hơn nửa thế kỷ qua, ở mọi giai đoạn phát triển của
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn coi trọng việc xây dựng, tăng
cường, kiện toàn nhà nước là một nhiệm vụ hàng đầu làm cho nhà nước ta
thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, là một cơng cụ chủ yếu, vững
mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.” cụ thể:
Đảng đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nhà nước và cách mạng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trong cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng dân tộc, cũng như trong cách
mạng XHCN, đặc biệt trong quá trình đổi mới hiện nay.Văn kiện đại hội X
của Đảng khẳng định, để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã XHCN, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân
dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phát huy dân chủ, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN.
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp
quyền nói chung; quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và nhận thức của Đảng Cộng sản Việt nam nói riêng về nhà nước
pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam có 5 đặc
trưng chủ yếu sau:
Một, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,do

dân, vì dân.
Hai, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,quyền lực
nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng rành mạch,phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước là trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Ba, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và
25


×