Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

DCSVN lanh dao giu vung dinh huong xa hoi cn trong cong cuoc doi moi doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.3 KB, 9 trang )

XÊMINA
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giữ vững định hướng XHCN trong công cuộc đổi mới.
Đối với Việt Nam, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên Đảng ta đã xác định: Tiến hành tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, “chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn. Đây cũng chính là sự đinh hướng chính trị đối với q trình đổi mới đất nước sau
này. Thực tiễn hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đây là cơ sở, là điều kiện để đất nước tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản nhưng cũng
khơng ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là các nguy cơ mà Đại hội VII của Đảng đã xác định,
trong các nguy cơ ấy có nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Do vậy, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới là một tất yếu khách quan, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn của cách mạng Việt Nam. Đây cũng chính là ngun tắc cơ bản, quan trọng hàng đầu,
có tính bản chất của mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sở dĩ
khẳng định như vậy vì những lý do sau đây:
1. Cơ sở lý luận
Một là, xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội
Học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, lồi người với tính cách một chỉnh thể nhất
thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Theo quy luật phát
triển của lịch sử thì CNTB khơng thể khơng bị thay thế bằng CNCS, đó là xu thế khách quan.
CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng
một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH. Đây là một
tiến trình khách quan, tất yếu của lịch sử lồi người, chứ khơng phải là ý muốn chủ quan của
một cá nhân hay một tổ chức nào. Điều đó có nghĩa, đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là tất
yếu khách quan, phù hợp với xu thế thời đại và đó cũng chính là mục tiêu, lý tưởng và là con
đường duy nhất đúng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Tuy nhiên, theo học thuyết Mác - Lê nin, giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ và hình thái


kinh tế - xã hội mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ. Lịch sử phát triển của
xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Song,
khơng phải hình thái kinh tế - xã hội này kết thúc hồn tồn rồi hình thái kinh tế - xã hội tiếp
sau mới ra đời. Giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ bị thay thế và hình thái kinh tế - xã hội mới sẽ
thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một thời kỳ quá độ. Xây dựng xã hội
cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về
chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài,
đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Do đặc điểm lịch sử - cụ
thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài
và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế
- xã hội từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một
hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã
và đang diễn ra trong lịch sử.
Hai là, xuất phát từ quy luật tồn tại và phát triển của cách mạng Việt Nam
Từ giữa thế kỷ 19, lợi dụng sự thối nát của chế độ phong kiến, thực dân Pháp đã tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược và sau ba thập kỷ, chúng đã đặt được ách thống trị của chúng
1


trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nước ta từ một nước xã hội phong kiến trở thành thuộc địa nửa
phong kiến, bởi đặc trưng cơ bản là sự cấu kết giữa CNĐQ với giai cấp phong kiến và tư bản
phản động, sự áp bức dân tộc gắn liền với áp bức giai cấp. Đó là những điều kiện lịch sử khách
quan để sau đó Đảng ta có đường lối cách mạng, trong đó gắn giải phóng dân tộc với giải
phóng xã hội giải phóng với giải phóng con người. Đó cũng là mục tiêu, nhiệm vụ chung của
cách mạng Việt Nam. Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến khơng cịn phù
hợp, khơng đáp ứng được u cầu mới đó. Điều này giải thích vì sao suốt sáu thập kỳ trước khi
Đảng ta ra đời, nhân dân ta từ Nam ra Bắc liên tiếp đứng lên chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ
của một số quan lại triều đình Huế, sau đó là dưới ngọn cờ Cần vương và các sĩ phu yêu nước
nhưng đều thất bại.
Sau 10 năm bơn ba tìm đường cứu nước (1911-1920) Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng: Ở

đâu nhân dân các nước thuộc địa cũng đều sống trong những tình cảnh tồi tệ nhất về mọi mặt.
Người đi đến kết luận: nhân dân các nước thuộc địa phải được giải phóng mới cứu được nhân
loại và nhân loại mới phát triển được. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin, chủ
nghĩa cộng sản; từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, Nguyễn Ái
Quốc đã lựa chọn dứt khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là con đường của cách mạng Tháng Mười
Nga, Người viết: "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng các dân
tộc bị áp bức". "Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được các dân tộc; cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp chung của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế
giới". Sự lựa chọn mục tiêu con đường phát triển cho đất nước của Nguyễn Ái Quốc, tiếp theo
là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận Mác - Lênin, lý luận về chủ nghĩa xã hội trong
hoạt động thực tiễn phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam - chủ nghĩa xã hội đã được đặt trên
mảnh đất hiện thực Việt Nam, đã được thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh là một sự lựa
chọn đúng đắn.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tuy mới 15 tuổi,
Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Không những thế, dưới sự lãnh đạo tài tình và
sáng suốt của Đảng, tồn dân, tồn qn đã đồn kết một lịng đập tan âm mưu xâm lược của thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả. Trong công cuộc đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử,
khơng chỉ nhân dân trong nước mà còn được nhân dân thế giới thừa nhận, nổi bật là: sự ổn định về
chính trị, sự phát triển của kinh tế, đời sống của nhân dân được cải thiện, quyền làm chủ của nhân
dân trên mọi lĩnh vực được tôn trọng và phát huy ngày càng rộng rãi; quan hệ đối ngoại càng mở
rộng đã đưa đất nước ta hoà nhập vào trào lưu tiến bộ của nhân loại.
Tất cả những thắng lợi đó đều bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng ta: kiên trì
mục tiêu và con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính sự định
hướng đúng đắn cho đất nước với mục tiêu nhất quán "độc lập dân tộc gắn với CNXH" đã trở
thành ý chí và hành động của toàn dân tộc, trở thành động lực của tồn bộ q trình phát triển
của cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn vững vàng trước những bước ngoặt của Đảng đã tổng
kết: Khơng có gì nguy hại hơn là dao động và sai lầm trên những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ

bản. Nguyên tắc cơ bản và chung nhất của sự phát triển của nước ta là nhất quán về con đường
và mục tiêu XHCN.
Ba là, từ tính chất, quy mơ của cơng cuộc đổi mới ở nước ta
Sau thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Đảng ta chủ trương thực hiện thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng do nhiều
nguyên nhân, mà chủ yếu là những sai lầm trong quá trình lãnh đạo của Đảng, chỉ sau 3 năm
2


(1976-1979) những dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội xuất hiện. Toàn Đảng,
toàn dân đã cố gắng tìm cách khắc phục nhưng khơng có hiệu quả. Đến cuối năm 1985 cuộc
khủng hoảng ấy đã trở nên trầm trọng. Con đường duy nhất để thoát khỏi khủng hoảng là đổi
mới. Đổi mới là một đòi hỏi khách quan và bức thiết. Do đó, sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự nhất trí cao trong tồn xã hội.
2. Cơ sở thực tiễn
Một là, quá trình đổi mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá về thành tựu 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội X, 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, 20 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước nêu rõ: “Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, kinh tế vĩ mơ cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; Giáo dục và đào tạo, khoa học
và cơng nghệ, văn hố và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài ngun, mơi trường được
chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; Quốc phòng, an ninh, đối ngoại
được tăng cường: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa,
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phịng tồn dân và thế
trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là
trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp.; Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc được củng cố; Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên; Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, Đại hội xác định những hạn chế, khuyết điểm đó là:
“ Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương
xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế
hoạch; Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hố, xã hội, mơi trường
cịn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội; Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại
còn một số mặt hạn chế; Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy
đầy đủ; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế và quản lý đất nước; Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc
phục”.
Trong khi đó, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đặt ra nhiều thời cơ
nhưng cũng khơng ít thách thích đối với q trình đổi mới. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác
định:
Trên thế giới: Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc
tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay
gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm cơng nghệ cao trong các lĩnh vực tài
chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế
tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Tồn cầu hố và
cách mạng khoa học - cơng nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội
thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng
nhưng vẫn cịn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ
cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh
kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có
nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng
lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày
càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương
3



thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân
chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức
tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á, vẫn sẽ là khu
vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ,
biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.
ASEAN tuy cịn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu
vực.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới (1986 - 2015) đã tạo
ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai
đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều
hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng
hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hố” có những diễn biến phức tạp.
Đứng trước những thời cơ, thách thức nêu trên, Đại hội XI xác định: “Để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi
mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài
hồ các vấn đề xã hội, mơi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết

toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ
lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hố, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Hai là, sự chống phá của các thế lực thù địch
Kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội ở
phương Tây, mà đứng đầu là đế quốc Mỹ, đã tiến hành một chiến lược mới tấn công chủ nghĩa
xã hội theo kiểu chiến tranh khơng cần tiếng súng; đó là chiến lược “Diễn biến hịa bình” và
bạo loạn lật đổ. Đây là một chiến lược chống phá chủ nghĩa xã hội nói chung, và cách mạng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, rất thâm độc; nó diễn ra từng ngày, từng giờ, ở mọi nơi, trên
mọi mặt và mọi địa bàn của chủ nghĩa xã hội, từ các cơ quan lãnh đạo Trung ương cho
đến chính quyền cơ sở và len lỏi vào mọi gia đình với phương châm : “Mềm, Ngầm. Sâu”.
4


Đặc trưng của chiến lược là: Một là, Sử dụng các biện pháp phi vũ trang để chống phá
các nước XHCN và phong trào độc lập dân tộc. Đây là cuộc chiến tranh khơng có mùi thuốc
súng nhưng cực kì thâm độc ; Hai là, Thông qua các “công cụ mềm” phi quân sự là chủ yếu,
như ngoại giao, kinh tế, văn hóa rồi đến chính trị, để làm sụp đổ các nước XHCN; tuy nhiên,
chủ nghĩa đế quốc không quên sử dụng sức mạnh quân sự để răn đe khi cần thiết để làm hậu
thuẫn cho các thủ đoạn trên; Ba là, DBHB chủ yếu dùng lực lượng con người và phương tiện
của đối phương đánh phá từ bên trong nội bộ đối phương với sự hỗ trợ từ bên ngoài, làm cho
đối phương mơ hồ mất cánh giác, ngộ nhận về bản chất phản động cuả chủ nghĩa đế quốc, làm
cho đối phương tự diễn biến, biến đổi, suy yếu, sụp đổ nhanh chóng; Bốn là, khơng phá hoại,
hủy diệt của cải vật chất một cách rầm rộ; Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch thực hiện ý đồ

chiến lược một cách khôn khéo, che đậy bằng nhiều thủ đoạn lắt léo, tinh vi, xảo quyệt, mua
chuộc vật chất, núp dưới danh nghĩa viện trợ nhân đạo từ thiện; địi mở rộng dân chủ, tự do
khơng giới hạn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, xâm nhập, thao túng, khống chế về kinh tế để
làm mục ruỗng nội bộ, sụp đổ chế độ XHCN; với nhịp điệu phát triển “ thẩm thấu hịa bình”, từ
từ, ít khốc liệt, rầm rộ như chiến tranh vũ lực nhưng hiệu quả lớn hơn chiến tranh vũ lực; Năm
là, chiến lược DBHB mang tính tồn cầu, khơng giới hạn về thời gian và khơng gian; là chiến
lược phá hoại tồn diện đối với CNXH và thế giới tiến bộ trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa,
xã hội qn sự, ngoại giao…
Mục tiêu chiến lược của địch là thúc đẩy dân chủ hóa về chính trị, tự do hóa về kinh tế,
nhằm chuyển hóa Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Phương thức tiến hành là tập
trung thực hiện âm mưu thủ đoạn “DBHB”, kết hợp với bạo loạn chính trị. Biện pháp chiến
lược là: tổng hợp, tồn diện trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, KT-XH, khoa học- kỹ thuật,
ngoại giao, gián điệp - tình báo... nhưng then chốt là đẩy mạnh đấu tranh trên hình thái tư tưởng
văn hóa, dựng ngọn cờ “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền”, tiến hành thâm nhập chính trị, tư
tưởng, đề cao quan niệm giá trị phương Tây, thực hiện đa nguyên quan điểm và đa nguyên
chính trị. Dùng thủ đoạn kinh tế, thúc đẩy tư nhân hóa, thực hiện nền kinh tế thị trường theo cơ
chế kinh tế thị trường của các tổ chức phi chính phủ và thị trường phương Tây, tạo điều kiện
cho cải cách “dân chủ hóa”.
Trong khi đó, Việt Nam là một nước có vị trí địa chiến lược rất quan trọng, cả về kinh
tế, chính trị, quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Ngày nay, các thế lực thù địch hiếu chiến vẫn
ln tìm cách lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá
cách mạng nước ta. Trong chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của chúng, vấn đề
dân tộc, tôn giáo được coi là “ngòi nổ”, là lĩnh vực nhạy cảm nhất và đây cũng là một trong
những trọng điểm tiến công của địch nhằm tạo ra vùng tự trị, vùng ly khai gây mất ổn định
chính trị, tư tưởng-văn hố và kinh tế, xã hội (KT-XH), để viện cớ bảo vệ “dân chủ”, “nhân
đạo”, “nhân quyền” tiến tới dùng sức mạnh quân sự răn đe, buộc ta phải theo đường lối chính
trị, kinh tế của chúng.
Đáng tiếc, thời gian qua, trong nội bộ ta, vẫn có những người chủ quan, mất cảnh giác,
thậm chí mất cảnh giác nghiêm trọng trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” của thế lực
thù địch, phản động; có người cịn khơng tỉnh táo, bị mắc mưu, phụ họa, cổ súy cho những luận

điệu của địch, đòi đa ngun, đa đảng, xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng; đòi tam quyền phân
lập, xây dựng “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây; địi “phi chính trị hóa lực lượng vũ
trang”; địi “chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ tồn trị sang dân chủ một cách ơn
hịa”... Rõ ràng, đó là những biểu hiện của sự giảm sút ý chí cách mạng, mất cảnh giác, khơng
nhận rõ tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới, không
phân biệt rõ đâu là địch, đâu là ta, mơ hồ về tư tưởng chính trị.
Lịch sử đã chứng tỏ quy luật vận động và phát triển của nước ta là dựng nước đi đôi với
giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong
5


giai quá trình đổi mới hiện nay, quy luật này vẫn giữ nguyên giá trị thời sự. Chúng ta không
cường điệu, đánh giá quá cao kẻ địch, nhưng thực tế đã dạy chúng ta rằng, trong đấu tranh,
tuyệt nhiên không bao giờ được lơi lỏng mất cảnh giác. Vì vậy, trong quá trình đổi mới phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tình ngun tắc, vấn
đề cơ bản, quan trọng hàng đầu. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nâng cao cảnh
giác, nhận thức đúng và đầy đủ tính chất gay gắt và phức tạp của cuộc đấu tranh chống “diễn
biến hịa bình”; âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá cách mạng của các thế
lực thù địch, phản động; kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi gây phương hại
đến sự ổn định, vững mạnh và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Ba là, xuất phát từ thực tiễn đổi mới ở các nước và Việt Nam
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước. Đổi mới ở
Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn lao, hầu như tất cả các nước đều
có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những kinh nghiệm cải cách của các nước cũng là sự gợi
mở cho Việt Nam trong sự nghiệp tìm tịi con đường đổi mới. Vì vậy, những quan điểm đổi mới
của Việt Nam được hình thành khơng chỉ đúc kết kinh nghiệm của nước mình mà cịn từ những
kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa khác. Điểm nổi
bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề,
làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới, phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự

ổn định mới vững chắc hơn. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục được nạn
lạm phát; khắc phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục,
đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên
thế giới. Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục
tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc thực
hiện chính sách cơng bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.
Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác định đổi mới
kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những
yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của
nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành
nhiều thắng lợi.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với mục
tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy đại đồn kết tồn dân,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng
với giáo dục - đào tạo được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa
học - cơng nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua,
khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và
phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính
sách bao vây cấm vận, cơ lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế,
khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi mới tư duy mà Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra rất khái quát, nhưng
6



hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới
được triển khai và đi vào chiều sâu thì đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất cứ một sự ngưng
trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng trệ sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra những
yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.
Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chuyển từ mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung chỉ có hai thành phần kinh
tế (nhà nước và tập thể) sang mơ hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể,
cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngồi), trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu,
đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất.
Thứ hai, từ mơ hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang
mơ hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương thức quản
lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện
dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với
tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới,
thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt
Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.
* Yêu cầu quá trình giữ vững định hướng trong quá trình đổi mới ở VN
Giữ vững định hướng XHCN đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng

là độc lập dân tộc gắn chặt với CNXH, quán triệt sâu sắc và kiên quyết thực hiện thắng lợi
đường lối Đại hội XI của Đảng đó là: phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh. Giữ vững định hướng
XHCN, yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải quán triệt sâu sắc 8 đặc trưng của CNXH mà nhân
dân ta xây dựng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức để từng bước hiện thực hóa thắng lợi. Giữ vững định
hướng XHCN địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên nắm vững và kiên quyết thực hiện thắng lợi 7
phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
đã xác định đó là:
Một là, xây dựng nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương
xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và
cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế sản xuất
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
7


quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới
quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ văn minh vì lợi ích chân chính và

phẩm giá con người với trình độ trí thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư
tưởng văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị
cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH.
Năm là, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính
sách đối ngoại hồ bình hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết với các nước XHCN, với tất cả các lực lượng đầu
tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng XNXH và bảo vệ Tổ quốc là 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước nhân dân ta luôn luôn nâng cao
cảnh giác củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc
và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở
nước ta. Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp, là khát vọng mãnh liệt của cả dân tộc. Giữ vững
định hướng XHCN là trọng trách vẻ vang của mỗi cán bộ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt
Nam quang vinh.
II. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM

1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam- điều kiện quyết định trước
tiên trong định hướng xã hội chủ nghĩa
Đây là điều kiện đầu tiên, quyết định sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Khơng thể có sự
định hướng xã hội chủ nghĩa nếu khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Đảng Cộng sản
khơng thể giữ vai trị lãnh đạo, nếu không giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong đường
lối chính trị của mình.
2. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cốt lõi là xây dựng Nhà nước - pháp
quyền - điều kiện trực tiếp thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà cốt lõi là xây dựng Nhà nước - pháp
quyền thật sự của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng

dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để mở rộng khối
đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở rộng dân chủ với nhân dân là nhân tố trực
tiếp quyết định cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội trong khn khổ Hiến pháp
và pháp luật với mục tiêu"Mọi quyền lực đều bắt nguồn từ nhân dân và do đó thật sự thuộc về
nhân dân". Nhân dân lao động làm chủ vừa là bản chất, nội dung cơ bản nhất của định hướng
xã hội chủ nghĩa, vừa là điều kiện chủ yếu có ý nghĩa quyết định trực tiếp cho sự định hướng
ấy.
3. Phát triển kinh tế, đồng thời xây dựng những quan hệ xã hội lành mạnh, là điều
kiện cơ bản đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển lực lượng sản xuất theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng kinh
tế quốc doanh thành lực lượng chủ đạo cùng với kinh tế tập thể hợp thành nền tảng, trong nền
8


kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường; tăng cường sự quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế ấy nhằm đảm bảo sự kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội; tăng
trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội là điều kiện cơ bản nhất quyết định thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm hiện thực
hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong điều kiện trên thế
giới hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp
mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Tồn cầu hố và cách mạng khoa học - cơng nghệ phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Cạnh tranh về
kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ,
nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề
toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong khi đó, khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển
năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày

càng gay gắt.
Ở trong nước, những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới (1986 - 2015) đã tạo
ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước tạo tiền đề cho công
cuộc đổi mới. Song, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.
Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ
nhằm chống phá cách mạng nước ta. Đây là những nguy cơ vẫn cịn ngun tính thời sự, khơng
phải mới nhưng chưa bao giờ cũ. Vì vậy, quá trình đổi mới phải giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa là một vấn đề cơ bản, có tính ngun tắc, mang tính quyết định đến việc thành bại
của sự nghiệp cách mạng. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính
trị và mỗi cơng dân. Chỉ có như vậy, cách mạng Việt Nam mới đi đến đích cuối cùng là xã hội
cộng sản chủ nghĩa – con đường duy nhất đúng và phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay./.

9



×