Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.63 KB, 20 trang )

Mở đầu
Tăng trởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn cơ bản của kinh tế vĩ mô
lạm phát và tăng trởng kinh tế có một quan hệ chế ớc lẫn nhau và lạm phát chỉ
có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trởng kinh tế. Có thể nói,
trong rất nhiều các nhân tố ảnh hởng tới tăng trởng kinh tế thì lạm phát giữ một
vai trò rất to lớn. Tuy nhiên, không phải trong mọi trờng hợp và ở mọi giai đoạn
phát triển kinh tế, các lý thuyết về lạm phát và tăng trởng kinh tế đều đúng tuyệt
đối. Lạm phát trong trờng hợp cụ thể sẽ có ảnh hởng ở những mức độ và khía
cạnh khác nhau. Do vậy, việc xem xét sự ảnh hởng của lạm phát trong điều kiện
cụ thể của quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đợc đặt ra bức xúc, từ đó có
những biện pháp kịp thời kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trởng kinh tế của
Việt Nam trong những chặng đờng tiếp theo.
Từ những lý do trên, nhận thấy tầm quan trọng và cấp bách của vấn đề
trong khuôn khổ của tiểu luận môn học, tôi muốn đi sâu, tìm hiểu một khía cạnh
trong vấn đề lạm phát ở Việt Nam với đề tài:ảnh hởng của lạm phát đối với
tăng trởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Một số giải
pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trởng trong thời gian sắp tới.
1
Phần 1: nhận thức chung về lạm phát và
ảnh hởng của lạm phát đối với tăng trởng kinh tế.
1- Nhận thức chung về lạm phát và các quan điểm về lạm phát:
Lạm phát là một phạm trù kinh tế vốn có của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ,
là căn bệnh nảy sinh khi yêu cầu của quản lý lu thông tiền tệ không đợc tôn trọng.
Lạm phát là trong lĩnh vực lu thông tràn ngập khối lợng tiền thừa,làm cho
tiền tệ ngày càng bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, vàng, ngoại tệ và
đợc đo lờng bằng chỉ số giá cả tổng quát ngày càng tăng.
Căn cứ vào cờng độ của lạm phát, lạm phát đợc chia làm 3 mức độ:
- Lạm phát vừa phải: là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dới 10% một
năm. lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền
kinh tế.
- Lạm phát phi mã: Xảy ra khi giá cả tăng tơng đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3


con số trong 1 năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vợt xa
lạm phát phi mã. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là siêu lạm phát điển hình trong
lịch sử lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần. Siêu lạm phát gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc.
Lạm phát là vấn đề không xa lạ đối với một nền kinh tế hàng hoá và hầu hết
mọi ngời đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ
khác nhau. Nhng hiểu chính xác lạm phát là gì không phải dễ, ngay cả các nhà
kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát.
a- Trờng phái của Karl Marx:
Theo Marx, lạm phát là do ý chỉ chủ quan của Nhà nớc. Nhà nớc chủ động
tạo ra lạm phát là nhằm hai mục đích : bù đắp bội chi ngân sách và đảm bảo lợi ích
cho Nhà nớc. Cơ sở để Marx coi lạm phát là hành động chủ quan của Nhà nớc xuất
phát từ 2 lý do: Thứ nhất Marx khẳng định lạm phát là bạn đờng của chủ nghĩa t
bản. Dới chủ nghĩa xã hội không có lạm phát hoặc chỉ có lạm phát lành mạnh mà
thôi. Thứ 2, bản chất của chủ nghĩa t bản là bóc lột, giai cấp t sản là ngời nắm chính
quyền. Chính giai cấp này đã bóc lột nhân dân lao động lần thứ nhất bằng sản xuất
giá trị thặng d và lần thứ hai bằng lạm phát.
b- Trờng phái kinh tế học thị trờng :
Milton Friedman cho rằng lạm phát là một hiện tợng xã hội của tất cả các n-
ớc có sử dụng tiền tệ hiện đại nào. Ông đã đa ra một câu nói nổi tiếng Lạm phát
bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tợng tiền tệ. Friedman ớc định rằng nguồn
gốc của mọi lạm phát là một tỷ lệ tăng trởng cao của cung tiền tệ đơn giản bằng
cách giảm tỉ lệ tăng trởng cung tiền tệ đến mức thấp nhất thì có thể ngăn chặn đợc
lạm phát. Trong thực tế có những giai đoạn lịch sử mà một tỷ lệ lạm phát cao cho
một thời kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức của tăng trởng ví dụ điển hình nhất là
siêu lạm phát của Đức trong những năm qua 1921-1923 với tỷ lệ lạm phát trong
năm 1923 vợt quá 1.000.000%. Gần đây đó là lạm phát ở Mỹ La Tinh từ 1980 đến
2

1990 trong đó Argentina có tỷ lệ tăng trởng tiền tệ cao nhất và tỷ lệ lạm phát bình
quân cao nhất trên 10.000%. Việc tỷ lệ lạm phát cao trong mọi trờng hợp trong đó
tỷ lệ tăng trởng tiền cao có thể đợc coi là một sự kiện ngoại sinh là một chứng cứ
vững chắc rằng tăng trởng tiền tệ cao gây nên lạm phát cao. Tuy nhiên ý kiến của
Friedman thực tế cho rằng những biến động tăng lên trong mức giá cả là một hiện
tợng tiền tệ chỉ khi nào những biến động tăng lên đó từ một quá trình kéo dài với
định nghĩa lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài thì đa số các nhà kinh tế
phái tiền tệ hay phái Keynes đều đồng ý với ý kiến của Friedman.
c. Phái tiền tệ.
Phái tiền tệ tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài không thể là do bất kỳ
nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên.Trong cách phân tích
của phái tiền tệ, cung tiền tệ đợc coi là nguyên nhân duy nhất làm dịch chuyển đ-
ờng tổng cầu, cũng chính là nguyên nhân làm nền kinh tế chuyển dịch.
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên, giá cả tại
P1. Nếu cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm thì đờng tổng cầu
di chuyển sang phải đến AD2. Trớc tiên trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế
có thể chuyển động đến điểm 1, sản phẩm có thể tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên
Y. Nhng kết quả giảm thất nghiệp xuống dới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm lợng tăng
lên, đờng tổng cung nhanh chóng di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển khi nào đạt
đến AS2. Tại đó nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản phẩm trên đờng
tổng cung dài hạn. Tại điểm thăng bằng nối (điểm 2), mức gia tăng từ P1 lên P2.
Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đờng tổng cầu sẽ lại di chuyển sang
phải đến AD3, đờng tổng cung di chuyển vào từ AS2 đến AS3, nền kinh tế sẽ
chuyển động sang điểm 2 sau đó sang 3, mức gia tăng lên P3. Cứ nh vậy nếu
cung tiền tệ tiếp tục tăng thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến những mức
giá càng cao hơn nữa. Khi cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm
phát sẽ xảy ra.
Nh vậy cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh là do sự
tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
d. Quan điểm của phái Keynes:

3
P1
P2
P3
P4
1
2
3
4
Tổng sản phẩm YYn
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4 AS3 AS2 AS1
Y
1
2
3
Tổng mức
giá cả P
Giống nh kết luận của phái tiền tệ, phái Keynes cho rằng việc tăng nhanh
cung tiền tệ sẽ làm mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao do vậy gây nên lạm phát.
Cách phân tích của phái Keynes chỉ ra rằng cung tiền tệ kéo dài sẽ có ảnh hởng
nh nhau đối với đờng tổng cầu và tổng cung. Phái Keynes cũng không cho rằng có
nhân tố nào khác ngoài tiền tệ có thể gây nên lạm phát mặc dù Keynes cho phép
những nhân tố khác ngoài những thay đổi trong cung tiền tệ ảnh hởng đến đờng
tổng cầu và tổng cung nh chính sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ.
Trong cách phân tích của Keynes, chính sách tài chính tự nó không thể gây
nên lạm phát.
ảnh hởng của việc tăng thờng xuyên từng đợt trong chi tiêu của chính phủ
đối với tổng sản phẩm và mức giá cả: Lúc đầu ở điểm 1, tại đó sản phẩm ở mức tỷ
lệ tự nhiên và mức giá cả P1. Đờng tổng cầu di chuyển đến AD2 khi tăng lên trong

chi tiêu của chính phủ làm chuyển đến điểm 1. Tại đó sản phẩm ở trên mức tỷ lệ
tự nhiên tại Y1. Đờng tổng cung di chuyển vào đến A2. ở đó sản phẩm lại ở mức
tỷ lệ tự nhiên và mức giá cả tăng lên P2. Kết quả ròng của việc tăng thờng xuyên
trong chỉ tiêu chính phủ là việc tăng thờng xuyên từng đợt của mức giá cả. Tuy
nhiên với tỷ lệ lạm phát, khi ta chuyển từ điểm 1 đến 1 rồi đến 2, mức giá cả tăng
và ta có tỷ lệ lạm phát dơng. Nhng khi tới điểm 2 thì tỷ lệ lạm phát lại quay về số
0. Nh vậy việc tăng từng đợt trong chi tiêu của chính phủ chỉ đa đến sự tăng tạm
thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là mức lạm phát mà trong đó mức giá cả
tăng kéo dài. Tuy nhiên nếu chi tiêu của chính phủ tăng kéo dài thì có thể có mức
giá cả tăng kéo dài. Nó thể hiện rằng cách phân tích của phái Keynes có thể bác
bỏ ý kiến của Fridman rằng lạm phát lúc nào cũng là một hiện tợng tiền tệ. Nhng
vấn đề là ở chỗ việc chi tiêu của chính phủ tăng lên kéo dài không phải là một
chính sách có thể thực hiện đợc bởi có một giới hạn đối với tổng số tiền chính phủ
có thể chi. Chính phủ không thể chi hơn 100% GDP.
Mặt khác của chính sách tài chính: đó là thuế. Việc kéo dài cắt giảm thuế
cũng không thể đa đến lạm phát. Tơng tự nh trên sẽ có một sự tăng duy nhất một
lần trong mức giá cả nhng sự tăng lên trong tỷ lệ lạm phát sẽ chỉ là tạm thời. Ta có
4
Yn
AD2
AS1
AS2
Y1 Tổng s.p Y
Tổng
mức giá
cả P
P1
P2
1
2 1

thể tăng mức giá cả bằng cách cắt giảm thuế hơn nữa, nhng quá trình này phải
dừng lại khi thuế ở mức số không, khi đó không thể giảm thuế đợc nữa.
Hiện tợng về phía cung tự nó cũng không thể gây ra lạm phát.
Giả sử có một cú sốc tiêu cực của cung nh cấm vận dầu mỏ làm tăng giá
dầu hay công nhân đòi tăng lơng thắng lợi làm đờng tổng cung di chuyển vào từ
AS1 đến AS2. Nếu cung tiền tệ không thay đổi để cho đờng tổng cầu ở tại AD1 thì
nền kinh tế ở tại điểm 1 tại đó sản phẩm ở dới mức tỷ lệ tự nhiên Y1 và mức giá
cả là cao hơn P2. Đờng tổng cung sẽ di chuyển trở lại AS1 bởi thất nghiệp là trên
tỷ lệ tự nhiên, nên kinh tế chuyển từ điểm 1 xuống điểm 1. Kết quả của cú sốc
cung là quay trở lại tình trạng công ăn việc làm đầy đủ ở mức giá cả ban đầu và
không xảy ra lạm phát mặc dù có thể có mức giá cả tạm thời tăng.
Nh vậy việc phân tích tổng cung và tổng cầu cho thấy các quan điểm của
phái Keynes và phái tiền tệ về quá trình lạm phát không khác nhau lắm. Thừa
nhận lạm phát là một sự tăng kéo dài của mức giá cả với tỷ lệ nhanh, đại đa số các
nhà kinh tế đều đồng ý với Milton Friedman rằng lạm phát bao giờ và ở đâu cũng
là một hiện tợng tiền tệ.
2. Các nguyên nhân của lạm phát:
a. Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lợng
đã đạt hoặc vợt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo ngời ta thờng nhận
thấy lợng tiền không lu thông và khối lợng tín dụng tăng đáng kể và vợt quá khả
năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi
tiêu quá nhiều tiền để mua một lợng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất đợc
trong điều kiện thị trờng lao động đã đạt cân bằng.
Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao.
Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung
đột trên thị trờng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dới tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trởng tiền tệ cao
hơn và lạm phát phát sinh.

5
Yn
AS1
AS2
Y1 Tổng s.p Y
Tổng
mức giá
cả P
P1
P2
1
1
Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử 4%)
thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt đợc một chỉ tiêu sản
phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1. Giả sử ban đầu ở điểm
1, nền kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm nhng dới mức chỉ tiêu sản phẩm
Y1. Để đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các
chinh sách để tăng tổng cầu làm đờng tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế
chuyển đến điểm 1, sản phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1
tỷ lệ 4% thất nghiệp là dới mức tỷ lệ tự nhiên nên lơng sẽ tăng lên và đờng tổng
cung di chuyển vào đến AS2, đa nền kinh tế từ điểm 1 sang điểm 2. Nền kinh tế
lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp
lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đờng tổng
cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục
đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm
phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể tiếp tục di chuyển đờng tổng cầu
thông qua chính sách tài chính do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ
và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trớng, do đó gây nên
tỷ lệ tăng trởng tiền tệ cao.
Nh vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tơng đơng là một tỷ lệ

thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát.
b. Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lợng cha đạt mức tiềm năng nhng vẫn có thể xảy ra lạm
phất ở nhiều nớc, kể cả ở những nớc phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm
phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy
giảm sản lợng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là lạm phát đình trệ.
Các cơn sốc giá cả của thị trờng đầu vào, đặc biệt là các vật t cơ bản: xăng,
dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đờng AS dịch chuyển lên
trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhng giá cả lại tăng lên và sản lợng giảm
xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật t) tăng đột biến thờng do các nguyên nhân
nh thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động
nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung
tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lơng cao hơn gây nên.
6
P1
P2
P3
P4
1
2
3
4
Tổng sản phẩm YYn
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4
AS3
AS2
AS1
Y

1
2
3
Tổng mức
giá cả
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lơng do họ
muốn tăng lơng thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lơng
để khớp với mức lạm phát. ảnh hởng của việc tăng đó tơng tự nh một cú sốc cung
tiêu cực làm đờng tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính,
tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1 sản phẩm sẽ giảm xuống
dới mức tỷ lệ tự nhiên trong khi giá cả tăng lên. Khi đó do sản phẩm giảm, thất
nghiệp tăng, các nhà hoạch định chính sách sẽ thức hiện chính sách nhằm tăng đ-
ờng tổng cầu đến AD2, quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 và
mức giá cả P2. Nếu việc tăng lơng lại tiếp tục thì đờng tổng cung lại di chuyển vào
đến AS3, thất nghiệp lại phát triển khi chuyển đến điểm 2, các chính sách năng
động lại đợc sử dụng để di chuyển đờng tổng cầu đến AD3 và đa nền kinh tế trở
lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp
tục thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, nghĩa là gây lạm phát. Nếu
lạm phát cầu kéo đi liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp hơn mức tỷ lệ tự nhiên thì
lạm phát chi phí đấy lại lại đi liền với những thời kỳ mà thất nghiệp cao hơn mức
tỷ lệ tự nhiên. Khi lạm phát cầu kéo gây nên tỷ lệ lạm phát cao hơn thì lạm phát dự
tính cuối cùng sẽ tăng lên làm cho công nhân đòi tăng lơng, nên tiền lơng thực tế
của họ không giảm xuống. Vì vậy cuối cùng lạm phát cầu kéo có thể gây nên lạm
phát phí đẩy.
c. Lạm phát do thâm hụt Ngân sách:
Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng cách bán trái phiếu cho
công chúng hoặc tạo ra tiền tệ (hay in tiền). Bán trái phiếu cho công chúng không
có ảnh hởng trực tiếp đến cơ sở tiền tệ và do đó đến cung tiền tệ, vì vậy nó sẽ
không có ảnh hởng rõ ràng đến tổng cầu và sẽ không có lạm phát. Ngợc lại việc
tạo ra tiền tệ có ảnh hởng đến tổng cầu và có thể gây ra lạm phát. Thâm hụt ngân

sách đợc trang trải bằng in tiền sẽ gây ra lạm phát nếu ngân sách thâm hụt trong
một thời kỳ khá dài. Trong thời kỳ đầu nếu thiếu hụt đợc trang trải bằng tạo ra tiền
tệ thì cung tiền tệ sẽ tăng làm đờng tổng cầu dịch sang phải và mức giá cả tăng
lên. Nếu thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra trong thời kỳ sau, cung tiền tệ sẽ lại tăng
lên và đờng tổng cầu lại di chuyển sang phải làm mức giá cả tăng hơn nữa. Khi
7
P4
P3
P2
P1
1
2
3
4
1
2
3
AD1 AD2 AD3 AD4
AS4
AS3
AS2
AS1
Tổng sản phẩm Y
Y Yn
Tổng mức
giá cả
thâm hụt còn dai dẳng và chính phủ phải tin tiền để trang trải thâm hụt đó thì quá
trình này sẽ tiếp tục và đa đến lạm phát kéo dài.
Tuy nhiên nếu là thâm hụt tạm thời thì nó sẽ không gây nên lạm phát trong
thời kỳ thâm hụt xảy ra, tiền tệ sẽ tăng lên để trang trải thâm hụt. Việc di chuyển

ra của đờng cầu sẽ làm mức giá cả tăng lên trong thời kỳ sau không còn thâm hụt
thì không còn nhu cầu in tiền nữa. Đờng tổng cầu sẽ không di chuyển nữa, mức
giá cả sẽ không tiếp tục tăng. Nh vậy sự tăng lên một đợt trong cung tiền tệ do
thâm hụt tạm thời chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả và lạm phát
không mở rộng.
Mặc dù kết quả là lạm phát nhng chính phủ vẫn thờng xuyên trang trải thâm
hụt dai dẳng bằng tạo thêm tiền. Nếu các nớc đang phát triển bị thâm hụt ngân
sách, họ không thể trang trải bằng phát hành trái khoán do không có một thị trờng
vốn phát triển nên phải dùng đến cách in tiền. Kết quả là khi bị thâm hụt nghiêm
trọng so với GNP của họ thì cung tiền tệ tăng trởng với tỷ lệ cao và gây nên lạm
phát. Ngợc lại ở những nớc phát triển đặc biệt là Mỹ do có thị trờng chứng khoán
nhà nớc phát triển tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt.
3. ảnh hởng của lạm phát đối với tăng trởng kinh tế.
Giữa tăng trởng kinh tế và lam phát thờng tồn tại một quan hệ tỷ lệ chế ớc
lẫn nhau. Lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trởng
kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một trong nhiều mục tiêu quan trọng của
chính sách kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết, nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát đợc
thì nền kinh tế có thể tránh đợc mọi hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra những hậu
quả nh:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả,
kéo theo tài nguyên, nguồn lực không đợc phân bố hiệu quả, kết cục là tăng trởng
chậm.
- Lạm phát là kẻ thù của tăng trờng và đầu t dài hạn. Nếu các nhà đầu t
không biết chắc chắn mức giá cả trong tơng lại, kéo theo không biết lãi suất thực
thì không ai dám liều lĩnh đầu t nhất là đầu t vào các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ
đẩy lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho mức rủi ro lớn. Lãi suất
cao kìm hãm đầu t do đó làm chậm tốc độ tăng trởng.
- Lạm phát cao khuyến khích mọi ngời quan tâm đến lợi ích trớc mắt.
- Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi ngân sách nhà nớc.
Những nớc đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát đợc

lạm phát là điều đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị méo mó, biến dạng
nghiệm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí ghê gớm tiềm lực trong sản xuất.
Mặt khác từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi kiểm soát đợc lạm phát đòi hỏi
một phí tổn rất lns cho nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và lạm phát là sự biểu hiện tập trung
nhất về các cân đối vĩ mô của nền kinh tế nh: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết
kiệm, đầu t, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế... Nếu một trong những cân đối
này bị vi phạm sẽ ảnh hởng đến toàn bộ hệ thống cấn đối vĩ mô của nền kinh tế, đến
mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và lạm phát. Khi đó hoặc:
8

×