Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nền ĐỐI NGOẠI ĐA PHƯƠNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.1 KB, 35 trang )

NỀN ĐỐI NGOẠI ĐA PHƯƠNG HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Đối ngoại đa phương (ĐNĐP) là một bộ phận quan trọng của Đối ngoại
Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng từ những ngày đầu lập
nước và khơng ngừng trưởng thành qua các thời kỳ. Đối ngoại đa phương là
phương tiện hữu hiệu để chúng ta triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế. Về cơ bản, khái niệm đối ngoại
đa phương có nội hàm tương đối giống khái niệm ngoại giao đa phương và có
thể sử dụng thay thế cho nhau. Đối ngoại đa phương của Việt Nam được hiểu
với cách tiếp cận đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó tham gia vào các hoạt động đối
ngoại đa phương khơng chỉ có ngành ngoại giao mà cả các bộ ngành của Việt
Nam, khơng chỉ có lĩnh vực ngoại giao, an ninh - chính trị mà cả kinh tế, văn
hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Đại hội Đảng XII lần đầu tiên đưa ra định
hướng cụ thể cơng tác đối ngoại đa phương, theo đó Việt Nam “Chủ động và
tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”; “Chủ động tham
gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên
Hợp Quốc”. Đặc trưng nổi bật của ĐNĐP Việt Nam là có sự kết hợp đồng bộ
giữa ngoại giao Nhà nước, trong đó có Quốc hội, với đối ngoại Đảng và ngoại
giao nhân dân. Việc nước ta trở thành thành viên Liên hợp quốc (LHQ) năm
1977 đến ASEAN năm 1995 và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007
là những sự kiện quan trọng, từ mở ra thời kỳ mới cho đối ngoại nói chung và
ĐNĐP nói riêng, đến mở đường cho tiến trình hội nhập khu vực, tiểu khu vực và
ghi dấu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trên quy mơ tồn cầu.


NỘI DUNG
1. Lịch sử đối ngoại và đối ngoại đa phương ở Việt Nam
Giai đoạn trước năm 1986
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, bằng nhãn quan chiến lược của mình, đã đặc biệt nhấn mạnh việc xây
dựng quan hệ đối tác/hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Trong thư gửi Liên


Hợp Quốc tháng 12/1946, Người khẳng định: đối với các nước dân chủ, nước
Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
Đồng thời, Người tuyên bố: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù ốn với một ai. Có thể thấy, tư duy về đối ngoại đa
phương đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng ngay từ khi
lập nước. Trong giai đoạn đầu kháng chiến, Người đã 9 lần gửi thư cho Liên
Hợp Quốc để tranh thủ vai trò của tổ chức quốc tế lớn nhất về ngoại giao đa
phương trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân ta. Suốt 70 năm
qua, từ Hội nghị Genève 1954 đến Hội nghị Paris 1973 cũng như trên nhiều diễn
đàn quốc tế quan trọng khác, chính sách ngoại giao đa phương đã góp phần thiết
yếu vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ
các lợi ích an ninh và phát triển, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhận định về vấn đề này, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh, đã đánh giá: “Ngay sau khi Việt Nam giành độc lập năm 1945, chúng ta
đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của các thể chế đa phương trong việc
bảo đảm các lợi ích của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại đa phương
ln giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại. Chúng ta nhận thức được
rằng, tích cực tham gia và đóng góp vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế
chính là phương thức hữu hiệu và tạo “sức mạnh mềm” để bảo vệ độc lập, chủ
quyền, phát triển, nâng cao vị thế và tạo thêm lực của đất nước. Diễn đàn đa
phương là nơi ta có thể thúc đẩy các quan tâm, làm sâu sắc quan hệ với các
nước, ký kết các thỏa thuận kinh tế - thương mại, và tranh thủ rộng rãi nhất sự
ủng hộ, đồng tình của quốc tế”.

2


Giai đoạn 1986-1991
Cùng với đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước
đổi mới tư duy về đối ngoại. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khố V (tháng

7/1986) chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh cùng tồn tại hồ
bình. Đại hội Đảng VI (1986) nhấn mạnh: “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, ưu tiên giữ vững
hồ bình để phát triển kinh tế [2]. Năm 1988, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
khóa VI lần đầu tiên đưa ra khái niệm “đa dạng hóa quan hệ” trên cơ sở “thêm
bạn, bớt thù”. Có thể được coi đó là nền tảng cho chủ trương “đa dạng hóa, đa
phương hóa” sau này của Đảng. Nghị quyết này là một bước chuyển mạnh mẽ
về tư duy, mục tiêu đối ngoại, quan hệ bạn thù và cách thức tập hợp lực lượng.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội Đảng VI và các nghị quyết của Trung ương đã
chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ
với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, cùng tồn tại hịa bình để phát triển,
phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Đại
hội Đảng VI cũng chỉ rõ: Phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước
Việt Nam, Lào và Campuchia; phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế;
mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên ngun tắc cùng tồn tại hồ bình; mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; tham gia ngày càng rộng rãi vào sự
phân công lao động quốc tế; tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ
thuật với các nước khác, với các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên
nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Đây cũng có thể coi là cách tiếp cận đa
ngành về ngoại giao đa phương trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Có
thể thấy q trình đổi mới đã đánh dấu bước ngoặt trong tư duy đối ngoại nói
chung và ngoại giao đa phương nói riêng. Thực tế giai đoạn này, đối ngoại đa
phương đã thành công phá “tảng băng” bao vây, cấm vận và tìm giải pháp cho
“vấn đề Campuchia” mà các bên có thể chấp nhận được, bình thường hoá quan

3



hệ với các nước láng giềng, trước hết là Trung Quốc. Đại hội Đảng VI đã khẳng
định: “Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp
nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước”. Việc bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc và từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ tiến
đến việc bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao với hai nước sau này.
Chỉ trong vịng chưa đầy 4 năm thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở theo tư
duy mới, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các
lực lượng thù địch, giải tỏa những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng
(ngoài Đông Dương) và với hầu hết các nước lớn, các tổ chức khu vực và liên
khu vực như bắt đầu tham gia vào các hoạt động ngoại giao đa phương chủ yếu
tại Liên Hợp Quốc, các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc, và Phong trào
không liên kết. Quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN được khai thông, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN và hội nhập khu vực sau
đó. Tóm lại, trong thời kỳ đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đưa ra những chủ
trương, đường lối đối ngoại phù hợp. Các hoạt động ngoại giao song phương và
việc định hình chính sách ngoại giao đa phương đã góp phần vào việc ổn định
tập trung kinh tế của đất nước, tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn trong giai
đoạn tiếp theo, giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế phục vụ công cuộc phát triển
đất nước.
Giai đoạn 1991-2005
Đại hội Đảng VII (1991) đã khẳng định “Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”
[3]. Điều này cho thấy, sự thay đổi về chất trong tư duy về đối ngoại đa phương
của Đảng. Đó là chủ trương: vượt lên trên tư duy về “bạn”, “thù”, “đa phương,
đa dạng hóa, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước”, “góp phần làm
cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của nhân loại, hợp tác
với các tổ chức tài chính, tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc và các tổ
chức phi chính phủ, ủng hộ Phong trào khơng liên kết” [3]. Hội nghị lần thứ III
Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (1992) cũng nêu rõ các nhiệm vụ đối


4


ngoại đa phương về kinh tế đối ngoại: “Cố gắng khai thơng quan hệ với các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế, như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)... mở rộng quan hệ với các tổ
chức hợp tác khu vực, trước hết ở Châu Á - Thái Bình Dương” [4]. Trước những
biến động nhanh, khó lường của thế giới và khu vực, Đại hội Đảng VIII đã có
những đánh giá, phân tích thách thức, thời cơ và đưa ra những chính sách cụ thể
phát triển đối ngoại đa phương, đánh giá chi tiết về Tổ chức Quốc tế của các
nước nói tiếng Pháp (Francophonie), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đại
hội nhấn mạnh: “Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức
phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước,
góp phần thúc đẩy xu thế hịa bình, hợp tác, phát triển” [5]. Có thể nói thời kỳ
này, Đảng ta đã rất coi trọng ngoại giao nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi
chính phủ. Đây cũng là điểm mới trong tư duy đối ngoại đa phương của Đảng so
với các kỳ Đại hội trước đó. Thời kỳ này, Đảng cũng đề ra các nhiệm vụ cụ thể
là: “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với
Mỹ, gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và
WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA)” [6]. Đại hội Đảng IX (2001) khẳng định: “Sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, đẩy mạnh hoạt động tại
các diễn đàn đa phương”. Giai đoạn này cũng đánh dấu cho sự khởi đầu hội
nhập kinh tế quốc tế thành công của Việt Nam. Nghị quyết 07 ngày 27 tháng 11
năm 2001 và Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã thể hiện rõ sự thống nhất cao
của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động và
khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các điều kiện để
sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới” [8]. Đảng ta đã đưa ra chủ trương
chung về xây dựng chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế ở các cấp độ:

toàn cầu, khu vực và song phương. Đại hội Đảng IX xác định đối tác, đối tượng
thay cho bạn, thù. Theo đó, đối tác của chúng ta là bất kể ai tôn trọng độc lập,

5


chủ quyền, mong muốn thiết lập và xây dựng quan hệ hữu nghị, bình đẳng, cùng
có lợi với Việt Nam. Còn đối tượng ta cần kiên quyết đấu tranh là những ai tìm
cách chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta. Trong mỗi đối
tượng vẫn có thể có những mặt cần tranh thủ; và trong một số đối tác vẫn có thể
có những khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Nói cách khác, trong đối tượng
có đối tác và trong đối tác có đối tượng. Do đó, cần tránh cả hai khuynh hướng
mất cảnh giác, tuyệt đối hóa đối tác hoặc đối tượng trong việc xử lý quan hệ cụ
thể [11]. Đây là bước chuyển biến quan trọng, là nội dung cốt lõi trong tư duy
đối ngoại đa phương của Đảng ta và là cơ sở then chốt để triển khai đối ngoại đa
phương Việt Nam trên thực tế.
Tóm lại, giai đoạn 1991 - 2005, quan điểm về đối ngoại đa phương của
Đảng đã được định hình rõ nét, được cơng khai hóa và chính thức hóa trong các
văn kiện của Đảng và được thể hiện qua những chủ trương, nguyên tắc lớn, cơ
bản và những mục tiêu, nhiệm vụ được xác định ngày càng cụ thể hơn. Đặc
trưng của tư duy đối ngoại đa phương thời kỳ này là tập trung vào kinh tế đối
ngoại và chú trọng phát triển “công tác đối ngoại nhân dân, phối hợp chặt chẽ
hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động
đối ngoại nhân dân” [7]. Đối ngoại đa phương theo cách tiếp cận đa ngành, đa
lĩnh vực có cơ sở từ đây.
Giai đoạn 2006 - nay
Đại hội Đảng X năm 2006 chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” và
“Chủ động và tích cực hợp tác với các nước trong các cuộc đàm phán đa phương
về một trật tự kinh tế quốc tế mới, cơng bằng hơn” [9]. Có thể hiểu hợp tác quốc

tế ở đây chính là thể hiện cách tiếp cận toàn diện, đa ngành của đối ngoại đa
phương về hội nhập quốc tế. Đại hội Đảng XI khẳng định: “Chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế”. Hội nhập quốc tế giờ đây khơng cịn bó hẹp trong lĩnh
vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phịng,
an ninh và văn hóa - xã hội. Đây là điểm mới trong tư duy đối ngoại đa phương

6


về hội nhập quốc tế toàn diện. Toàn diện ở đây được hiểu là không chỉ chủ động
tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà cịn là “tích cực và chủ
động”, thể hiện tầm nhìn, trách nhiệm và vị thế sẵn sàng của Việt Nam khi tham
gia vào các diễn đàn quốc tế. Tính tồn diện trong đối ngoại nói chung và đối
ngoại đa phương nói riêng của Việt Nam cũng được quy định bởi sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong
hoạt động đối ngoại; mục tiêu của chính sách đối ngoại và sự đa dạng của các
mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập. Ngồi ra, giai đoạn này Đảng ta
cũng chính thức đưa ra phương châm cho cơng tác đối ngoại nhân dân là: “Chủ
động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt
động của nhân dân thế giới” [9]. Đại hội Đảng XI chỉ rõ: “Là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế... tham gia các cơ chế
hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ
sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên
Hợp Quốc; tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong
việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng
biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền” [10]. Đây là một bước nâng
tầm tiếp theo trong tư duy đối ngoại và định vị Việt Nam trên trường quốc tế của
Đảng ta. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của đối ngoại đa phương Việt
Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta

tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và tồn cầu (ngoại giao đa
phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương. Theo đó, ngoại giao đa
phương đã trở thành một bộ phận quan trọng trong tư duy và thực tiễn đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta. Một điểm mới nữa trong tư duy đối ngoại đa phương
của Đảng đến giai đoạn này là kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế và đối
ngoại đa phương với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng, nhằm củng cố chủ
quyền và an ninh đất nước. Đại hội Đảng XI nhấn mạnh: “Tiếp tục mở rộng hợp

7


tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc”
[10]. Với định hướng này, đối ngoại đa phương về quốc phòng, an ninh sẽ tiếp
tục phát triển và có vai trị ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta
ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Đại hội Đảng XII (2016) đã chỉ rõ: Chủ động và tích cực đóng góp xây
dựng, định hình các thể chế đa phương; Chủ động tham gia và phát huy vai trò
tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp Quốc. Định hướng
này đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển
mạnh từ tham dự sang chủ động tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và
định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam
tại các cơ chế đa phương. Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình
các thể chế đa phương. Đây là bước chuyển lớn trong tư duy đối ngoại đa
phương của Việt Nam ở tầm cao nhất, tiếp tục thể hiện tính tiếp nối, trách
nhiệm, sẵn sàng của Việt Nam tham gia xây dựng luật chơi ở mọi cấp độ.
Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại đa phương đã góp phần quan trọng đưa

Việt Nam ra khỏi thế bị bao vây, cấm vận, từng bước mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế, thúc đẩy các mục tiêu phát triển, bảo vệ và duy trì mơi
trường hịa bình, nâng cao vị thế của đất nước. Việt Nam ngày nay là thành viên
tích cực, có trách nhiệm của nhiều tổ chức, diễn đàn quan trọng ở khu vực và
quốc tế, như ASEAN, APEC, diên đàn hơp tác Á- Âu (ASEM), WTO, Liên Hợp
Quốc [15]. Quan điểm về đối ngoại đa phương sẽ tiếp tục được Đảng, Nhà nước
bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của thế giới
và khu vực. Việt Nam sẽ chủ động, tích cực tham gia định hình cuộc chơi tại các
diễn đàn, cơ chế đa phương ở cấp tồn cầu và khu vực trên cơ sở lợi ích quốc
gia - dân tộc của Việt Nam và lợi ích chung giữa Việt Nam với một nhóm hoặc
đa số các quốc gia khác. Đây là kênh quan trọng nhằm tiếp tục: bảo vệ và tối đa

8


hố lợi ích quốc gia; giữ vững mơi trường hồ bình; đưa các mối quan hệ đi vào
chiều sâu; xử lý tốt các vấn đề phức tạp của cộng đồng quốc tế, những vấn đề có
nhiều bất đồng giữa các quốc gia, nhất là giữa các quốc gia thành viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; tham gia định hình cuộc chơi; xây dựng
bản sắc của Việt Nam tại các diễn đàn, cơ chế đa phương ở cấp độ khu vực và
toàn cầu; thúc đẩy hội nhập quốc tế, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình thế giới tác động đến ngoại giao đa phương và vai trò
của ngoại giao đa phương với Việt Nam
Từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, thế giới có những biến động lớn,
nhanh và khó lường, ảnh hưởng đến hoạt động đối ngoại của các quốc gia, trong
đó có Việt Nam. Trong hơn 30 năm đổi mới, chính sách đối ngoại của Việt Nam
đã chứng minh được tính đúng đắn của mình, góp phần khơng nhỏ vào sự ổn
định, phát triển và phồn thịnh của đất nước. Tuy nhiên, trước những tác động
phức tạp của tình hình thế giới, Việt Nam rất cần có những định hướng chính

sách phù hợp để hoạt động đối ngoại thành công hơn nữa.
Cục diện thế giới hiện nay
Thứ nhất, cục diện thế giới đang và sẽ tiếp tục diễn ra trong xu thế đa cực,
đa trung tâm không đồng đều với tương quan lực lượng đang thay đổi. Dù Mỹ
vẫn là cường quốc số một thế giới, song khoảng cách về sức mạnh quốc gia giữa
Mỹ và các cường quốc khác đã bị thu hẹp, chẳng hạn khoảng cách về tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) giữa các quốc gia (theo dự báo của IMF).
Về quân sự: nếu như trước thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, cường quốc
quân sự thứ nhất và thứ hai trên thế giới lần lượt thuộc về Mỹ, Nga và khoảng
cách với các nước tiếp sau là khá lớn, thì đến bây giờ dù vị trí của Mỹ, Nga vẫn
khơng thay đổi, song Trung Quốc đang bắt đầu nổi lên và phát triển nhanh
chóng kéo gần hơn khoảng cách với Mỹ, Nga. Ngoài quân chủng Hải quân,
Trung Quốc chú trọng xây dựng lực lượng Dân quân biển từ ngư dân, sử dụng
tàu đánh cá để tập trận trong vùng tranh chấp tại Thái Bình Dương. Tại Ấn Độ

9


Dương, Trung Quốc đang mở rộng sự hiện diện quân sự. Lần đầu tiên,
Trung Quốc có căn cứ quân sự ở nước ngoài, cụ thể căn cứ quân sự đầu tiên đặt
tại Dibuti, nối Biển Đỏ và Vịnh Ađen, gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại
Châu Phi và Ấn Độ Dương. Tháng 12/2016, Trung Quốc đưa vào biên chế máy
bay chiến đấu tàng hình FC-3 thế hệ thứ 5, chấm dứt độc quyền của phương Tây
sản xuất loại máy bay này. Tháng 3/2017, Trung Quốc đưa vào sử dụng máy
bay chiến đấu tàng hình loại mới nhất J-20, tương đương máy bay tàng hình F35 của Mỹ. Với cơ sở hiện tại có thể khẳng định trong thời gian tới, Trung Quốc
vẫn sẽ tiếp tục phát triển quân đội và cơng nghệ quốc phịng để khẳng định vị trí
của mình về lĩnh vực quân sự trong khu vực và dần đến thế giới.
Về chính trị, ngoại giao: hiện nay, các quan hệ quốc tế đang xoay quanh
trục quan hệ trung tâm là Mỹ - Trung. Chính sách của Mỹ và Trung Quốc thực tế
đang ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách và quan hệ của các nước khác. Ví dụ,

chính sách của Mỹ và Trung Quốc trong cuộc “chiến tranh thương mại” năm
2018 đã làm nhiều nước lo ngại, không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ Trung, mà còn ảnh hưởng đến quan hệ với các nước khác, ví dụ như quan hệ
Canada và Trung Quốc bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu sau khi Canada bắt
bà Mạnh Vãn Chu, giám đốc tài chính của Huawei, tập đồn công nghệ lớn của
Trung Quốc theo yêu cầu của Mỹ vào tháng 12/2018. Ngồi trục chính này
cịn có các cặp quan hệ khác cũng khá ảnh hưởng: Mỹ - Nga, Trung - Nga,
Nga - Liên minh Châu Âu (EU)...
Thứ hai, thế giới đang phải đối mặt với những vấn đề toàn cầu, những
thách thức liên quan đến tồn vong của nhân loại đặc biệt là dịch bệnh, ô
nhiễm môi trường... Chưa bao giờ các vấn đề như lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt,
dịch bệnh... lại gây ra những hậu quả lớn cho con người như thế, cụ thể là bước
vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, trung bình hàng năm thế giới thiệt hại
khoảng 180 tỉ đô la Mỹ. Tỷ lệ người chết vì các vấn đề tồn cầu như dịch bệnh,
ô nhiễm môi trường... ngày càng tăng. Theo một nghiên cứu mới, thì riêng ở Ấn
Độ mỗi năm khoảng 1 triệu người chết do ô nhiễm không khí, hàng triệu người

10


trong đó có trẻ em chết do nhiễm các dịch bệnh. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), có 16% trẻ em trên thế giới chết do nhiễm dịch bệnh, trong đó
sốt rét (5%), HIV/AIDS (1%), sởi (1%), tiêu chảy (9%)...
Những vấn đề toàn cầu trở thành chất keo, chất xúc tác, yêu cầu kết dính,
khiến các nước buộc phải gác lại những bất đồng, hợp tác để giải quyết. Từ đó
xu hướng hợp tác trở nên thường trực hơn trước. Thêm vào đó, các vấn đề toàn
cầu cũng cần sự hợp tác của toàn thế giới chứ không phải chỉ một, hai hay ba
quốc gia nên ngoại giao đa phương đang và sẽ phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, nhiều quốc gia đang phải đối phó với các vấn đề chính trị nội tại.
Các vấn đề như khủng bố, li khai, nội chiến, biểu tình, bạo loạn lật đổ... đang và
sẽ buộc các quốc gia phải đầu tư hơn nữa các nguồn lực để giải quyết. Khủng bố

vẫn và sẽ là một sự nhức nhối trong chính trị nội bộ ở các nước, đặc biệt là Châu
Âu và Mỹ; nội chiến li khai, xung đột sắc tộc, tôn giáo đang ngày càng nổi rõ
tồn tại ở các nước Châu Phi, Châu Á làm chính quyền của nhiều quốc gia phải
đối phó một cách mệt mỏi và gây những thiệt hại lớn cản trở sự phát triển của
các quốc gia. Cũng chính vì thế mà việc tham gia các trách nhiệm quốc tế cũng
có phần giảm đi.
Thứ tư, khả năng xảy ra một cuộc chạy đua vũ trang mới cũng khơng hẳn
là khơng thể xảy ra. Tính riêng năm 2017, số tiền chi cho ngân sách quốc phòng
của cả thế giới là 1.739 tỉ đô la Mỹ, cao hơn năm 2016 là 1,1%, Mỹ là nước chi
tiêu quốc phòng lớn nhất thế giới với giá trị là 610 tỉ đô la, chiếm 3,1%
GDP. Trung Quốc là nước chi tiêu lớn thứ 2 về mặt ngân sách quốc phòng,
với giá trị là 228 tỉ đô la Mỹ, tăng 5,6% so với năm 2016. Tiếp đến, Arập
đứng thứ 3 với 69,4 tỉ đô la Mỹ; Nga đứng thứ 4 với 66,3 tỉ đô la Mỹ; Ấn Độ
đứng thứ 5 với 63,9 tỉ đơ la Mỹ. Trong khi đó, năm 2007 được coi là một trong
những thời điểm chi tiêu quốc phòng mạnh nhất sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai đặc biệt là Mỹ, chi tiêu ngân sách quốc phòng của thế giới là 1.339 tỉ đơ
la Mỹ, trong đó Mỹ chiếm 547 tỉ đô la Mỹ, chiếm 45%; Anh là 59,7 tỉ đô la
Mỹ; Trung Quốc là 58,3 tỉ đô la Mỹ; Nga là 35,4 tỉ đô la Mỹ. Rõ ràng so với

11


cách đây 10, năm thì năm 2017 các nước lớn đã tăng số chi tiêu quốc phòng lên
đáng kể. Điều này cho thấy dấu hiệu của việc đầu tư cho ngân sách quốc phòng
của các quốc gia đang tăng lên, cũng có nghĩa là có khả năng khơng nhỏ cho
cuộc chạy đua vũ trang mới của thế kỷ XXI.
Vai trò của ngoại giao đa phương
Có thể nói rằng, trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực có
những chuyển biến hết sức nhanh chóng và sâu sắc. Cuộc khủng hoảng tài chính
- kinh tế tồn cầu đã thúc đẩy nhiều đổi thay trong các mối quan hệ, hợp tác ở

các khu vực và trên toàn cầu, với sự vươn lên mạnh mẽ của các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi. Bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống về chiến
tranh và hồ bình, lãnh thổ và biên giới..., những vấn đề an ninh phi truyền
thống như biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh
lương thực, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, thiên tai... diễn biến ngày càng
phức tạp, với quy mô, mức độ ảnh hưởng sâu rộng và nằm ngoài khả năng giải
quyết của bất kỳ quốc gia, khu vực đơn lẻ nào. Q trình tồn cầu hóa cũng
đang tiếp tục gia tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Vì vậy, hơn bao
giờ hết, ngoại giao đa phương tại các cơ chế, diễn đàn hợp tác khu vực, liên khu
vực cũng như toàn cầu ngày càng được đề cao và coi trọng. Chính thơng qua các
cơ chế, diễn đàn đa phương này, các quốc gia, đặc biệt là các nước vừa và nhỏ,
đều muốn tạo dựng một thế trận ngoại giao hữu hiệu bảo vệ lợi ích quốc gia,
nâng cao hình ảnh và vai trị trên trường quốc tế trong tình hình mới, đồng thời
phối hợp hành động và điều phối nguồn lực để cùng ứng phó hiệu quả với
những thách thức tồn cầu hiện nay.
Nắm bắt được những xu thế trên và đặc biệt là phát huy truyền thống của
nền ngoại giao Việt Nam qua các thời kỳ dựng nước, giữ nước và tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta đã chủ động, tích cực đẩy mạnh các hoạt
động ngoại giao đa phương để thực sự trở thành một đòn bẩy sắc bén trong triển
khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phát huy

12


sức mạnh tổng hợp của các mặt trận đối ngoại, và đã gặt hái được nhiều kết quả
đáng tự hào.
Trước hết, ngoại giao đa phương đã góp phần quan trọng vào nâng cao
vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thơng qua việc chúng ta đã có những
đóng góp tích cực, hiệu quả và đảm nhiệm thành cơng nhiều vai trò chủ chốt tại

các diễn đàn đa phương ở mọi cấp độ. Mặt trận ngoại giao đa phương 5 năm
qua được khởi đầu với việc nước ta chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1/2007 sau 11 năm đàm phán
liên tục và bền bỉ, khẳng định vị thế của đất nước với việc tham gia đầy đủ các
sân chơi đa phương lớn nhất trên toàn cầu. Với việc gia nhập WTO, chúng ta đã
hoàn thành một chặng đường của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ song
phương, khu vực đến liên khu vực và toàn cầu, đồng thời khẳng định thành công
của công cuộc Đổi mới và phát triển kinh tế trong nước mà chúng ta đã nỗ lực
triển khai. Một thành tựu nổi bật đánh dấu sự trưởng thành của ngoại giao đa
phương Việt Nam là, lần đầu tiên trong lịch sử đối ngoại, chúng ta đã được quốc
tế tín nhiệm bầu với số phiếu cao gần như tuyệt đối và đã đảm nhiệm thành công
vai trị uỷ viên khơng thường trực nhiệm kỳ 2008-2009 của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc. Chúng ta đã có đóng góp, tiếng nói trong tất cả những vấn đề
quan trọng của Liên hợp quốc - tổ chức đa phương tồn cầu được hình thành từ
1945 với các cơ sở pháp lý và được thừa nhận rộng rãi nhất. Việc đảm nhiệm
xuất sắc vai trò ủy viên của cơ quan quan trọng nhất của Liên hợp quốc về hịa
bình và an ninh quốc tế này đã thể hiện một cách toàn diện sự đúng đắn của
đường lối đối ngoại Việt Nam, khẳng định sinh động vị thế quốc tế của đất nước
trên phạm vi toàn cầu.
Ở khu vực, với vai trị Chủ tịch Hiệp hội các Quốc gia Đơng Nam Á
(ASEAN) trong năm 2010, chúng ta đã đi đầu đề xuất hợp tác ASEAN đi vào
trọng tâm “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ Tầm nhìn đến Hành động”, nhằm
thúc đẩy hợp tác theo hướng thực chất, tạo chuyển biến trong liên kết khu vực,
cùng hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng vào năm 2015. Bạn bè quốc

13


tế, khu vực luôn đánh giá cao những dấu ấn hợp tác mang tên Việt Nam, đặc biệt
là quyết định kết nạp Nga và Hoa Kỳ tham gia Cấp cao Đông Á (EAS), nâng

cấp quan hệ ASEAN với Hàn Quốc thành đối tác chiến lược, hướng quan hệ
ASEAN - Hoa Kỳ tới tầm đối tác chiến lược, cũng như việc tổ chức thành công
số lượng lớn nhất các Cấp cao của ASEAN với các Đối tác. Năm 2010 còn đánh
dấu việc lập thêm diễn đàn Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng
(ADMM+) với Hội nghị ADMM+ đầu tiên tại Việt Nam. Thành công của năm
Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN đã nâng cao rõ rệt hình ảnh, uy tín của ASEAN
trong bạn bè quốc tế, qua đó khẳng định tầm vóc và vị thế của nước ta ở khu vực
và trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu kể trên, chúng ta cũng đẩy mạnh và tham gia
ngày càng thực chất, hiệu quả tại các tổ chức, diễn đàn hợp tác liên khu vực và
khu vực như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác Á – Âu
(ASEM), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn
đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Diễn đàn Hợp tác Đông Á – Mỹ La tinh
(FEALAC), các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công, ACMECS, Hành lang Đông
Tây..., khẳng định chỗ đứng vững chắc của đất nước tại các cơ chế hợp tác quốc
tế ở mọi cấp độ.
Hai là, ngoại giao đa phương đã phát huy vai trị là địn bẩy góp phần
tranh thủ nguồn lực quốc tế, nhằm tăng cường tiềm lực đất nước, góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Ngay từ những
ngày đầu lập nước, ngoại giao đa phương đã được Đảng và Nhà nước coi trọng
như một mũi tiến cơng sắc bén trên mặt trận đấu tranh vì độc lập dân tộc. Ngoại
giao song phương cùng ngoại giao đa phương Việt Nam đã góp phần quan trọng
gắn kết cách mạng Việt Nam với các phong trào cảnh tả, các phong trào độc lập
dân tộc lúc đó đang bùng lên mạnh mẽ ở Á-Phi-Mỹ la tinh, qua đó kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phục vụ cuộc đấu tranh giành độc lập và
thống nhất đất nước. Những thắng lợi lịch sử của mặt trận ngoại giao tại các Hội
nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 và Hội nghị Pa-ri năm 1971-1973 đã góp phần thúc

14



đẩy và gắn kết hài hòa với những thắng lợi ròn rã trên mặt trận quân sự, để đưa
đất nước tới thắng lợi cuối cùng, giành độc lập, giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc Đổi mới hiện nay, ngoại giao đa phương tiếp tục được
chúng ta vận dụng hiệu quả để tăng cường sức mạnh trong nước, nâng cao nội
lực, gắn kết nội lực với ngoại lực nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đây chính
là sự phát huy khéo léo bài học đáng quý của nền ngoại giao Việt Nam về kết
hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại.
Gia nhập WTO có thể nói là một trong những bước đi quan trọng nhất để
tăng cường tiềm lực cho đất nước trong thời kỳ mới. Nền kinh tế nước ta được
tiếp cận bình đẳng với thị trường rộng lớn của hơn 150 nước thành viên, xuất
khẩu của ta liên tục tăng, giai đoạn 2007-2008 tăng 29,5% (62,5 tỷ USD năm
2008), 2009-2010 tăng 25,5% (71,6 tỷ USD, 2010). Cùng với xuất nhập khẩu,
đầu tư nước ngoài FDI tăng mạnh mẽ sau khi gia nhập WTO với số vốn đăng ký
lần lượt đạt: 21 tỷ USD năm 2007; 64 tỷ USD năm 2008; 21,3 tỷ USD năm
2009; 18,6 tỷ USD năm 2010 và dự kiến đạt khoảng 20 tỷ USD năm 2011 (chỉ
riêng giai đoạn 2007-2009, tổng vốn FDI đạt bằng 1,3 lần tổng vốn của tất cả
các năm trước đó cộng lại. Số vốn thực hiện cũng đạt tỷ lệ cao, năm 2010 đạt 11
tỷ USD. Nhờ môi trường thuận lợi, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo
hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng và tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm dần.
Vừa qua, các diễn đàn, hội nghị đa phương đã thực sự là cơ hội để chúng
ta góp phần đưa các mối quan hệ song phương với nhiều đối tác đi vào chiều
sâu, với các cuộc gặp gỡ, trao đổi thực chất của Lãnh đạo Cấp cao, ký kết các
thoả thuận hợp tác, tăng cường tin cậy, hữu nghị và hợp tác với đông đảo bạn bè
quốc tế. Sự hợp tác chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương cũng
chính là những bước triển khai hiệu quả các khn khổ hợp tác song phương đã
được thiết lập. Chỉ riêng tại Hội nghị Cấp cao ASEM lần thứ 8 tại Vương quốc
Bỉ tháng 10/2010, chúng ta đã ký Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn
diện với Liên minh châu Âu (EU) và khởi động đàm phán Hiệp định mậu dịch


15


tự do song phương, tạo ra nền tảng và định hướng lâu dài cho hợp tác toàn diện
giữa nước ta với EU. Cũng trong dịp đó, chúng ta cũng đã ký kết Thỏa thuận đối
tác chiến lược về ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý nguồn nước với Hà Lan,
nâng tầm quan hệ hai nước và tập trung vào hợp tác trong lĩnh vực có lợi ích
thiết thân, dài hạn. Tại Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 19 tại Hoa Kỳ tháng
11/2011, ta và Chi-lê đã ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương, tạo cơ
sở cho hợp tác dài hạn hai nước trong lĩnh vực kinh tế, thương mại. Sự ủng hộ
mạnh mẽ của chúng ta đối với bạn bè và các đối tác tại các cơ chế hợp tác đa
phương từ Liên Hợp Quốc, WTO, UNESCO, đến ASEAN, EAS, APEC,
ASEM... và các hợp tác tiểu vùng đã góp phần tăng cường sự tin cậy với các đối
tác. Mới đây, chúng ta đã đi đầu với nhiều đề xuất ủng hộ Nga, Ốt-xtrây-li-a và
Niu Di-lân trong việc gia nhập ASEM, và Nga cùng Hoa Kỳ tham gia Cấp cao
Đông Á. Ta cũng tận dụng được sự hỗ trợ, ủng hộ của các tổ chức quốc tế phục
vụ các ưu tiên, quan tâm lớn của nước ta, đặc biệt là những yêu cầu mới về phát
triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có chuyển đổi mơ hình
tăng trưởng, xố đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết
nối, an ninh nguồn nước... Là nước hạ lưu Mê Công, vấn đề phát triển tiểu vùng,
bảo vệ nguồn nước theo hướng phát triển bền vững, vì lợi ích của các nước bên
sơng có ý nghĩa hết sức hệ trọng đối với đất nước. Thông qua các cơ chế khu
vực và tiểu vùng, chúng ta đã có thêm điều kiện để tăng cường tiếng nói trong
những vấn đề này, đẩy mạnh hợp tác phát triển tiểu vùng. Qua tất cả các hoạt
động đó, các tổ chức quốc tế, khu vực và các đối tác luôn bày tỏ sự ủng hộ nhiệt
thành và khẳng định hỗ trợ đối với công cuộc Đổi mới và tiến trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
Ba là, ngoại giao đa phương đã giúp chúng ta triển khai hiệu quả chủ
trương đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là thành viên tích cực, chủ động,

có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ngoại giao đa phương đã chứng tỏ tiềm
năng đóng góp cũng như khả năng xử lý của Việt Nam trong các vấn đề phức
tạp của quốc tế, đóng góp vào việc giữ gìn hịa bình, an ninh quốc tế, chia sẻ

16


những giá trị chung của nhân loại, tham gia vào giải quyết những thách thức
toàn cầu đang nổi lên ngày càng mạnh mẽ. Chúng ta đã tích cực cùng các nước
bạn bè đấu tranh bảo vệ các vấn đề an ninh tồn cầu như giải trừ vũ khí huỷ diệt
hàng loạt, ủng hộ giải quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế, cải tổ Liên hợp
quốc, đề cao vai trò của chủ nghĩa đa phương, luật pháp quốc tế cũng như bảo
vệ lợi ích và chính nghĩa của các quốc gia trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền.
Đặc biệt, khi là uỷ viên không thường trực nhiệm kỳ 2008-2009 của Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, chúng ta đã tham gia xử lý một lượng công việc đồ sộ
một cách nhanh chóng và chính xác, đóng góp vào việc giữ gìn hịa bình, an
ninh quốc tế.
Trong suốt q trình tham gia ASEAN 15 năm qua, cũng như trên cương
vị Chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam luôn là nước tích cực cùng ASEAN
xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử ở khu vực, góp phần xây dựng lịng
tin, thúc đẩy đối thoại, vì hịa bình, an ninh, ổn định và hợp tác vì phát triển. Ta
cũng góp phần tích cực cùng các nước ASEAN thúc đẩy và phát huy tác dụng
của các công cụ và cơ chế hợp tác chính trị-an ninh ở khu vực như Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Khu vực Đơng Nam Á
khơng có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC), tiến tới xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông
(COC)...Chúng ta cũng nỗ lực, cùng các nước ASEAN mở rộng quan hệ của
ASEAN với các đối tác, trong đó giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của
ASEAN. Với tư cách nước Điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc
(2009-2012), Việt Nam đã phối hợp hiệu quả với các nước ASEAN và Trung

Quốc đóng góp thiết thực vào tăng cường hơn nữa Quan hệ đối tác chiến lược
ASEAN-Trung Quốc, triển khai thành công một loạt các hoạt động quan trọng
kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc (1991-2011).
Chúng ta cũng đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến tăng cường hợp tác thiết
thực trong APEC, ASEM, ACMECS, EAS, WEF, ...về liên kết và trong các vấn
đề quốc tế, khu vựccùng quan tâm. Nổi bật là các sáng kiến của Việt Nam về

17


ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh năng lượng, tăng trưởng xanh,
lao động và việc làm, kết nối khu vực… Sự tham gia và đóng góp của Việt Nam
đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, thể hiện trách nhiệm của Việt Nam là một
thành viên chủ động, tích cực của cộng đồng quốc tế.
Bốn là, thông qua các hoạt động ngoại giao đa phương, chúng ta đã
khẳng định với bạn bè khắp năm châu về hình ảnh một dân tộc Việt Nam u
chuộng hịa bình, văn hiến, một đất nước Việt Nam đổi mới, năng động và
không ngừng phát triển. Trở thành thành viên của các cơ chế hợp tác đa phương,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại như WTO, APEC, ASEAN và các
Hiệp định mậu dịch tự do giữa ASEAN với các đối tác, chúng ta phải thực hiện
nghiêm túc và đầy đủ các cam kết, từ mở cửa thị trường đối với hàng hóa, dịch
vụ và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, đến cải cách cơ cấu, tăng
cường hợp tác trong các chính sách quản lý, những vấn đề an sinh xã hội, công
ăn việc làm.... Việc thực hiện các cam kết này là những minh chứng rõ nét nhất
về quá trình đổi mới, khả năng sẵn sàng thích ứng và sự năng động của nền kinh
tế Việt Nam. Tổng Giám đốc WTO Pasca Lamy đã đánh giá “sự cải cách kinh tế
và thay đổi chính sách của Việt Nam kể từ khi bắt đầu Đổi mới đã được cả cộng
đồng WTO công nhận”, “Việt Nam hiện là ngôi sao đang lên trong khu vực”.
Cùng với đó, Việt Nam đã được chọn là nơi tổ chức đăng cai nhiều sự
kiện đa phương quan trọng tăng cường hữu nghị và hợp tác quốc tế, phát huy thế

trận ngoại giao “đa binh chủng”, trong đó có Đại hội đồng liên Nghị viện
ASEAN lần thứ 31 (2010), Đại lễ Phật Đản Liên hợp quốc (2008), Hội nghị
Diễn đàn Kinh tế Đông Á lần thứ 19 (2010), Đại hội UNESCO thế giới lần thứ 8
(2011)…
3. Thực trạng công tác ngoại giao đa phương của Việt Nam hiện nay
Công tác đối ngoại đã góp phần đưa đất nước đi đúng xu thế của thời đại,
góp phần kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Với các nước lớn,
Việt Nam đã xây dựng được các khuôn khổ quan hệ ổn định, cùng có lợi, phù
hợp với lợi ích của đất nước về lâu dài. Các nước lớn cũng đặt Việt Nam ở vị trí

18


ngày càng cao trong chiến lược của họ ở khu vực và trên thế giới. Với các nước
láng giềng, chúng ta đã giữ được phên dậu, giữ được hòa hiếu, đã tìm ra hướng
đi chung với láng giềng, kể cả trong những lĩnh vực nhạy cảm (ví dụ như trong
vấn đề Mê-công với Lào). Với các cơ chế đa phương, Việt Nam đã mở ra không
gian rộng lớn hơn để có thể tham gia ngày càng sâu rộng, chủ động hơn, có thể
đóng vai trị lớn hơn, đóng góp thực chất hơn, đồng thời phục vụ thiết thực với
việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Cơng tác đối ngoại đã đồng đều hơn và có sự phối
hợp chặt chẽ hơn giữa các lĩnh vực (ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa) trên
các kênh (ngoại giao Đảng, Nhà nước, Quốc hội, đối ngoại nhân dân)
Thành tựu
Một là, công tác đối ngoại đã góp phần tiếp tục duy trì, củng cố mơi
trường hịa bình ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
chế độ XHCN. Điều này được thể hiện rõ trên các phương diện sau: Chúng ta đã
xử lý tốt và không ngừng đưa các mối quan hệ với các đối tác hàng đầu như
Trung Quốc, Mỹ, Nga, Liên minh châu Âu (nhất là Đức), Nhật Bản… đi vào
chiều sâu và ngày càng thực chất; Mặc dù thời gian qua, có nước đã tiến hành
cải tạo đảo/đá trái phép ở biển Đông, đã tiến hành quân sự hóa ồ ạt các đảo nhân

tạo đã chiếm đóng trái phép, đã có nhiều hành động chèn ép, vi phạm chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước ta, nhưng chúng ta đã khéo
léo, kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp,
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, vừa bảo vệ được độc lập, chủ quyền,
quyền chủ quyền, vừa giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
đất nước. Chúng ta cũng đang cùng ASEAN và Trung Quốc tích cực tham gia
đàm phán về COC, đẩy mạnh trao đổi về phân định vùng đặc quyền kinh tế với
Indonesia, tiếp tục duy trì các cơ chế đàm phán với Trung Quốc ở khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực nghiên cứu các khả năng hợp tác cùng phát triển;
Mặc dù các nước lớn thời gian qua ra sức vận động, lôi kéo Việt Nam tham gia
các tập hợp lực lượng mới, chúng ta đã khẳng định được đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, xử lý tương đối cân bằng quan hệ với các nước lớn… Chúng ta

19


cũng đã xử lý tốt quan hệ với các nước láng giềng. Trong thời gian từ 2013 –
2018, mặc dù tình hình ở Campuchia có nhiều biến động chính trị phức tạp,
chúng ta vẫn kiên trì hịa hiếu, duy trì mơi trường hịa bình, hữu nghị. Chúng ta
cũng đã hồn thành việc tăng dày, tôn tạo mốc giới với Lào; đang triển khai việc
thực hiện Nghị định thư và Hiệp định quy chế biên giới Việt – Lào. Với
Campuchia, hai nước cũng đã hoàn thành 84% việc phân giới cắm mốc và đang
xúc tiến hoàn tất văn kiện ghi nhận những kết quả đã đạt được. Việt Nam cũng
đang tích cực tham gia và ngày càng đóng vai trị quan trọng trong ASEAN, nhất
là trong việc xây dựng ba cộng đồng, duy trì đồn kết nội khối, duy trì vai trị
trung tâm của ASEAN, duy trì và củng cố quan hệ của ASEAN với các đối tác
bên ngoài; Chúng ta cũng đã đấu tranh kiên quyết, làm thất bại nhiều âm mưu
can thiệp của các lực lượng thù địch trong vấn đề dân chủ nhân quyền, tôn giáo;
kịp thời xử lý nhiều vụ việc phức tạp về chính trị đối ngoại, góp phần bảo vệ chế
độ, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội…

Hai là, cơng tác đối ngoại đã đẩy mạnh triển khai chủ trương tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế, đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu,
thực chất, phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước.Trong hơn hai năm
(từ 2016 – nay), Việt Nam đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản,
Australia; đối tác toàn diện với Myanmar, Canada, Hungary và New Zealand.
Đến nay Việt Nam đã có 16 đối tác chiến lược, 12 đối tác toàn diện. Chúng ta
cũng đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 10 hiệp định
đã hồn tất và đã có hiệu lực, 1 hiệp định chuẩn bị có hiệu lực, 1 hiệp định đã
được ký kết và đang trong quá trình hồn tất thủ tục để thơng qua và 4 hiệp định
đang trong quá trình đàm phán; thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt
Nam ngày càng mở rộng. Đến nay đã có 71 nước cơng nhận Việt Nam là nền
kinh tế thị trường.
Chúng ta tiếp tục tranh thủ được nhiều nguồn lực to lớn phục vụ cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ sau Đại hội XII đến nay,
chúng ta đã ký kết và đi vào triển khai hàng trăm thỏa thuận hợp tác quốc tế ở

20


các cấp từ trung ương tới địa phương. Công tác thông tin, tư vấn tới nhiều địa
phương, doanh nghiệp về tình hình kinh tế thế giới, chính sách kinh tế, thương
mại của các nước, các đối tác đã được tăng cường, kịp thời và được các địa
phương, doanh nghiệp đánh giá cao. Các nguồn lực to lớn cho phát triển như
đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển, hỗ trợ kỹ thuật tiếp tục được thu hút và
duy trì. Số lượng du khách tới Việt Nam không ngừng gia tăng. Hợp tác quốc tế
và hội nhập về y tế, giáo dục đào tạo, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được thúc đẩy.[1]
Ba là, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Bám sát tinh thần của Nghị quyết Đại hội XII về việc “Việt Nam là một
thành viên có trách nhiệm” và chủ động “nâng tầm ngoại giao đa phương”, Việt

Nam đã tích cực, chủ động trong các hoạt động ngoại giao đa phương, đặc biệt
là trong các vấn đề có lợi ích sát sườn với Việt Nam. Chúng ta không chỉ tham
gia các hoạt động đa phương đơn thuần, mà cịn tích cực đóng góp để xây dựng,
định hình các thể chế, luật lệ, chuẩn mực đa phương. Điều này được thể hiện rõ
nhất trong năm APEC Việt Nam 2017. Việt Nam cũng rất năng động, tích cực
trong các cơ chế của ASEAN, hợp tác tiểu vùng Mê-công; đảm nhiệm ngày càng
nhiều các trách nhiệm quốc tế như gìn giữ hịa bình của Liên Hợp Quốc (PKO),
Hội đồng nhân quyền… Chúng ta cũng đóng vai trị tích cực hơn trong các cơ
chế quản trị toàn cầu và xây dựng quan hệ hợp tác ngày càng tốt đẹp với nhiều
cơ chế, tổ chức, sáng kiến quốc tế như Nhóm các nước cơng nghiệp phát triển
(G7), Nhóm 20 nền kinh tế mới nổi và phát triển (G20, Diễn đàn hợp tác Á – Âu
(ASEM), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng phát triển hạ tầng
châu Á (AIIB)… Các nước lớn ngày càng coi trọng Việt Nam và đặt Việt Nam ở
vị thế ngày càng cao trong chiến lược của họ ở khu vực và trên thế giới. Việt
Nam được bầu làm Phó Tổng thư ký ASEAN, Phó Chủ tịch Ủy ban LPQT, Tổng
thư ký tổ chức Colombo…
Những hạn chế, bất cập
Đại hội XII đã nêu các hạn chế của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế

21


gồm: có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp đồng bộ,
hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập
quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những
chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết
hợp giữa các ngành, các địa phương cịn thiếu chặt chẽ. Cơng tác nghiên cứu
chiến lược, dự báo tình hình cịn hạn chế.[3]
Tuy nhiên, các hạn chế trong công tác đối ngoại nổi lên qua các điểm
chính sau. Một là, thời gian qua trong một số vấn đề, ở một số thời điểm nhận

thức của chúng ta khơng theo kịp tình hình. Chúng ta đã khơng lường hết được
những diễn biến phức tạp, nhanh chóng trong chính sách và quan hệ của các
nước lớn, nhất là của Mỹ và quan hệ Mỹ - Trung. Nguyên nhân của tình trạng
này chủ yếu là do các yếu tố khách quan, do tình hình thế giới, khu vực biến
động rất phức tạp, khó lường. Nhưng cơng tác nghiên cứu đánh giá tình hình và
dự báo chiến lược vẫn chưa được như mong muốn.
Hai là, việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn
vẫn chưa mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ
đi vào chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất và hiệu quả, triển
khai các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng các thể chế đa
phương, nhất là ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa
được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ ngành và địa phương vào công
tác đối ngoại cịn chưa đồng đều.
Ngun nhân của tình hình này bao gồm chưa có nhận thức rõ và đầy đủ
về một số vấn đề đối ngoại – sẽ nêu ở phần sau của chuyên đề, chưa huy động
được toàn bộ hệ thống tham gia công tác đối ngoại, nhất là trong chủ trương hội
nhập quốc tế và đối ngoại đa phương, một phần do khác biệt về lợi ích cơ chế
thống nhất quản lý đối ngoại chưa tối ưu, các nguồn lực dành cho công tác đối
ngoại, cả về vật chất và nhân sự còn hạn hẹp.
Những vấn đề đặt ra về đối ngoại
Công tác đối ngoại tiếp tục phải phục vụ yêu câu phát triển của đất nước

22


trong giai đoạn mới với thế và lực mới. Quy mô GDP của Việt Nam đã tăng gấp
30 lần so với năm 1986; thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng
gấp 24 lần so với năm 1986. Quy mô nền kinh tế hiện nay đạt khoảng 247 tỷ
USD, quy mô xuất nhập khẩu đạt gần 500 tỷ USD (gấp đôi GDP và đứng đầu
ASEAN về độ mở của nền kinh tế); tốc độ tăng trưởng bình quân đạt xấp xỉ

7%/năm. Về trung và dài hạn, Việt Nam được dự báo là nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất thế giới, trở thành nền kinh tế có mức thu nhập trung
bình cao vào khoảng 2030. Theo dự báo của OECD, Việt Nam có khả năng gia
nhập nhóm các nước phát triển OECD vào khoảng 2050.
Tình hình trên đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một chiến lược phát triển
mới trong đó các lợi ích quốc gia – dân tộc về an ninh, phát triển và vị thế của
Việt Nam đều đã lớn hơn cùng với thế và lực mới của đất nước. Trong khi đó,
chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới và khu vực đã đặt ra
những hoàn cảnh mới của việc chúng ta theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc
cũng như đặt ra những vấn đề mới đối với việc hoạch định và triển khai công tác
đối ngoại.
Các tác động đối với môi trường đối ngoại của Việt Nam:
Tác động thuận:
Việt Nam có thêm điều kiện và dư địa để củng cố và nâng cao vị thế ở
khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh các nước lớn gia tăng cạnh tranh ảnh
hưởng nhưng không đến mức đối đầu, tăng cường hợp tác nhưng chưa đến mức
có thỏa hiệp về chiến lược; các nước lớn đều có nhu cầu lơi kéo Việt Nam vào
các hình thức tập hợp lực lượng phong phú và đa dạng, từ cấp độ lớn (Ấn Độ Thái bình dương) đến nhỏ (tiểu vùng Mê Công). Việt Nam ở vào giao điểm giữa
các “đại sáng kiến” BRI và Ấn độ - Thái bình dương và RCEP và CPTPP, do đó
ở vào tâm điểm của các tập hợp lực lượng về địa chính trị và địa kinh tế. Riêng
về đối ngoại, trong 16 đối tác chiến lược, 10 đối tác toàn diện và hai đối tác quan
trọng khác là Lào và Campuchia, chưa có đối tác nào có dự báo sẽ có thay đổi
lớn đối với Việt Nam. Với vị trí địa chiến lược và sức mạnh tổng hợp, với kinh

23


nghiệm đối ngoại được tích lũy qua hơn 30 năm đổi mới, với vai trị thành viên
ASEAN, Việt Nam khơng những có thể tránh được sự lơi kéo vào cuộc tranh
giành ảnh hưởng giữa các nước lớn mà cịn có cơ hội tăng cường quan hệ với cả

Trung Quốc, Mỹ và các nước lớn khác.
Xu hướng bảo hộ và chống tồn cầu hóa tuy tăng lên nhưng khơng mạnh
như dự báo. Một mặt chúng ta có thể tham gia các FTA đa phương với sức ép ít
hơn, từ đó có thêm thời gian để tăng cường và hoàn thiện năng lực tự vệ và cạnh
tranh. Mặt khác, chúng ta có thể hóa giải các sức ép bảo hộ, nhất là từ Mỹ, bằng
các biện pháp thúc đẩy quan hệ song phương, nhất là dựa trên giá trị địa chiến
lược mới của Việt Nam.
Việt Nam có thể có điều kiện thuận lợi hơn trong cuộc đấu tranh với các
nhóm lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo can thiệp vào
công việc nội bộ. Xu hướng ưu tiên giải quyết các vấn đề nội bộ của Mỹ và đa
số các nước phương Tây và xu hướng ưu tiên các mục tiêu địa chính trị (nhất là
dưới chính quyền Trump) có thể làm giảm mức độ quan tâm và sức ép của các
nước này đối với việc phổ biến giá trị.
Tác động không thuận:
Môi trường đối ngoại sẽ phức tạp và nhiều thách thức hơn. Do tính chất
khó đốn định của tình hình khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng, nhất là do
các đối tác chủ chốt của ta điều chỉnh chiến lược và thị trường thế giới thường
xun biến động, mơi trường chính trị, an ninh, kinh tế thế giới sẽ bất ổn định
hơn, với các tác động nhanh, mạnh và bất ngờ hơn. Nhiệm vụ bao trùm là giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định do đó sẽ gặp thách thức nhiều hơn.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng gặp một số thách thức mới.
Bảo vệ chủ quyền của Việt Nam sẽ khó khăn hơn, đồng thời khả năng thực thi
quyền chủ quyền để khai thác tài nguyên (nghề cá và dầu khí) cũng bị hạn chế
hơn. An ninh sườn phía Tây của Việt Nam tiếp tục gặp thách thức lớn hơn, tác
động tiêu cực đến lợi ích an ninh, phát triển của Việt Nam.
Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam có thể sẽ gặp phải một số thách thức

24



như nguy cơ lệ thuộc lớn hơn vào nền kinh tế sức ép bảo hộ từ các nền kinh tế
phát triển tăng lên, nhất là khi Mỹ và châu Âu chiếm tới 40% thị phần xuất khẩu
của ta trong khi sức ép cạnh tranh mạnh từ Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ
mạnh hơn (cả ở thị trường trong nước và nước ngoài) khi họ cũng buộc phải
chuyển hướng thương mại từ Mỹ và EU; xu hướng dịch chuyển sản xuất về các
nền kinh tế phát triển có thể làm giảm sức hấp dẫn về đầu tư nước ngoài của
Việt Nam nhất là trên các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cao, Việt Nam tiếp tục
phải đối diện với nguy cơ trở thành “bãi rác công nghệ” của các nước, nhất là
Trung Quốc, các thể chế đa phương tham gia “điều tiết” q trình tồn cầu hóa
về thương mại, đầu tư như WTO, APEC ngày càng giảm vai trò, và cọ xát
thương mại giữa các nước có thể tác động trực tiếp và gián tiếp đến Việt Nam.
Công tác đối ngoại đa phương cũng sẽ gặp thách thức hơn, do vai trò của
các thể chế đa phương phổ quát trên mặt các kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội
đang có xu hướng giảm đi; trong khi đó các cơ chế mới theo hướng an ninhchiến lược thì lại có xu hướng phân tuyến và phục vụ cạnh tranh chiến lược
nước lớn; Một số nước lớn đang sử dụng các cơ chế đa phương mới để tập hợp
lực lượng và định hình luật chơi mới có lợi cho họ, ASEAN tiếp tục bị chia rẽ và
khó đạt đồng thuận về một số lĩnh vực liên quan đến lợi ích cơ bản của ta, nhất
là vấn đề biển Đông. Công cụ ASEAN ngày càng “giảm giá,” đặc biệt đối với
việc bảo vệ lợi ích của Việt Nam trên biển Đơng, tiểu vùng Mê Công và đối với
chủ trương đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương để qua đó nâng cao vị
thế/uy tín khu vực và quốc tế của Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra với công tác đối ngoại của Việt Nam thời gian tới:
Một là, thách thức từ yêu cầu xử lý hiệu quả, hài hòa quan hệ với các
nước lớn. Cạnh tranh và cọ xát chiến lược nước lớn sẽ gay gắt, liên tục về mức
độ và toàn diện về lĩnh vực. Hiện nay, mặc dù quan hệ nước lớn chưa đến mức
Chiến tranh Lạnh mới, chưa chia phe nhưng đã xuất hiện những dạng tập hợp
lực lượng mới đa dạng và linh hoạt. Điều này khiến cho bài toán xử lý quan hệ
của Việt Nam với các nước lớn sẽ khó khăn hơn.

25



×