Tiểu luận Triết học
LỜI NÓI ĐẦU
Một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm,phát triển cân đối,bền vững hay
không ổn định nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố,trong đó yếu tố quản lí của nhà
nước có vai trò quan trọng nhất,quyết định đến sự phát triển của thị trường và
toàn bộ nền kinh tế.
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH,nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là
phát triển kinh tế,nâng cao đời sống nhân dân.Chúng ta đang xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Tuy nhiên nền kinh tế thị trường
có những khuyết tật không thể khắc phục được như khủng hoảng,lạm phát thất
nghiệp…đặc biệt khủng hoảng chu kì ngày càng bị rút ngắn đã đặt ra cho nền
kinh tế những hậu quả mà nó không tự giải quyết được.Những hậu quả đó buộc
nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế để khắc phục những khuyết tật như ô
nhiễm môi trường,nạn thất nghiệp,những vấn đề của hàng hoá công cộng…
SV Thân Thùy Dung
Tiểu luận Triết học
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC:
1.Quan điểm về nhà nước trước Mác:
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng nhà nước tồn tại vĩnh viễn, tồn tại như thế
nào là phụ thuộc quan niệm con người.
- Theo Hêghen:
Nhà nước thể hiện sự thống nhất quyền lực sống động trên cơ sở phân hoá
hợp lý 3 quyền lực:
Quyền đại diện cho ý chí của các tầng lớp trong XH.
Quyền của các đặc thù.
Quyền của cái đơn nhất, đó là quyền của nguyên thủ quốc gia.
Nhà nước pháp quyền trước hết là một nhà nước hợp lý,chỉ có thể được
hình thành trong XH hiện đại, luật pháp được đề cao.
Nhà nước là tổng hợp sự thống nhất giá trị nội dung pháp luật và niềm tin
đạo đức.
Là sự hình thành của tư tưởng đạo lí, sự tồn tại của nhà nước.
Nhà nước có giá trị tuyệt đối tự thân mà không phụ thuộc vào XH. Sự tồn
tại của nhà nước đứng trước sự tồn tại của XH.
- Theo Phoiơbắc:
Quan điểm nhấn mạnh giá trị con người, tính chất con người, chủ nghĩa
không tưởng, chính trị về một nhà nước của tất cả và dành cho tất cả.Quan điểm
về nhà nước trước Mác vẫn mang tính chất thần thánh tôn giáo.
2.Quan điểm chủ nghĩa Mác về nhà nước:
2.1.Nguồn gốc nhà nước:
“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những môi trường giai cấp không
thể điều hoà được.Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt kết quả,
những môi trường giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện và
ngược lại sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những môi trường giai cấp là
không thể điều hoà được”.
Nhà nước ra đời và tồn tại phát triển không phải do thượng đế, chúa trời
hay ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào đó. Nó là tất yếu kết
quả để làm dịu xung đột giai cấp và khống chế đối kháng giai cấp trong vòng trật
SV Thân Thùy Dung
2
Tiểu luận Triết học
tự của chế độ kinh tế-xã hội mà trong đó giai cấp này có thể thống trị, bóc lột
giai cấp khác
Nhà nước là sự kiến lập một trật tự, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố
sự áp bức bắng cách làm dịu xung đột giai cấp. Nhà nước là công cụ chuyên
chính của một giai cấp-giai cấp thống trị về kinh tế.
2.2. Đặc trưng:
Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ, vùng nhất định.Quyền lực nhà
nước có hiệu lực đối với tất cả các thành viên sinh sống trên địa bàn lãnh thổ
thuộc biên giới quốc gia ấy.
Nhà nước thiết lập một hệ thống cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Nhà nước thiết lập một hệ thống thuế khoá để nuôi bộ máy nhà nước, mọi
hoạt động của nhà nước đều dựa trên nguồn thu từ thuế.
2.3. Chức năng:
Chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước:
Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, bảo đảm sự thống trị
của giai cấp cầm quyền về chính trị.
Nhà nước dùng mọi phương tiện công cụ để bảo vệ và phát triển nền tảng
kinh tế mà giai cấp cầm quyền đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị trong XH.
Nhà nước truyền bá hệ tý tưởng cùng những quan điểm về chính trị của
giai cấp cầm quyền trong XH.
Nhà nước chống lại mọi lực lượng thù địch để củng cố và tăng cường
quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền.
Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng văn hoá xã hội để đáp ứng nhu cầu sản
xuất và đòi sống của các thành viên trong XH.
Chức năng đối nội và đối ngoại:
SV Thân Thùy Dung
3
Tiểu luận Triết học
Chức năng đối nội: Nhà nước thực hiện chức năng đối nội để duy trì trật
tự an KT-XH, an ninh chính trị văn hoá và trong trật tự phù hợp lợi ích giai cấp
cầm quyền.
Chức năng đối ngoại: bảo vệ lãnh thổ đất nước chủ quyền quốc gia và duy
trì quan hệ với các quốc gia khác vì lợi ích giai cấp cầm quyền, vì lợi ích quốc
gia. Trong một số trường hợp có thể mở rộng lãnh thổ.
2.4.Kiểu nhà nước:
Là phạm trù dùng để chỉ quyền lực nhà nước của giai cấp nào trên cơ sở
kinh tế nào và tương ứng hình thái xã hội nào.
Nhà nước chủ nô: mọi quyền lực thuộc về giai cấp chủ nô. Luật pháp
nhà nước nô lệ là con người.
Nhà nước phong kiến: là nhà nước của giai cấp địa chủ quí tộc phong
kiến.
Nhà nước tư sản: là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản.”Pháp luật
bảo vệ mọi người như nhau,nó bảo vệ tài sản của những người có của chống lại
sự xâm phạm của khối lượng lớn những người không có của,không có gì cả
ngoài 2 cánh tay va dần dần bị bần cùng hoá,bị phá sản và biến thành giai cấp vô
sản”.
Nhà nước vô sản: là chính quyền của nhân dân lao động. Dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất và lấy liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của
ĐCS làm nền tảng xã hội của mình.
II. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM:
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước ,nhà nước pháp quyền:
1.1.Quan niệm Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,do dân,vì dân:
Nhà nước của dân:
Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân làm chủ, là người có địa vị
cao nhất có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, dân
tộc .
SV Thân Thùy Dung
4
Tiểu luận Triết học
Điều 1(Hiến Pháp 1946):): toàn bộ quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,giai cấp, tôn
giáo
Điều 4(Hiến pháp 1959):): toàn bộ quyền lực trong nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà thuộc về nhân dân lao động. Nhân dân làm chủ nhà nước thông
qua Quốc Hội, HĐND các cấp do nhân dân trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân
Dân là chủ thể của quyền lực, người cầm quyền cán bộ công chức nhà
nước chỉ là người được uỷ quyền .
Nhà nước do dân:
Nhà nước do dân làm chủ,nhà nước phải tin dân và dựa vào dân.
Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử thì cũng có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn theo ba chế độ từ thấp đến cao.
Nhà nước do dân nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ,
sức lực xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
Nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình,
kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu do
mình bầu ra.
Nhà nước vì dân:
Nhà nước phục vụ nhân dân được tổ chức theo 1 mục tiêu duy nhất:không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân đúng với phương châm”việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm,việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Nhà nước điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp ,tầng lớp
XH, các bộ phận dân cư.
Thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu tham nhũng, đặc quyền,
đặc lợi.
1.2.Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam:
SV Thân Thùy Dung
5
Tiểu luận Triết học
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam làm cho hoạt động của nhà
nước ta mang lại hiệu quả xã hội thực sự.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng dân chủ
được mở rộng, người dân sống và làm theo luật định.
Nhà nước pháp quyền là nhà nhà nước phải thể hiện được việc điều hành
và quản lý xã hội bằng pháp luật.
Pháp quyền là phương tiện, còn hiệu quả quản lý xã hội làm cho đất nước
ngày càng tằng trưởng, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao.
Sử dụng pháp luật như một phương tiện để xây dựng và củng cố nhà nước.
Dựa hẳn vào lực lựng nhân dân, lực lượng lao động làm nền tảng để xây
dựng nhà nước, xây dựng xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở xây dựng nhà nước hợp pháp,
hợp hiến.
Thực thi pháp luật phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, bình đẳng.
Nổi bật trong ý tưởng trị nước cua Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa “pháp trị”và “đức trị”.người nhận rõ pháp luật phải dựa vào đạo đức.
2.Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế:
2.1. Xây dựng một hệ thống chính sách vĩ mô ổn định, hợp lý nhằm định
hướng cho thị trường phát triển theo đúng mục tiêu, đồng thời tạo lòng tin cho
các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất,
kinh doanh. Bài học thực tế của các nước phát triển đã cho thấy: hệ thống chính
sách vĩ mô, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho nền
kinh tế phát triển bền vững, lành mạnh, đúng định hướng, đồng thời nó còn là cơ
sở tạo ra một sân chơi bình đẳng , rộng rãi cho các nhà doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Với ý nghĩa đó, trong những năm thực hiện đường lối đổi mới vừa
qua, Nhà nước ta đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật (đến nay đã
có 43 luật, bộ luật, 45 pháp lệnh và hàng trăm văn bản pháp quy khác được ban
hành) nhằm đáp ứng kịp thời cho công tác quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Cùng với việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản
pháp luật, những chính sách điều hành quản lý vĩ mô cũng không ngừng được
SV Thân Thùy Dung
6
Tiểu luận Triết học
củng cố, hoàn thiện tạo nên một cơ chế quản lý mới, trong đó chức năng quản lý
vĩ mô của Nhà nước ngày càng được tăng cường, đồng thời quyền chủ động ở cơ
sở và các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. ở một chừng mực nào đó, Nhà
nước đã thể hiện đúng vai trò, chức năng là người trọng tài điều khiển chứ không
trực tiếp tham gia vào cuộc chơi trong không gian của thị trường.
Cơ chế quản lý mới đã có sự phân định rõ chức năng quản lý hành chính
nhà nước về kinh tế của các bộ, ngành với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Theo đó là việc giảm dần cơ chế bộ chủ quản đã
tạo cho các công ty, các doanh nghiệp quốc doanh có nhiều quyền tự quyết định
trong sản xuất kinh doanh, đồng thời phía Nhà nước đã giảm được gánh nặng
bao cấp. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ chế quản lý vĩ mô, thiết lập sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho sự phát triển của thị trường
trong nước.
2.2. Vai trò tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và bình
đẳng
Môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn được biểu hiện thông qua nhiều
yếu tố như: hạ tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định, nền hành chính
rõ ràng và bộ máy công quyền trong sạch, lành mạnh... Những yếu tố trên đều do
Nhà nước (và chỉ có Nhà nước) tạo dựng nên nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài
nước phục vụ cho mục tiêu phát triển .
Môi trường kinh doanh thuận lợi còn thể hiện ở sự lành mạnh, bình đẳng
trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân hoạt động trong một không gian kinh tế. Bởi vì, kinh tế thị trường
lấy cạnh tranh làm cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường, Nhà
nước cần tạo ra cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Nhưng muốn có
cạnh tranh lành mạnh, trước hết phải hạn chế và chống độc quyền, bởi vì độc
quyền là "bản án tử hình" của cơ chế thị trường, dù đó là độc quyền nhà nước
hay độc quyền tư nhân.
Kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy, đối với những nền kinh tế đang trong
thời kỳ chuyển đổi như ở nước ta hiện nay, thì cạnh tranh chưa thực sự đi vào
tiềm thức trong hoạt động kinh tế, chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển
của thị trường. Trong khi đó, độc quyền nhà nước vẫn đang ngự trị trên nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế.
SV Thân Thùy Dung
7
Tiểu luận Triết học
Độc quyền nhà nước lại chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính chứ không
phải dựa trên năng lực hoạt động kinh tế, bởi vì chính các doanh nghiệp thuộc
khu vực nhà nước hoạt động không có hiệu quả. Độc quyền dựa trên quyền lực
hành chính được xem như rào cản hành chính đối với cạnh tranh.
2.3. Vai trò bảo hộ
Để thị trường phát triển, Nhà nước cần có sự bảo hộ hợp lý đối với một số
lĩnh vực và ngành hàng trong nước. Bởi vì, Nhà nước là chủ thể quản lý cao
nhất, là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng quốc gia, chỉ có Nhà
nước mới có đủ tư cách, sức mạnh, tiềm lực để thực hiện quyền bảo hộ. Thông
qua các cơ quan bảo vệ pháp luật và bộ máy hành chính, nhà nước có trách
nhiệm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động trên thị trường, như: quyền sở hữu (dù là sở hữu nhà nước hay sở hữu tư
nhân), quyền tự do kinh doanh theo pháp luật quy định, bảo vệ bản quyền, nhãn
hiệu hàng hoá... Theo nghĩa bao quát hơn, hình thức bảo hộ của Nhà nước còn
được thể hiện ở sự bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ bên
ngoài, bảo vệ những quyền lợi của công dân, các tổ chức doanh nghiệp trong
nước khi có sự tranh chấp với các tổ chức, các tập đoàn kinh tế nước ngoài.
2.4. Vai trò can thiệp, điều chỉnh, bổ sung thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không những chỉ giữ vai trò bảo
hộ, khuyến khích, tạo lập môi trường kinh doanh, mà còn có khả năng can thiệp,
điều chỉnh, bổ sung cho thị trường, hướng thị trường vận động, phát triển theo
đúng mục tiêu quản lý. Đây là một vấn đề thực tế, một nhiệm vụ quan trọng
thuộc chức năng quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn không ít quan
điểm cho rằng: Nhà nước không thể và cũng không nên can thiệp vào thị trường.
Điều tiết thị trường là khả năng tác động, can thiêp của Nhà nước (chủ thể
quản lý) vào quá trình vận động của thị trường nhằm loại bỏ hoặc hạn chế những
ảnh hưởng xấu của thị trường, hướng thị trường vận động, phát triển theo đúng
mục tiêu đã định.
III.THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY:
1. Thành tựu:
SV Thân Thùy Dung
8
Tiểu luận Triết học
1.1. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm
trước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân
7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838
nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng
640 USD).
Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch 4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng
3,8%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được
bảo đảm;. Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến; độ che phủ
rừng từ 33,7% năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng
10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất
lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm
(kế hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước
Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có
tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất
của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%); giá trị tăng thêm tăng
gần 7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao
hơn mức tăng GDP.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch
11 - 12%). Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản
phẩm du lịch. Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu.
Bưu chính - viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối năm 2005
đạt 19 máy điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân; 100% xã có điện
thoại, hầu hết các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc điểm bưu điện. Các dịch
vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y tế, giáo
dục, đào tạo, văn hoá... đều có bước phát triển.
1.2. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
SV Thân Thùy Dung
9
Tiểu luận Triết học
Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ
36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm
nghiệp và thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ
trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
Trong từng ngành kinh tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản
xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế
và vùng sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh,
đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây
dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm
2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong
các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ
trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực
kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối
nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của
nền kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên
nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh
tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP).
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm
15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao
thương quốc tế.
1.3 Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh, vượt mức dự kiến trên 30% so với
kế hoạch, (gấp 2 lần so với 5 năm trước). Vốn đầu tư của dân tăng nhanh; tỉ lệ
vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần 39% năm
2005. Vốn đầu tư trong nước chiếm 72% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
SV Thân Thùy Dung
10
Tiểu luận Triết học
Đầu tư đã tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng. Lĩnh vực kinh tế
chiếm 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (nông, lâm nghiệp và thủy sản trên 13%,
công nghiệp và xây dựng trên 44%, giao thông, bưu điện trên 12%); lĩnh vực xã
hội chiếm gần 27% (nhà ở, cấp thoát nước, công trình công cộng khác gần 14%,
giáo dục, đào tạo gần 4%, y tế - xã hội trên 2%, văn hoá, thể thao gần 2%, khoa
học và công nghệ trên 1%). Quy mô vốn đầu tư ở các vùng đều tăng; vùng
nghèo, xã nghèo được Nhà nước quan tâm đầu tư nhiều hơn.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã tập trung cho việc xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ
các vùng khó khăn (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,2%; giao
thông vận tải, bưu điện 27%; giáo dục, đào tạo 8,9%; y tế - xã hội 6,9%; văn hóa,
thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%). Vốn đầu tư của doanh nghiệp tăng
nhanh, không chỉ phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ mà
còn tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đô thị. Vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục được duy
trì và tăng thêm, tạo nhiều công trình kết cấu hạ tầng và sản phẩm xuất khẩu.
1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý nhà nước được đổi mới một bước
quan trọng. Một số loại thị trường mới hình thành; các loại thị trường hàng hoá,
dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài chính, bất động sản có bước phát
triển phù hợp với cơ chế mới.
Năm năm qua, đã giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo
môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Quỹ tiết kiệm tăng cao, bình quân khoảng 9%/năm, đồng thời, quỹ tiêu
dùng tăng 7%/năm (tiêu dùng bình quân đầu người tăng gần 5,7%/năm); nhờ đó
đã có điều kiện vừa đẩy mạnh đầu tư phát triển, vừa cải thiện đời sống nhân dân.
Tiềm lực tài chính nhà nước ngày càng được tăng cường; thu ngân sách
tăng trên 18%/năm, tỉ lệ GDP huy động vào ngân sách bình quân hàng năm đạt
23,8%, vượt kế hoạch. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng trên 18%/năm; chi đầu
SV Thân Thùy Dung
11