Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Mối QUAN hệ GIỮA QUYỀN CON NGƯỜI với các LĨNH vực KHÁC của đời SỐNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.12 KB, 21 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƯỜI VỚI CÁC LĨNH VỰC
KHÁC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI, VẬN DỤNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ ĐA DẠNG VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
MỞ ĐẦU
Hiện nay, quyền con người đã trở thành một vấn đề toàn cầu, mối quan
tâm lớn của cộng đồng quốc tế và như Đảng ta đã khẳng định, là nguyện vọng
chung của nhân loại, thành quả đấu tranh của loài người qua nhiều thế hệ. Liên
hợp quốc là tổ chức tồn cầu lớn nhất, giữ vị trí trung tâm và đóng vai trị ngày
càng quan trọng trong đời sống quốc tế. Hiến chương Liên hiệp quốc nêu rõ việc
bảo vệ các quyền cơ bản và phẩm giá con người là một trong những mục tiêu
hàng đầu của Liên hiệp quốc và trên thực tế nhiệm vụ thúc đẩy, bảo vệ quyền
con người cùng với việc duy trì hịa bình-an ninh quốc tế và hợp tác vì phát triển
đã trở thành ba trụ cột trong hoạt động của tổ chức này.
Ở Việt Nam, năm mươi tư dân tộc anh em ln đồn kết, tương trợ lẫn
nhau trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, quyền con người và
quyền công dân luôn được coi trọng và bảo đảm theo những giá trị căn bản nhất.
Mọi hành vi vi phạm quyền công dân, sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm
cấm. Mọi mặt trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số
được cải thiện không ngừng. Thực tế hiện nay là văn hóa, đời sống tơn giáo, tin
ngưỡng hết sức phong phú nhưng Đảng, nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và
có các chính sách đúng đắn bảo vệ quyền con người cũng như sự đa dạng văn
hóa, tín ngưỡng của con người Việt Nam nói chung, cũng như các dân tộc sinh
sống trên đất nước Việt Nam nói riêng.


1. Mối quan hệ giữa quyền con người với quyền công dân
Quyền con người lần đầu tiên được trang trọng ghi nhận trong Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa ban cho họ những quyền khơng ai có thể xâm hại được ,trong những
quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.


Bản Tuyên ngôn nhân quyền và công dân quyền nổi tiếng của nước Pháp năm
1971 cũng khẳng định:”Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và ln
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Quyền con người được luật
pháp quốc tế bảo vệ .
Ngày 19/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua và công
bố tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
Ngày 19/12/1966, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua hai công ước
quốc tế về quyền con người.
Quyền công dân cũng được mọi công dân của mỗi nước quan tâm và
được nhà nước bảo vệ, mà cụ thể ở Việt Nam là quyền và nghĩa vụ của công dân
được thể hiện trong bốn bản Hiến pháp và ngày càng rõ nét.
Thêm vào đó, quyền con người và quyền cơng dân là những vấn đề
có lịch sử lâu đời cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận, đều gắn liền và
là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng tư sản, phản ánh quá trình
nhân loại tự giải phóng mình.
So sánh quyền con người và quyền cơng dân
Điểm giống nhau giữa quyền con người và quyền công dân
Quyền con người và quyền công dân là những quyền cơ bản, quan trọng
được quy định trong Hiến pháp.
Quyền công dân và quyền con người là hai phạm trù rất gần gũi với nhau
nhưng không đồng nhất. Nhân quyền và dân quyền đều là những quyền lợi mà
mọi công dân đều được hưởng và được bảo vệ (trừ những người không có quốc
tịch). Trong đó quyền cơng dân có nghĩa hẹp hơn so với quyền con người, về
bản chất quyền công dân là những quyền con người được nhà nước thừa nhận và

2


áp dụng cho cơng dân nước mình. Một số quyền cơng dân cũng là quyền con
người như: quyền được có nhà ở, quyền tự do kinh doanh buôn bán, tự do

ngôn luận, quyền được học tập, quyền được tham gia quản lí nhà nước và xã
hơi, quyền được bảo vệ về sức khỏe, quyền đa dạng văn hóa…
Ở Việt Nam quyền con người và quyền công dân ra đời và phát triển gắn
liền với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lịch sử lập hiến nước
nhà. Nó được thể hiển một cách nhất quán trong cả 4 bản hiến pháp, ghi nhận
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Đất nước ngày càng phát
triển,nhân quyền và dân quyền cũng ngày 1 được mở rộng thể hiện sự tôn trọng
của nhà nước với quyền lợi của nhân dân,nâng cao niềm tin của nhân dân với đất
nước. Sự quản lí của nhà nước không nhằm hạn chế các quyền và tự do của con
người mà mong muốn phát triển hoàn thiện hơn các quyền con người mà nhân
dân Việt Nam đáng được hưởng đã ghi nhận trong các công ước quốc tế. Một cá
nhân (trừ những người không quốc tịch) về danh nghĩa đều là chủ thể của cả hai
loại nhân quyền và dân quyền nếu họ sinh sống trong quốc gia mà họ đăng kí
quốc tịch. Nếu đang sinh sống tại nước ngồi thì họ sẽ chỉ được hưởng những
quyền con người cơ bản như “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” ngoài ra một số quyền lợi đặc thù như bầu cử, ứng cử thì họ sẽ khơng
được thừa nhận và bảo vệ.
Phân biệt quyền con người và quyền cơng dân
Tiêu chí

Quyền con người

Định

Quyền

nghĩa

quyền) là


con

Quyền cơng dân

người (NhânQuyền công dân (Dân quyền) là

những quyền

tựquyền của một người được cơng

nhiên của con người có từ lúc đãnhận theo các điều kiện Pháp lý để
thành hình bào thai tới lúc đã chếttrở thành thành viên hợp pháp của
đi và không bị tước bỏ bởi bất cứ một Quốc gia có chủ quyền (Quốc
ai hay bất cứ chủ thể nào. Theotịch). Một người có thể là cơng dân
định nghĩa của Văn phịng Cao ủy của nhiều Quốc gia hoặc khơng là

3


Liên Hiệp Quốc, nhân quyền làcông dân của bất cứ Quốc gia nào.
những bảo đảm pháp lý toàn cầuMỗi một Quốc gia đều có các quy
có tác dụng bảo vệ các cá nhân vàđịnh pháp lý riêng để cho một người
các nhóm chống lại những hànhtrở thành cơng dân Quốc gia đó, và
động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn được hưởng các quyền riêng biệt,
hại đến nhân phẩm, những tự do đồng thời phải thực hiện các nghĩa
cơ bản của con người.
Tư tưởng xuất hiện trong các
Lịch sử nền văn minh cổ đại; luật nhân
quyền quốc tế chỉ có từ 1945
Cơ sở


vụ của mình.
Từ cách mạng tư sản (khoảng thế kỷ
16)

Tuyên ngôn độc lập của HợpTuyên ngôn Nhân quyền và Dân

pháp lý chủng Quốc Mỹ 1779

Quyền của Cách mạng Tư sản Pháp

Tuyên ngôn Nhân Quyền và Dân1789.
quyền của cách mạng Tư sảnHiến pháp hoặc Luật cơ bản của
Pháp 1789

Quốc gia.

Tun ngơn Quốc tế Nhân quyền
1948.
Cơng ước về chính sách việc làm
1964
Cơng ước Quốc tế về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc
1965
Công ước về quyền của những
người khuyết tật về tâm thần
1971
Cơng ước Quốc tế về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử chống
lại Phụ nữ 1979

Cơng ước chống tra tấn và các

4


hình thức trừng phạt hay đối xử
tàn ác, vơ nhân đạo hoặc hạ thấp
nhân phẩm 1984
Hiến pháp hoặc Luật cơ bản của
Quốc gia
Các văn bản pháp lý Quốc tế khác
Tất cả những ai là con người, từ Còn chủ thể của quyền cơng dân có
lúc bào thai đã thành hình, đượcthể là “các cá nhân đặt trong
sinh ra cho tới lúc đã chết đi. Nóimối quan hệ với nhà nước, dựa trên
cách khác, quyền con người đượctổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp
áp dụng một cách bình đẳng vớilý của mỗi cá nhân được nhà nước
tất cả mọi người thuộc mọi dânđó quy định tạo nên địa vị pháp lý
tộc đang sinh sống trên phạm vicủa công dân”, do vậy quyền cơng
Chủ thể

tồn

cầu,

khơng

phụ

thuộcdân chỉ mang tính chất quốc gia.


vào biên giới quốc gia, tư cách cáĐối với những chủ thể không phải
nhân hay môi trường sống củalà công dân nước sở tại hoặc không
chủ thể.

mang quốc tịch của một nhà nước
nào thì họ vẫn có được những quyền
hạn chế của công dân hoặc phải
thực thi những nghĩa vụ cũng hạn
chế của công dân đối với xã hội, nhà
nước nơi họ sinh sống, cư trú.

Bản

Là những quyền cơ bản tự nhiên Bao gồm cả Nhân quyền được Quốc

chất

mà có khơng ai hay bất cứ chủ gia thừa nhận. Tuy nhiên có những
thể nào có thể tước bỏ hay ban quyền đặc trưng riêng biệt khác mà
phát, kể cả khi người đó là ngườiphải là cơng dân thì mới được
khơng quốc tịch, người bị hạn chếhưởng tại Quốc gia đó. Người được
các quyền công dân. Tuy nhiênhưởng quyền này phải thực hiện các
khi có sự xung đột giữa quyềnnghĩa vụ tương ứng theo quy định

5


cơng

dân




quyền

conPháp lý trước đó.

người, Pháp luật của một số Quốc
gia cho phép được tước đoạt một
số quyền con người cơ bản như
quyền được sống, quyền mưu cầu
hành phúc…
Quyền con người mang tính độc
lập,tính phổ biến, phổ qt và có
những giá trị chung đối với toàn
thể nhân loại: Điều 14 Hiến pháp
2013 nước ta ghi nhận: “Ở nước
Tính

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt

chất

Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp
luật.”


Quyền cơng dân mang tính quốc
gia: Để trở thành cơng dân của một
nước, các cá nhân bao giờ cũng phải
có quốc tịch của nước đó. Tư cách
cơng dân mang đến cho cá nhân một
địa vị pháp lý đặc biệt trong quan hệ
với nước mà họ mang quốc tịch.
Dựa trên những điều kiện cụ thể của
mình mà nhà nước quy định cho
công dân những quyền và phải thực
hiện những nghĩa vụ nhất định.

Căn

Căn cứ phát sinh về quyền con Khác với quyền con người, căn cứ

cứ phát

người: có hai trường phái cơ bản phát sinh của quyền công dân là dựa

sinh

đưa

quyền

nhau:

ra quan


điểm trái

ngượctrên cơ sở quốc tịch.Tuy nhiên cách
xác định quốc tịch của mỗi quốc gia

Thứ nhất, những người theo họccó sự khác nhau. Có quốc gia xác
thuyết về quyền tự nhiên thì chođịnh quốc tịch theo huyết thống có
rằng quyền con người là những gìquốc gia lại xác định theo nới
bẩm sinh vốn có mà mọi cá nhânsinh.Như vậy để trở thành công dân
khi sinh ra đều được hưởng.

của một nước cần phải đáp ứng

Thứ hai, theo học thuyết về pháp được đầy đủ các điều kiện do pháp
lí, trong đó quyền con ngườiluật nước đó quy định.. Quyền cơng

6


khơng phải là bẩm sinh vốn có dân xuất phát từ quyền con người –
một cách tự nhiên mà phải do cácgiá trị trị được thừa nhận chung của
nhà nước xây dựng và pháp điểnnhân loại nhưng được nâng lên
hóa thành các quy định pháp luậtthành quyền của công dân và được
hoặc xuất phát từ truyền thốngquy định trong hiến pháp của quốc
văn hóa.

gia được thừa nhận chung của nhân

Qua đây có thể thấy được, theoloại nhưng được nâng lên thành
thuyết tự nhiên quyền con người quyền của công dân và được quy

có tính thống nhất trong mọi hồn định trong hiến pháp của quốc gia.
cảnh, mọi thời điểm thì quyền
con người theo thuyết pháp lý lại
mang tính chất khác biệt tương
đối về mặt văn hóa chính trị. Mặc
dù vậy nhưng không thể phủ nhận
bất cứ học thuyết nào, bởi lẽ
trong khi về hình thức hầu hết các
văn kiện pháp luật đều thể hiện
quyền con người dưới hình thức
pháp lí thì trong tun ngơn tồn
thế giới về quyền con năm1948
và một người văn kiện pháp luật
ở một số quốc gia quyền con
người được khẳng định một cách
rõ ràng là quyền tự nhiên vốn có
khơng thể chuyển nhượng.


Luật Quốc tế về Quyền con ngườiKhác so với nhân quyền, cơ chế

chế đảm có một hệ thống cơ chế đảm bảođảm bảo dân quyền hẹp hơn. Quyền
bảo thực việc tôn trọng, thực hiện và bảocơng dân bó hẹp trong mối quan
hiện

vệ quyền con người khá rộng. Từ hệ của một Nhà nước với cá nhân,

7



cơ chế có tính tồn cầu, khu vựcđược ghi nhận trong văn bản pháp
tới Quốc gia bằng các hình thức lý cao nhất. Mọi cá nhân của một
thực hiện là báo cáo của các Quốcnước mang quốc tịch của nước đó
gia thành viên, thiết lập các tổđồng thời là chủ thể của quyền con
chức giám sát về Nhân quyền củangười và quyền công dân.
quyền

Liên hợp Quốc lẫn các tổ chứcViệc thực hiện quyền cơng dân hay
khu vực.

có thể nói là quy định về quyền
công dân tại các quốc gia khác nhau
thì khác nhau bởi nó phụ thuộc
vào chế độ chính trị, trình độ phát

triển kinh tế, xã hội.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù khác nhau, song có
mối liên hệ rất chặt chẽ, tác động, bổ sung lẫn nhau. Khái niệm và viễn cảnh về
quyền con người có thể được nhìn nhận qua lăng kính của quyền công dân và
ngược lại. Thực tế cho thấy sự gắn bó giữa quyền con người và quyền cơng dân
ngày càng trở lên mật thiết, đến nỗi trong một số trường hợp rất khó phân biệt
và trong một số bối cảnh khơng cần thiết phải phân biệt giữa chúng (ví dụ các
quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm,…). Sự tương đồng
kể trên khiến cho những nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân trở lên khăng khít, khơng thể tách rời, kể cả khi những nỗ lực này gắn liền
với những chủ thể tương đối khác nhau.
Mặc dù vậy, do những khác biệt nhất định về tính chất, đối tượng và phạm
vi điều chỉnh, quyền con người và quyền công dân vẫn sẽ phát triển theo hai
“kênh” khác nhau mà sẽ khơng bao giờ hồ nhập hồn tồn, trừ khi xã hội lồi
người khơng cịn nhà nước và pháp luật. Điều này địi hỏi các chủ thể có liên

quan, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, các nhà nước và các tổ chức xã hội dân
sự ở các quốc gia cần tiếp tục xây dựng và củng cố các cơ chế hợp tác để cùng
thúc đẩy và bảo vệ cả quyền con người và quyền công dân trên mọi cấp độ: quốc
gia, khu vực và quốc tế.

8


Quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam hiện nay
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi
mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh
mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Về mặt nhận thức, cùng với việc coi trọng vị thế và vai trò của con người,
vấn đề quyền con người cũng được coi trọng và đánh giá tương ứng. Hiến pháp
năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và
khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Cùng với khái niệm
quyền con người, các khái niệm có liên quan khác như quyền bình đẳng của phụ
nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng và
các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Điều đó cũng đã tạo nên sự
chuyển biến về nhận thức: từ sự đồng nhất một cách ấu trĩ khái niệm quyền con
người, như là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân hoặc như là một thứ cơng cụ
chính trị, mà các thế lực tư bản chủ nghĩa ở phương Tây sử dụng để chống phá
các nước XHCN đến cách nhìn nhận khách quan hơn, coi nhân quyền là sản
phẩm chung, là sự kết tinh của nền văn minh nhân loại; tuy mang tính phức tạp
và nhạy cảm, nhưng vẫn là một yếu tố không thể bỏ qua trong đời sống chính trị
hiện đại. Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002,
Nhà nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ

Luật và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của Chính phủ và
trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một
cách tồn diện những công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê
chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và trong thời kỳ này.
Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm được.
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong q trình đổi mới ở
Việt Nam, so với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể

9


hiện một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với
việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng
như bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên
lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng được
ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư
liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước theo luật định; quyền được thơng tin theo luật định; quyền bình đẳng của
các tơn giáo; quyền khơng bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật. Ngồi ra, Hiến pháp năm 1992 cịn đề cập đến việc Nhà nước bảo
hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng
việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của cơng dân, bên
cạnh Hiến pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội đã
thông qua 40 đạo luật, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua 40 Pháp lệnh
có liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu là Bộ Luật Hình sự; Bộ Luật Tố tụng hình
sự; Bộ Luật Dân sự; Luật Hơn nhân và Gia đình; Luật Quốc tịch Việt Nam; Luật
Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí; Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng

nhân dân; Pháp lệnh Xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt
Nam. Gần đây nhất, ngày 27/5/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Tố tụng
dân sự đầu tiên ở Việt Nam, bổ sung một công cụ pháp lý quan trọng để bảo
đảm các quyền dân sự.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị ở nước ta được thể hiện một
cách cụ thể:
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của cơng dân: Bình đẳng trong
bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong hoạt
động sản xuất – kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, khoa

10


học – công nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền nghiên cứu, sáng
tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mọi công dân.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa những
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người
(trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi hành án phạt
tù)…
Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngơn luận,
quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo…
Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân
trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm 1992, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Bộ
Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục (1998), Luật Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991),
Pháp lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các

quyền tiêu biểu nhất:
Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền
và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều
việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay,
Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình kinh tế –
xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào việc mở
mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh nghiệp,
mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…
Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành được
độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với giáo dục
của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do

11


Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này
được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992: “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện thực hóa quyền được
tiếp cận với giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ, học tập là
quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa vụ của Nhà
nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36). Trên cơ sở đó, một loạt các văn
bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bảo đảm quyền được
tiếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất là Luật Giáo dục (năm 1998).
Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng giống
như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp cận việc
bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hồn tồn của Nhà nước
sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các loại hình dịch

vụ y tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc
sức khỏe. Sự chuyển đổi này khơng có nghĩa là Nhà nước giảm bớt sự quan tâm
đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế của nhân dân, mà ngược lại, Nhà
nước vẫn thừa nhận và nỗ lực bảo đảm quyền này, nhưng theo một cách thức
phù hợp và hiệu quả hơn.
Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ
trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động và
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH,
tách quỹ BHXH với cơng nhân, viên chức nhà nước và những người làm công
ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa cơng tác BHXH. Điều 56
Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền
lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những
người làm cơng ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác
đối với người lao động”. Ban hành Luật BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự
nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.

12


Nhờ đổi mới hướng tiếp cận trong chính sách, pháp luật về công tác
BHXH, việc thực hiện quyền được BHXH ở nước ta từ khi đổi mới đã đạt được
những thành tựu rất đáng khích lệ: Số lượng đối tượng tham gia và được hưởng
BHXH ngày càng được mở rộng, quyền được BHXH có sự phát triển về chất;
mức trợ cấp bình qn cho các đối tượng BHXH nói chung và mức tiền lương
hưu bình qn nói riêng liên tục tăng. Thành công nổi bật nhất trong việc thực
hiện quyền được bảo đảm xã hội ở nước ta từ khi đổi mới đến nay là việc thực
hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo – một chủ trường và quyết sách lớn của
Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Xuất phát từ quan điểm: Vấn
đề nghèo khó khơng được giải quyết thì khơng có một mục tiêu nào mà cộng

đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời
sống, hòa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực hiện, Nhà
nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy chương trình
mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn nhân lực, vật lực
cho chương trình này.
Quyền con người trong lĩnh vực văn hóa
Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn
hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá
trị văn hóa” (Điều 41). Nhà nước Việt Nam cũng ban hành nhiều văn bản quy
định pháp luật trong lĩnh vực văn hóa như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh,
Luật Di sản văn hóa, Luật xuất bản, Luật Quảng cáo..., tạo lập một hành lang
pháp luật rộng mở, thuận lợi cho các hoạt động về bảo tồn di sản văn hóa, tơn
trọng quyền tự do sáng tạo và tự do hoạt động văn hóa của các tổ chức, cá nhân,
bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan…
Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành,
đoàn thể liên quan ở Trung ương và Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa, mở rộng giao lưu, tuyên truyền, giới thiệu di
sản văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.

13


Ngoài ra, nhiều Luật và Pháp lệnh khác liên quan đến lĩnh vực văn hóa
như Bộ luật Hình sự sửa đổi; Luật Báo chí sửa đổi; Luật Xuất bản; Luật Bình
đẳng giới; Luật trẻ em, Nghị định số 79/2012/NĐ - CP, ngày 05/10/2012 của
Chính phủ khuyến khích tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh
tế tham gia biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; đầu tư cho việc sưu tầm,
nghiên cứu, giữ gìn, phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền
thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới.
Pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền văn hóa về cơ bản được xây dựng

hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
đồng thời bảo đảm phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam khơng ngừng xây dựng và triển
khai các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống tinh thần ngày càng cao của người dân; khuyến khích mọi thành phần kinh
tế đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn hóa; bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống của dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số, trong đó có bảo tồn tiếng nói
và chữ viết.
Thơng qua Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiều di sản văn hóa phi vật
thể đặc sắc như các điệu múa, làn điệu dân ca, lễ hội, bí quyết nghề thủ công
truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền… đã được nghiên cứu, sưu tầm,
tư liệu hóa dưới nhiều hình thức và lưu truyền. Tính đến nay, trên cả nước đã
kiểm kê được 39.366 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó 121 di sản được đưa
vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Như vậy, với hệ thống pháp luật về quyền văn hóa đã được ban hành vào
thực tiễn q trình triển khai thực hiện, có thể khẳng định Việt Nam đã và đang
nỗ lực cao trong hoạt động xây dựng thể chế vào bảo đảm thực thi những nội
dung về lĩnh vực quyền con người nói chung và quyền trong lĩnh vực văn hóa
nói riêng.
2. Vận dụng giải quyết vấn đề con người và đa dạng văn hóa ở nước
ta hiện nay

14


Đa dạng văn hóa thường dùng để chỉ sự cùng tồn tại của nhiều nền văn
hóa, dạng thức văn hóa và nhiều cách biểu đạt văn hóa khác nhau ở một vùng
nói riêng hoặc trên thế giới nói chung.
Đa dạng văn hóa là đặc trưng của xã hội lồi người, bởi thế nó là điều
kiện cần thiết cho phát triển, thậm chí cho sự sinh tồn của con người. Đa dạng

văn hóa là khởi nguồn của bản sắc, của đổi mới và sáng tạo, giúp liên kết mọi
người trên thế giới. Nó là động lực thúc đẩy phát triển, khơng chỉ tăng trưởng
kinh tế, mà còn làm phong phú hơn cuộc sống trí tuệ, tình cảm, đạo đức và tinh
thần. Đa dạng văn hố có ý nghĩa đối với các lĩnh vực:
Kinh tế: Đa dạng văn hóa là nguồn lực cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.
Du lịch, sản xuất hàng thủ công và các ngành công nghiệp văn hóa khác
phụ thuộc phần lớn vào sức sáng tạo và tài sản văn hóa của người dân địa
phương. Những nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế này chỉ được phát huy khi
bảo tồn đa dạng văn hóa được đầu tư một cách đầy đủ.
Các ngành cơng nghiệp văn hóa và du lịch: tạo công ăn việc làm và thu
nhập qua các di sản, qua việc tham quan, bán hàng thủ cơng và các sản phẩm
văn hóa khác. Sinh kế truyền thống: giữ gìn kiến thức địa phương, tạo cơng ăn
việc làm; phương cách đa dạng từ sản xuất hàng thủ công, nông nghiệp, quản lý
nguồn tài nguyên…
Xã hội: Đa dạng văn hoá là phương tiện hiệu quả để thúc đẩy hiểu biết lẫn
nhau và chống lại các định kiến. Điều này hết sức cần thiết đối với ổn định xã
hội. Gắn kết xã hội: Văn hoá là nguồn hy vọng, cho phép con người có được ý
thức sâu sắc về cảm giác thuộc về cộng đồng
Vốn xã hội: Bảo vệ các hình thức khác biệt của văn hố và q trình hình
thành các hình thức này sẽ góp phần tăng cường vốn xã hội của cộng đồng và
đem lại cảm giác làm chủ và niềm tin vào các tổ chức cơng cộng
An ninh quốc phịng: Đa dạng văn hố là phương tiện thúc đẩy và bảo
đảm an ninh chính trị cũng như tồn vẹn lãnh thổ Mỗi nhóm tộc người đều có
người lãnh đạo tinh thần (già làng). Thơng qua những người lãnh đạo tinh thần,

15


sử dụng văn hóa và ngơn ngữ của từng nhóm tộc người và địa phương chính là
phương thức hữu hiệu để đảm bảo an ninh chính trị. Do đặc điểm cư trú của

nhiều nhóm dân tộc sống ở biên giới, vùng núi cao nên chính sự đa dạng trong
lối sống sinh kế và văn hóa giúp bảo vệ an ninh, quốc phòng, giữ đất đai lãnh
thổ…. Giúp các cán bộ người dân tộc dễ tiếp cận với đồng bào mình; gắn kết
cộng đồng, tăng cường đại đồn kết dân tộc
Mơi trường: đa dạng văn hoá giúp bảo vệ cảnh quan môi trường. Điều
này xuất phát từ việc mỗi dân tộc có quan niệm thế giới quan riêng. Khi những
nét văn hố này được bảo tồn, nó góp phần bảo tồn rừng và cảnh quan thiên
nhiên. VD: người dân tộc có niềm tin là rừng thiêng, do đó phải cấm người lạ,
người trong bản vào phá. Điều này giúp bảo tồn được rừng, cảnh quan môi
trường tự nhiên. Đa dạng văn hố là phương tiện để có những phương thức tổ
chức khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên theo từng
nhóm dân tộc, giúp sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tiết kiệm và hiệu
quả nhất, tận dụng tài nguyên của từng dân tộc. Đa dạng văn hố góp phần bảo
tồn rừng. Ví dụ người Dao, Mường có nhiều bài thuốc hay lấy từ rừng. Nếu bảo
tồn được những bài thuốc đó, một mặt bà con sẽ cơ hội tăng thu nhập, mặt khác
rừng cũng được bảo tồn, bởi chỉ khi những cây to trong rừng cịn thì những cây
lá thuốc mọc bên dưới mới sống được.
Các giải pháp bảo đảm quyền con người và đa dạng văn hóa
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ
mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc
trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta
đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc
tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và đa dạng văn hóa của cá nhân
công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong
điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người và đa dạng
văn hóa cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.

16



Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc
bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân trong mọi lĩnh
vực, trong đó có sự đa dạng văn hóa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
và trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX,
X đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người,
quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây
dựng các luật về quyền công dân nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến
pháp và Luật. Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ
thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính ngun tắc nền tảng. Các quyền
được quy định trong luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt
khác, phát triển và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân, và đa dạng
văn hóa địi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện
tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
đảm các quyền con người về dân sự, chính trị, văn hóa, tộc người; các quyền về
kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã
hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm
được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống
pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế
về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong
thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị và đa dạng
văn hóa cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới
mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ thể, chẳng
hạn như quyền được thơng tin (cần có Luật về thơng tin); quyền tự do lập hội,


17


hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện hành); các quyền tham gia công việc nhà
nước như quy định về trưng cầu dân ý (cần có Luật trưng cầu dân ý); các quy
định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy chế dân chủ ở cơ sở lên thành Luật
về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân và tôn trọng đa
dạng văn hóa cần phải được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi
phối các quyền khác. Theo đó, cần hồn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến
pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, cơng dân tự kiểm sốt, bảo
vệ tài sản của mình và Nhà nước thơng qua cơng cụ pháp lý và bộ máy chun
chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu
cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh,
tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân
nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ
nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là
đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hồn thiện pháp luật
bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Khơng được có bất kỳ sự phân biệt
đối xử nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo
đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”,
sớm hoàn thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách
mạng và người có công với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh
xã hội và những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, cơng chức nhà nước và hồn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc
nhà nước, các cá nhân, tộc người thiểu số được bảo đảm tôn trọng sự đa dạng
văn hóa

Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong
mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế

18


độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết
năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán
bộ, cơng chức nhà nước trong q trình thực thi cơng vụ, giảm thiểu nguy cơ có
thể xâm phạm quyền của cơng dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan
hệ giữa cá nhân, cơng dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa
là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định
cụ thể các quyền của cơng dân theo hướng cơng dân có quyền được làm tất cả
những gì luật pháp khơng cấm, cịn cán bộ, cơng chức nhà nước chỉ được phép
làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là
phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người, và đa dạng văn hóa; cơng
dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền
do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng
buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức
là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành
chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo
điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào cơng việc nhà nước, cơng
việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt
động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân
dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền
của công dân được cung cấp thơng tin một cách chân thực và chính xác từ phía

cơ quan cơng quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ,
công chức nhà nước, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là
tổ, khu dân phố nơi cán bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.

19


Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện cơng bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN
tự bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho
thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực
kinh tế, địi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện cơng bằng xã hội và
dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu
với số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực
hiện được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trị điều tiết
vĩ mơ, quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế,
thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó
chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa;
đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng
xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
KẾT LUẬN
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly
khai có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ
khơng cơng bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu
nghèo quá lớn trong xã hội, khơng tơn trọng tính đa dạng văn hóa của nhóm
thiểu số. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa
đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo

dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia
đình thuộc diện chính sách, con em nơng dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
đồng bào dân tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách
cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc
trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


1. C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Tồn tập, t.16, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
1996, T.16, tr. 25.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr. 36.
3. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.2 tr. 187.
4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 168.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 4, tr. 67.
6. Xem Cổng Thông tin điện tử Chính phủ: Báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
2018 của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, ngày
23/10/2017.
7. Quyền con người trong thế giới hiện đại (nghiên cứu và thơng tin)
Phạm Khiêm Ích- Hồng Văn Hảo
8. Quyền lực nhà nước và quyền công dân. Ts.Đinh Văn Mậu (Chủ biên).
Nhà xuất bản Tư pháp.

21




×