Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận phong trao chinh tri xa hoi quoc te triển vọng về phong trào cộng sản quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.57 KB, 35 trang )

Phần mở đầu
Từ khi ra đời đến nay, phong trào Cộng sản quốc tế đã có những cống
hiến to lớn đối với tiến trình lịch sử thế giới hiện đại, từng là lực lượng đi đầu và
chỗ dựa tin cậy cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhiều đảng
cộng sản và công nhân ở các nước Á - Phi - Mỹ Latinh tích cực tham gia và có
đóng góp quan trọng bào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước mình.
Lịch sử đã chứng minh sự đóng góp to lớn của phong trào Cộng sản quốc tế
trong cuộc đấu tranh bảo vệ hịa bình thế giới, vì tiến bộ xã hội. Trong thế kỷ
XX, phong trào Cộng sản quốc tế từng là biểu tượng niềm tin của nhân loại tiến
bộ, đồng thời có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống chính trị thế giới. Tuy
nhiên, từ khoảng giữa những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào đã rơi vào
khủng hoảng sâu sắc, toàn diện mà đỉnh điểm là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Đã hơn 20 năm kể từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, mặc dù có những bước thăng trầm, song trong
những năm gần đây phong trào Cộng sản quốc tế đã có những bước hồi phục
nhất định chứng tỏ sức sống của một phong trào hiện thực, được định hình bằng
lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học. Hiện nay, phong trào Cộng sản quốc tế
tuy chưa ra khỏi khủng hoảng, nhưng đã vượt qua được thời kỳ khó khăn nhất,
vẫn là lực lượng chính trị quan trọng đang tiếp tục kiên trì cuộc đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các đảng cộng sản cầm quyền ở
Trung Quốc, Việt Nam, Lào không chỉ trụ vững trước những thử thách khắc
nghiệt của thời cuộc, mà còn lãnh đạo cộng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong cải cách đổi mới, giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao được vị thế quốc tế. Những
thành tựu cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa là một thực tế sinh
động chứng minh cho sức sống và khả năng tự đổi mới của chủ nghĩa xã hội, là
đóng góp quan trọng đối với việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Cùng với những thành tựu của các đảng cầm
quyền, phong trào Cộng sản ở các khu vực khác trên thế giới cũng có những
chuyển biến tích cực.



Tuy đã có thành cơng nhất định trong những năm qua, song phong trào
Cộng sản quốc tế nói chung vẫn tiếp tục phải đối mặt trước khó khăn, hạn chế và
những thách thức lớn như đường lối của nhiều đảng còn chưa chuyển kịp so với
yêu cầu, còn lúng túng trong hoạt động, chưa thu hút được đông đảo các tầng
lớp nhân dân lao động, nguồn lực tài chính hạn hẹp, vấn đề đoàn kết, hợp tác,
phối hợp hoạt động giữa các đảng cịn nhiều bất cập, v.v.. Vì vậy, em chọn đề
tài: “ Triển vọng về phong trào Cộng sản Quốc tế hiện nay” làm đề tài tiểu
luận mon Phong trào Chính trị- Xã hội Quốc tế

Phần nội dung
Chương I: Thực trạng và triển vọng của Quốc tế cộng sản hiện nay
I. Sự ra đời và vai trò của Quốc tế cộng sản
1.1 Sự ra đời của Quốc tế cộng sản
Sau khi Ph.ăngghen mất năm 1895 hàng loạt đảng xã hội chủ nghĩa (thành
viên của Quốc tế II), đã bị phân hoá ngày càng ngả về phái hữu và phái giữa do
E.Bestanh và K.Causky là đại diện. Mục tiêu chủ yếu của phái này là đòi xét lại,
đi đến phủ nhận học thuyết V.I.Lênin và đảng Bơn-sê-vích Nga cùng các lực
lượng cánh tả trong phong trào cộng sản và cơng nhân Tây Âu đã kiên trì đấu
tranh bền bỉ, không khoan nhượng trên mặt trận tư tưởng lý luận với chủ nghĩa
cơ hội và xét lại nhằm bảo vệ, phát triể sáng tạo học thuyết Mác, chuẩn bị tập
hợp lực lượng để thành lập Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị thành lập Quốc tế Cộng sản Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười ở Nga năm 1917 và sau khi chuẩn bị kỹ về đường
lối chính trị, tư tưởng và tổ chức ngày 1/3/1919 tại Matxcơva, Lênin đã chủ trì
2


cuộc họp để chuẩn bị về mọi mạt cho một chương trình làm việc của Hội nghị
quốc tế những người cộng sản và cơng nhân trên tồn thế giới để thành lập Quốc

tế Cộng sản. Chiều ngày 2/3/1919, Hội nghị đã được tiến hành tại điện Cremlin.
Dự Hội nghị có đại biểu của các đảng cộng sản và các tổ chức cách mạng của 30
nước tham dự. Khác với các Hội nghị thành lập Quốc tế I và Quốc tế II, Hội
nghị thành lập Quốc tế Cộng sản lần đầu tiên có mặt các đại biểu một số nước
phương Đơng - đại diện cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa. Hội nghị đã
thảo luận và thông qua nhiều văn kiện quan trọng như Cương lĩnh của Quốc tế
Cộng sản, Luận cương và Báo cáo về dân chủ tư sản và chun chính vơ sản của
Lênin, Tun ngơn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản toàn thế giới.
Ngày 4/3/1919 tất cả các đại biểu dự Hội nghị đều biểu quyết nhất trí với đề
nghị của V.I.Lênin thông qua quyết định lịch sử thành lập Quốc tế Cộng sản .
Quyết định về việc thành lập Quốc tế Cộng sản ghi rõ: "hội nghị cộng sản quốc
tế Tại hội nghị thành lập Quốc tế Cộng sản chỉ có 1 đại biểu của ĐCS Đức là
G.Eberlâyin khơng tán thành lập Quốc tế Cộng sản ngay.
Quyết định thành lập Quốc tế III và thông qua tên gọi là Quốc tế Cộng
sản. Tỷ lệ phiếu bầu giữ nguyên không thay đổi. Tất cả các đảng, các tổ chức và
các nhóm trong thời gian 8 tháng có quyền tuyên bố dứt khoát về việc tham gia
vào Quốc tế III". Hội nghị các đảng cộng sản và các tổ chức cách mạng của giai
cấp cơng nhân quốc tế có ý nghĩa như là Đại hội lần thứ nhất - Đại hội thành lập
Quốc tế Cộng sản. Ngày 4/3/1919 là ngày thành lập Quốc tế Cộng sản. 1.3. Lịch
sử Quốc tế Cộng sản và vai trò của những người cộng sản Việt Nam trong Quốc
tế Cộng sản Trong thời gian tồn tại của Quốc tế Cộng sản (tính từ ngày thành lập
4/3/1919 đến khi tuyên bố giải thể vào ngày 15/5/1943 Quốc tế Cộng sản đã tồn
tại 24 năm 2 tháng 11 ngày) đã trải qua 07 đại hội. Cụ thể như sau: Đại hội I: từ
2 đến 6 tháng 3 năm 1919. Đại hội II: từ 19/7 đến 7/8 năm 1920. Đại hội III: từ
22/6 đến 12/7 năm 1921. Đại hội IV: từ 5/11 đến 5/12 năm 1922. Đại hội V: từ
17/6/ đến 8/7 năm 1924. Đại hội VI: từ 17/7 đến 1/9 năm 1928. Đại hội VII: từ
25/7 đến 20/8 năm 1935. Điểm khác lớn nhất của Quốc tế Cộng sản (tức Quốc tế
III) so với Quốc tế I và Quốc tế II là sự tham gia của các tổ chức, các đảng cộng
3



sản và công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vào công việc chung của
phong trào cộng sản, cơng nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế
giới. Điều này thể hiện rõ nhất trong sự bổ sung vào khẩu hiệu nổi tiếng của
phong trào cộng sản do Mác - ăngghen đề ra trước đó là "vơ sản tất cả các nước
đoàn kết lại" tại Đại hội II bằng khẩu hiệu "vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại". Một trong những vấn đề trung tâm được Quốc tế Cộng
sản đề ra trong quá trình chỉ đạo tập trung là vấn đề dân tộc - thuộc địa. Quốc tế
Cộng sản c oi cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận của
cuộc cách mạng vô sản. Thậm chí Quốc tế Cộng sản khẳng định như là điều kiện
tiên quyết để Tạp chí Quốc tế Cộng sản số 1, năm 1919.
Được gia nhập Quốc tế Cộng sản các chính Đảng, các tổ chức nào thừa
nhận, đấu tranh giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong quá trình giải phóng khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Điều này thể hiện rõ ràng trong "Sơ thảo
lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" được V.I.Lênin
dự thảo và thông qua tại Đại hội lần thứ II năm 1920. Trong quá trình tồn tại
Quốc tế Cộng sản đã đề ra định hướng cho các đảng cộng sản và công nhân vận
dụng học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân. Quốc tế Cộng sản đã tập hợp, liên kết
phong trào cộng sản và công nhân chống chủ nghĩa phát xít và ngăn chặn nguy
cơ bùng nổ chiến tranh. Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân dẫn đến thành lập
nhiều đảng cộng sản trên tồn thế giới.
1.2 Vai trị lịch sử của Quốc tế cộng sản
Trong quá trình hoạt động của Quốc tế Cộng sản từ 1919-1943, Quốc tế
cộng sản đã đóng vai trị nổi bật trong cuộc đấu tranh cho lợi ích của giai cấp
công nhân và của những người lao động trên toàn thế giới
Thành tựu lớn nhất của Quốc tế cộng sản là tập hợp và đồn kết giai cấp
cơng nhân thế giới, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Bảo vệ chủ
nghĩa Mác- lenin, đấu tranh chống mọi khuynh hướng cơ hội, bảo vệ, phát triển

4


chủ nghĩa Mác- Lenin và tiếp tục truyền bá sâu rộng trong quần chúng.Định ra
chiến lược, sách lược đúng đắn cho phong trào cộng sản công nhân và phong
trào giải phóng dân tộc. Thành lập và củng cố các Đảng Mác xít và bồi dưỡng
lãnh tụ cho các Đảng cộng sản. Giáo dục tinh thần hy sinh vì Tổ quốc và tinh
thần quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân.
Vai trò của Quốc tế cộng sản to lớn, song trong quá trình hoạt động của
mình, Quốc tế cộng sản cũng có những sai lầm, vấp váp như:
Quốc tế cộng sản đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng khi Lenin qua
đời thì nghiêng về tập trung mà coi nhẹ dân chủ. Khi đánh giá các Đảng xã hộidân chủ là lực lượng đối lập hoàn toàn như chủ nghĩa phát xít. Chúng ta biết
rằng bản chất của các Đảng xã hôi- dân chủ, các khuynh hướng tư tưởng chính
trị là đối lập hồn tồn với chủ nghĩa Mác- Lenin, với CNXH, CNCS.
1.3 Tình hình của Quốc tế cộng sản hiện nay.
Phong trào cộng sản quốc tế là bộ phận tiên tiến của phong trào giải
phóng và cơng nhân thế giới, là chủ nghĩa quốc tế, có tính cách mạng triệt để;
đồng thời phongtrào luôn lấy và áp dụng lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học
làm kim chỉ nam cho hoạt động của mình.Từ khi ra đời đến nay, phong trào
Cộng sản quốc tế đã có những cống hiến to lớn đối với tiến trình lịch sử thế giới
hiện đại, từng là lực lượng đi đầu và chỗ dựa tin cậy cho phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của chủ nghĩa xã
hội bắt đầu từ nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, đặc biệt sự sụp đổ của chế
độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, đã khiến cho phong trào cộng sản quốc tế
(PTCSQT) bước vào giai đoạn vận động phức tạp nhất trong lịch sử phát triển
của mình. CNXH lâm vào thối trào, cán cân so sánh lực lượng thế giới nghiêng
về phía rất bất lợi cho các lực lượng cách mạng và tiến bộ. Trước tình hình này,
nhiều học giả tư sản và các thế lực thù địch cho rằng thời khắc “sự cáo chung
của chủ nghĩa cộng sản đã điểm”, thậm chí cịn trù tính cả thời hạn cho “sự sụp
đổ dây chuyền” của các nước XHCN còn lại. Tuy nhiên, gần hai thập niên qua,

chế độ XHCN ở nhiều nước vẫn trụ vững và có bước phát triển mới trước những
5


thử thách của thời cuộc. PTCSQT từng bước phục hồi cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; đồng thời ngày càng có thêm những chuyển động tích cực, chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của một phong trào hiện thực được định hướng bằng lý
tưởng - niềm tin khoa học và dựa trên một cơ sở giai cấp - xã hội sâu rộng.
Nhìn tổng quát, PTCSQT vẫn là một lực lượng chính trị to lớn trong thời
đại ngày nay với gần 80 triệu đảng viên cộng sản, đang kiên trì cuộc đấu tranh vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cho đến nay, các đảng cộng
sản (ĐCS) cầm quyền đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt nhất, tiếp
tục lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH trong cải cách và đổi mới. Các ĐCS
chưa cầm quyền cũng đã có những điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách
lược, tìm kiếm cách thức hoạt động, đấu tranh bằng nhiều hình thức đa dạng, đổi
mới tập hợp lực lượng, cải thiện dần vai trò, vị trí trong đời sống chính trị đất
nước, chuẩn bị những tiền đề cho cách mạng xã hội trong tương lai. Sự củng cố,
lớn mạnh của các ĐCS cầm quyền và sự phục hồi nhất định của các ĐCS chưa
cầm quyền đang mở ra triển vọng mới cho PTCSQT trong thế kỷ XXI.
Thật vậy, tại các nước đi lên xây dựng CNXH như Trung Quốc, Việt Nam,
Cuba, CHDCND Triều Tiên và Lào, công cuộc cải cách, đổi mới xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Do đó, vai trị và
ảnh hưởng của CNXH trên thế giới cũng được củng cố nhất định. Các nước
XHCN do nâng cao được vị thế quốc tế nên ngày càng trở thành những chủ thể
quan trọng của quan hệ quốc tế hiện đại, chủ động đổi mới chính sách đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, hội nhập với khu vực và
thế giới. Quá trình cải cách, mở cửa và hiện đại hoá của Trung Quốc đã đem lại
cho họ một tầm vóc kinh tế, chính trị, qn sự đủ lớn đến mức không một chủ
thể quan hệ quốc tế nào ở châu Á - Thái Bình Dương có thể bỏ qua vai trị của
quốc gia này trong tính tốn chiến lược của mình. Trong gần 30 năm qua, Trung

Quốc ln duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới, với tổng GDP đạt
khoảng 2420 tỷ USD, đứng thứ 4 thế giới chỉ sau Mỹ, Nhật Bản, Đức. Về ngoại
thương, Trung Quốc đã trở thành cường quốc thương mại đứng thứ 3 thế giới
(sau Mỹ và Nhật Bản) với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 1600 tỷ USD. Dự
6


trữ ngoại tệ vượt lên dẫn đầu thế giới với hơn 1,3 nghìn tỷ USD. Bình quân thu
nhập đạt trên 1800 USD/người/năm. Với số dân khổng lồ 1,3 tỷ người, những
thành tựu nêu trên là rất đáng khâm phục. Trung quốc cịn đạt được sự phát triển
nhanh chóng của khoa học và cơng nghệ. Điển hình là việc Trung Quốc cách
đây không lâu (9/2008) vừa thực hiện thành công việc phóng tàu "Thần Châu 7",
đưa người vào vũ trụ lần thứ ba, trở thành cường quốc chinh phục vũ trụ thứ 3
sau Nga và Mỹ.
Bất chấp chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và sự chống phá điên cuồng
của các thế lực thù địch, cách mạng Cuba vẫn kiên cường đứng vững, đồng thời
đạt nhiều thành tựu khích lệ trong phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, đặc biệt
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, thể thao, du lịch, trở thành tấm gương và
nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với các ĐCS và phong trào cánh tả quốc tế
nói chung và ở khu vực Mỹ Latinh nói riêng. Nhiều năm qua kinh tế Cuba tăng
trưởng khá, riêng năm 2005 mức tăng GDP đạt tới 11,8%. Quan hệ quốc tế của
Cuba không ngừng được mở rộng, trong đó đáng chú ý nhất là sự phát triển
quan hệ đoàn kết với các nước Mỹ La tinh do cánh tả cầm quyền. Đánh giá tình
hình kinh tế của 5 nước XHCN, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: tỷ trọng
GDP của các nước này từ đầu thập niên 90 đến nay đã tăng hơn 2 lần, từ mức
1,7% lên 4,1% và có chiều hướng tiếp tục tăng lên.
Mặt khác, các ĐCS cầm quyền đã chủ động tổng kết rút ra những bài học
kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong xây dựng CNXH ở Liên Xô,
Đông Âu và những kinh nghiệm của chính bản thân mình, tích cực tìm tịi về lý
luận, về thực tiễn mơ hình xây dựng CNXH ở nước mình. Các đảng này nỗ lực

tìm tịi, khai phá con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể ở mỗi
nước và những biến đổi của thế giới đương đại. Trong quá trình tìm tịi, khám
phá mơ hình phát triển ở các nước XHCN có nét mang tính đột phá cả về lý luận
và thực tiễn. Điều này được thể hiện nổi bật nhất trong việc sử dụng kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Trung Quốc xác định mơ hình kinh tế thị trường
XHCN, ở Việt Nam - nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ở Lào - nền sản
7


xuất hàng hóa đi lên CNXH. CHDCND Triều Tiên từ năm 2002 cũng bắt đầu cải
cách theo hướng kinh tế thị trường, lựa chọn bước đột phá vào lĩnh vực giá, tiền
và phân phối. Năm 2003, nước này thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm (2003-2008), chủ trương khốn trong nơng nghiệp, xố bỏ bao cấp,
sửa đổi luật đầu tư để thu hút vốn nước ngồi, phát triển một số khu cơng nghiệp
và đặc khu kinh tế...
Nhiều ĐCS và công nhân trên thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mơ hình
phát triển kinh tế-xã hội của Trung Quốc và Việt Nam. Cương lĩnh của ĐCS
Nhật Bản thông qua tại Đại hội XXIII (2004) khẳng định: Q trình tìm tịi tiến
lên CNXH thơng qua kinh tế thị trường của Việt Nam và Trung Quốc đang trở
thành một hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI; tiến lên CNXH
thông qua kinh tế thị trường là hướng đi có tính quy luật của CNXH. Hội thảo
quốc tế "Triển vọng của CNXH" của 39 ĐCS và công nhân được tổ chức tại
Praha (Séc) năm 2005 cũng đánh giá cao sự phát triển nền kinh tế thị trường
XHCN và việc gắn những ưu việt của chính quyền nhân dân với những thành
tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật, với sự tham gia tích cực vào thị trường
quốc tế của Trung Quốc và Việt Nam, coi đây là sự bổ sung độc đáo về lý luận
của CNXH.
Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước XHCN là một thực tế
sinh động chứng minh cho sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên của

CNXH. Các ĐCS và công nhân quốc tế coi đây là nguồn cổ vũ lớn lao, giúp họ
củng cố niềm tin vào lý tưởng XHCN. Sự tìm tịi, khai phá con đường đi lên
CNXH của các ĐCS cầm quyền trở thành một đóng góp quan trọng, có giá trị cả
về lý luận và thực tiễn cho việc phát triển CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin trong
điều kiện lịch sử mới. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình phục
hồi của PTCSQT, góp phần thiết thực vào việc tìm kiếm những phương thức
hoạt động hiệu quả của phong trào trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với những thành tựu đạt được của các ĐCS cầm quyền, PTCS ở các
khu vực khác trên thế giới cũng có bước củng cố quan trọng. Tại khu vực Liên
8


Xô cũ và Đông Âu, vốn là nơi phong trào chịu tổn thất nặng nề nhất sau sự biến
chính trị cuối thập niên 80 - đầu 90, các ĐCS và cơng nhân đã nhanh chóng hồi
phục, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội, lấy lại uy tín trong xã hội. Tại
các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng địa phương, nhiều đảng giành thắng lợi
lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh như ĐCS Liên bang Nga, ĐCS Séc và
Môrava, một số đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có Đảng liên tiếp giành được
quyền đứng ra thành lập chính phủ như ĐCS Mơnđơva sau thắng lợi tại các cuộc
bầu cử quốc hội và tổng thống gần đây.
Là một đảng lớn nhất ở khu vực Liên Xô cũ và Đông Âu, ĐCS Liên bang
Nga (KPRF) hiện có tổ chức đảng tại tất cả các chủ thể của nước Nga. Tại cuộc
bầu cử Đuma Quốc gia (Quốc hội) năm 1995 và 1999, KPRF là đảng giành
được nhiều phiếu nhất, chiếm tới 1/3 tổng số ghế. Trong cuộc bầu cử Đuma gần
đây nhất (2004), tuy Đảng bị giảm sút số ghế giành được, nhưng vẫn là một
trong những chính đảng thu hút được sự ủng hộ lớn nhất của nhân dân (12,3%).
Tuy nhiên, do những mâu thuẫn bất đồng nội bộ và sự can thiệp chống phá của
các lực lượng thù địch, đến Đại hội X (7/2004) KPRF đứng trước khó khăn vơ
cùng to lớn, đội ngũ bị phân hoá sâu sắc. Đảng bị phân liệt do một bộ phận tách
ra tuyên bố thành lập ĐCS vì tương lai của nước Nga. Tình hình này đã khiến

cho lực lượng cộng sản và cánh tả Nga bị suy yếu khá nghiêm trọng. Từ Đại hội
XI (bất thường) năm 2006 đến nay, KPRF luôn hướng trọng tâm công tác vào
việc đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục những vấn đề đang đặt ra, củng cố
Đảng về tư tưởng và tổ chức.
Cũng cần thấy rằng bên cạnh những bước củng cố và phát triển nhất định,
các ĐCS và công nhân ở khu vực Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn cịn đứng trước
khơng ít khó khăn, hạn chế. Đường lối, cương lĩnh của nhiều đảng đổi mới còn
chậm, chưa chuyển kịp so với yêu cầu của thời kỳ mới. Cơ sở xã hội của một số
đảng bị thu hẹp mạnh. Tổ chức cơ sở đảng chỉ có ở địa bàn cư trú, trong khi tại
các khu vực sản xuất lại chưa được xác lập. Vấn đề đoàn kết, hợp tác, phối hợp
hoạt động giữa các đảng còn nhiều bất cập, thậm chí tình trạng bất đồng, tranh
9


giành ảnh hưởng với nhau đã làm giảm sức mạnh chung của các lực lượng cộng
sản và cánh tả.
Tại khu vực các nước tư bản phát triển, càng về những năm gần đây càng
có những dấu hiệu phục hồi rõ nét. Trong hồn cảnh cịn nhiều khó khăn nội bộ,
lại thường xun bị các thế lực thù địch cơng kích gay gắt, nhưng nhiều ĐCS và
công nhân tại khu vực này vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, điều chỉnh chiến
lược, sách lược đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, bảo vệ lợi ích của các tầng
lớp lao động. Đi đầu theo hướng nêu trên phải kể đến những cố gắng của các
ĐCS Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ĐCS Tái lập Italia, Đảng Tiến bộ của
nhân dân lao động Síp, ĐCS Nhật Bản... Trong hoạt động của các đảng này, về
đối nội, điều chỉnh quan trọng nhất mà họ thực hiện là tập trung chống chính
sách kinh tế-xã hội theo chủ nghĩa tự do mới, chống đại tư bản độc quyền, vạch
trần các thủ đoạn bóc lột tinh vi của CNTB trong điều kiện cách mạng khoa học
- cơng nghệ hiện đại và tồn cầu hố. Nhằm tập hợp lực lượng xã hội rộng rãi,
các ĐCS và công nhân ở các nước TBPT chú trọng mục tiêu đấu tranh vì dân
sinh, dân chủ, tiến bộ và cơng bằng xã hội. Nhờ vậy, ảnh hưởng và uy tín của

nhiều đảng mấy năm gần đây có xu hướng được củng cố, nâng cao. Trên lĩnh
vực đối ngoại, hiện nay tuyệt đại đa số các đảng ở đây đều nhấn mạnh ưu tiên
cho cuộc đấu tranh chống cường quyền đế quốc trong sinh hoạt quốc tế. Họ
phản đối nền ngoại giao "dân chủ, nhân quyền" mà Mỹ và phương Tây sử dụng
nhằm áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền.
Trước việc NATO mở rộng sang phía Đơng, Mỹ phát động chiến tranh chống
Irắc, thơng qua chiến lược mới “đánh địn phủ đầu”, thực hiện chính sách cường
quyền..., các ĐCS và cơng nhân Tây Âu như ĐCS Hy Lạp, Đảng Tiến bộ của
nhân dân lao động Síp, các ĐCS ở Italia, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha đã lên tiếng
phản đối gay gắt.
Các ĐCS và công nhân ở các nước TBPT rất quan tâm sự phát triển của
q trình tồn cầu hố (TCH) và tác động của nó, đồng thời cũng bày tỏ quan
điểm khá rõ ràng. Điều này được thể hiện trong các cương lĩnh, tun bố chính
trị, chương trình hành động cũng như văn kiện đại hội gần đây của nhiều đảng.
10


Thừa nhận TCH là xu thế khách quan, song về cơ bản, các đảng như ĐCS Pháp,
Đức, Anh, Hy Lạp, Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp... đều nhấn mạnh
tính chất tư bản chủ nghĩa, tác động bất lợi của tiến trình TCH đang diễn ra trên
thực tế hiện nay đối với người lao động, đặc biệt ở các nước nghèo, chậm phát
triển. Do đó, các đảng này đều xác định phải tích cực tham gia và tìm kiếm một
chỗ đứng xứng đáng trong phong trào quốc tế chống mặt trái tiêu cực của TCH
đang diễn ra sôi động hiện nay.
Tại Nhật Bản, Đảng cộng sản là lực lượng đối lập mạnh thứ hai sau Đảng
Xã hội - dân chủ. Đảng vạch ra đường lối chiến lược thực tế hơn, chú trọng kết
hợp 3 nhiệm vụ: điều chỉnh chính sách để mở rộng mặt trận, liên minh với tất cả
các lực lượng chống đại tư bản độc quyền phản động; kiên trì chủ nghĩa cộng
sản khoa học và tăng cường đấu tranh vì dân sinh, dân chủ. Đại hội XIII (2004)
thông qua Cương lĩnh sửa đổi với sự bổ sung nội dung mới rất quan trọng, trong

đó xác định các bước đi của Đảng nhằm đạt được mục tiêu chiến lược "vì một
xã hội tương lai - xã hội XHCN/xã hội CSCN ". Cương lĩnh sửa đổi nhấn mạnh,
sau khi đã hoàn thành về cơ bản "những chuyển đổi dân chủ", bước tiếp theo sẽ
là "vượt qua chủ nghĩa tư bản", tiến hành những cải cách XHCN để đi lên
CNXH/CNCS. Theo quan điểm của ĐCS Nhật Bản, thì tiến lên CNXH từ một
nước TBCN phát triển là một con đường hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong
lịch sử nhân loại. ĐCS Nhật Bản sẽ là người khai phá, mở ra con đường phát
triển mới này trong thế kỷ XXI. Nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp cải tạo
XHCN ở Nhật Bản sẽ là tiến hành xã hội hoá các tư liệu sản xuất. Đây được coi
là quá trình chuyển quyền kiểm sốt, quản lý những tư liệu sản xuất cơ bản cho
toàn xã hội.
Tại khu vực các nước đang phát triển Á, Phi và Mỹ Latinh, PTCS tuy phải
chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng của CNXH, nhưng tuyệt đại đa số
các ĐCS vẫn trụ lại, cố gắng tìm kiếm hình thức hoạt động thích hợp. Một số
đảng hoạt động tích cực, có cơ sở xã hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội
như các ĐCS ở Ấn Độ, ĐCS Xiry, Ixraen, Nam Phi, ĐCS El Xanvađo, Guyana,
Bơlivia, Uruguay... Trong đó, đáng chú ý là thắng lợi trong bầu cử của Đảng
11


Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, ĐCS macxit-lêninit Thống nhất Nêpan, Đảng
Lao động Braxin, đưa các đảng này lên vị trí nắm quyền từ nhiều năm nay.
Một nét mới đáng chú ý trong PTCSQT thời gian gần đây là phong trào
đã nỗ lực tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt động chung, tập hợp lực lượng, tăng
cường đoàn kết, trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động, góp phần nâng cao
sức mạnh của phong trào. Quan hệ giữa các ĐCS và công nhân (ĐCS-CN) trên
thế giới từng bước được khôi phục và củng cố lại đồng thời với bước phục hồi
của PTCSQT. Các mối quan hệ này, về cơ bản, được chỉ đạo theo tinh thần chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong bối cảnh lịch sử mới. Trong đó,
nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các ĐCS-CN hiện nay là nguyên

tắc độc lập, tự chủ, bình đẳng, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau,
đồn kết hợp tác vì lợi ích chung. Hình thức quan hệ giữa các ĐCS-CN hiện nay
phát triển mạnh nhất vẫn là hình thức quan hệ song phương. Từ chỗ trao đổi
thông tin, tài liệu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, gần đây giữa các đảng đã xác
lập quan hệ trao đổi về mặt lý luận. Nhiều đảng đã hình thành cơ chế trao đổi lý
luận thường kỳ như giữa ĐCS Việt Nam với ĐCS Trung Quốc, ĐCS Cuba,
Đảng Nhân dân cách mạng Lào; giữa các ĐCS trong EU, SNG và ở khu vực
Ban Căng... ĐCS Nhật Bản cũng đã thiết lập được cơ chế hợp tác trao đổi lý
luận với ĐCS Trung Quốc và một loạt ĐCS-CN châu Âu.
Bên cạnh quan hệ song phương, các quan hệ đa phương cũng được thúc
đẩy khá mạnh. Theo hướng này, hàng loạt hội nghị của các ĐCS-CN ở từng khu
vực, từng châu lục và giữa các châu lục được tổ chức. Các cuộc hội thảo, trao
đổi lý luận và thực tiễn được nhiều đảng quan tâm.
Ở khu vực châu Âu, các ĐCS-CN ở Tây Bắc Âu, Ban Căng, Đông Âu liên
tiếp tổ chức các cuộc gặp gỡ, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề quan trọng của
khu vực và thế giới. Đáng chú ý nhất là việc ĐCS Hy Lạp từ năm 1998 đến nay
đã đăng cai tổ chức cuộc gặp giữa các ĐCS-CN tại thủ đô Aten gọi là "Cuộc gặp
quốc tế các ĐCS-CN quốc tế". Diễn đàn cuộc gặp quốc tế Aten đã trở thành hoạt
động thường niên của các ĐCS-CN toàn thế giới. Gặp mặt quốc tế Aten đã thu
12


hút ngày càng đông đảo đại biểu các ĐCS-CN từ khắp mọi khu vực, châu lục
của thế giới. Diễn đàn Aten trở thành phương thức tập hợp lực lượng với nhiều
nét mới phù hợp, có hiệu quả thiết thực của PTCSQT hiện nay. Các ĐCS-CN
tham dự diễn đàn gặp mặt đều đánh giá cao phương thức hoạt động chung này
do đều có cơ hội bình đẳng để bày tỏ quan điểm, chính kiến một cách dân chủ,
khơng có sự áp đặt trong mọi hoạt động của diễn đàn.
Nhận rõ tính đa dạng trong lập trường, quan điểm và điều kiện hoạt động
khác nhau giữa các ĐCS-CN, diễn đàn Aten luôn tìm kiếm và thể hiện tính sáng

tạo, linh hoạt đối với việc xử lý những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ giữa các
ĐCS-CN nhằm thúc đẩy tình đồn kết, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các đảng tham
gia diễn đàn. Do đó, từ việc lựa chọn hình thức, nội dung phối hợp hoạt động
đến việc xác định mức độ, khuôn khổ lập trường quan điểm chung cũng như
cách thức công bố kết quả của từng kỳ gặp mặt đều được tính tốn một cách
thận trọng. Nét mới đáng chú ý của Diễn đàn Aten là trên thực tế đã diễn ra
không theo một khuôn mẫu cứng nhắc, sự tham dự của các đảng là hồn tồn tự
nguyện. Hình thức hoạt động trong các kỳ gặp mặt ngày càng trở lên đa dạng,
gồm: hội nghị, hội thảo, gặp gỡ theo khu vực và song phương, mít tinh, diễu
hành biểu dương lực lượng… Nội dung hoạt động cũng ngày càng được mở
rộng, bám sát yêu cầu đang đặt ra đối với PTCSQT và thực tiễn vận động của
thế giới đương đại. Những vấn đề chính được tập trung thảo luận, trao đổi cũng
rất phong phú như: giá trị khoa học và thực tiễn của học thuyết Mác - Lênin
trong giai đoạn hiện nay; nguyên nhân sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông
Âu và tác động của sự biến này; chiến lược, sách lược xây dựng liên minh của
GCCN; toàn cầu hoá, khu vực hoá và tác động của các xu thế này đối với các
lực lượng cộng sản, công nhân thế giới; về phương án thay thế đối với hình thái
tồn cầu hố tư bản chủ nghĩa; về những sự kiện quốc tế lớn, về hoạt động
khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố; chiến tranh của Mỹ ở Apganistan, Irắc
và thái độ của các ĐCS-CN trên thế giới, v.v... Hình thức và nội dung hoạt động
của các cuộc gặp Aten khơng chỉ cho thấy tính phù hợp của phương thức tập hợp
lực lượng mới giữa các ĐCS-CN, mà còn chứng tỏ các đảng này mặc dù đứng
13


trước vơ vàn khó khăn thử thách lớn nhưng vẫn tỉnh táo, nhạy cảm về chính trị,
quan tâm và nắm bắt trúng nhiều vấn đề bức xúc đang phải đối mặt.
Gặp mặt Aten đã tận dụng kịp thời thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại để tăng cường hoạt động chung giữa các ĐCS-CN thế giới.
ĐCS Hy Lạp đã sớm lập ra Website để liên hệ một cách

nhanh chóng với tất cả các đảng khác. Những đảng khơng có điều kiện cử đồn
đại biểu đến dự, nhờ có trang Website, vẫn có thể giữ được liên hệ với diễn đàn,
vẫn có thể gửi tài liệu, văn bản đến diễn đàn một cách nhanh chóng và tiết kiệm
nhất. Gặp mặt Aten đã trở thành một hình thức hoạt động quốc tế rất sáng tạo
của các ĐCS-CN, các lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới gần một thập kỷ
qua.
Tại khu vực Mỹ Latinh, các ĐCS-CN và cánh tả từ đầu thập niên 90 đến
nay đã có sáng kiến định kỳ hàng năm tổ chức gặp gỡ trong khuôn khổ Diễn
đàn Sao Paulô (Brazin) nhằm đánh giá sự vận động, phát triển của PTCS, cánh
tả quốc tế nói chung và ở khu vực nói riêng, từ đó tìm kiếm các biện pháp phối
hợp hành động chung. Diễn đàn Sao Paulô sau gần 20 năm hoạt động đã thu hút
sự tham gia của hơn 140 ĐCS-CN và cánh tả của gần 50 nước trên thế giới, góp
phần năng động hoá hoạt động của cánh tả Mỹ Latinh, thúc đẩy trào lưu cánh tả
tại đây có bước phát triển mới. Tuy mức độ hoạt động còn chưa đồng đều ở từng
nước, nhưng các ĐCS-CN Mỹ Latinh đã thể hiện ngày càng rõ nét vai trò hạt
nhân trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, bước đầu tập hợp
được xung quanh mình những lực lượng tiến bộ, chứng minh cho sự bắt đầu hồi
phục và có bước phát triển mới của PTCS và cánhh tả ở đây. Chỉ trong thời gian
ngắn, tại Mỹ Latinh đã có 10 chính phủ cánh tả tiến bộ cầm quyền (Vênêzuêla,
Chilê, Braxin, Áchentina, Panama, Urugoay, Bôlivia, Nicaragoa, Êcuađo,
Goatêmala), chiếm gần 1/3 số nước trên lục địa châu Mỹ. Một số đảng cánh tả
giữ vị trí đối lập mạnh như ở En Xanvađo, Mêhicơ, Pêru, Cơlơmbia.... Sự kiện
này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
cánh tả và cách mạng tiến bộ trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh PTCSQT tuy
14


đã từng bước hồi phục nhưng chưa thực sự vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng sâu
sắc từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX.
Tính linh hoạt và cơ chế mở trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của Diễn

đàn tạo điều kiện cho các chính đảng, phong trào và lực lượng chính trị theo
nhiều khuynh hướng đa dạng: từ các đảng cộng sản cầm quyền hoặc chưa cầm
quyền, các đảng dân chủ - xã hội đến các tổ chức, phong trào dân tộc cấp tiến
đều có cơ hội tham gia, bày tỏ quan điểm, chính kiến một cách dân chủ trước
những chủ đề được lựa chọn trong mỗi kỳ hội nghị. Đây là một nét mới trong cơ
chế phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng của các ĐCN-CN với cánh tả, phù
hợp với sự thay đổi tương quan lực lượng ở khu vực và trên thế giới từ đầu thập
niên 90 thế kỷ XX trở lại đây. Do đó, tham gia Diễn đàn lúc cao nhất như Hội
nghị lần thứ XI (Goatêmala-2002) có tới 142 ĐCS-CN và cánh tả từ 46 nước
Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Đại Dương và Trung
Đông. Sự ra đời và hoạt động của Diễn đàn đưa Mỹ Latinh thực sự trở thành
một điểm sáng hội tụ những nỗ lực trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân
tộc và lựa chọn con đường phát triển, chống nghèo đói bất cơng, chống áp đặt nơ
dịch và cường quyền đế quốc. Diễn đàn là một biểu tượng sinh động về tình
đồn kết, sự sẻ chia mối quan tâm giữa các lực lượng cộng sản, cánh tả trước
những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với PTCS, cánh tả trong giai đoạn hiện
nay.
Diễn đàn Sao Paulô qua các kỳ hội nghị đã quan tâm đến hàng loạt vấn đề
của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội Mỹ Latinh và thế giới, song vấn đề nổi
bật nhất và xuyên suốt hoạt động của Diễn đàn là sự phê phán gay gắt đối với
việc áp đặt mơ hình CNTD mới, chỉ rõ tính khơng tương thích và những hậu quả
nặng nề của nó đối với các nước khu vực, đồng thời nỗ lực tìm giải pháp thay
thế. Trên cơ sở phân tích thực tế tình hình khu vực Mỹ Latinh, càng về những
hội nghị gần đây, từ quan điểm lý luận đến việc xác định phương hướng hoạt
động và tìm tịi mơ hình phát triển cho các nước khu vực, Diễn đàn ngày càng
tiến gần đến lập trường có tính chất XHCN. Điều này được thể hiện nổi bật khi
Diễn đàn khẳng định: giải pháp thay thế CNTD mới phải gắn với thực hiện cách
15



mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từng bước quá độ lên CNXH. Diễn đàn từng
xác định 10 phương hướng hoạt động của cánh tả khu vực là: bảo vệ cuộc sống
con người; thực hiện tự do, công bằng trong bầu cử; nhà nước thực sự chăm lo
đời sống cho quần chúng nhân dân lao động; bảo vệ sự phát triển của tồn hành
tinh; bình đẳng giới; có chương trình phát triển cho các cộng đồng cư dân bản
địa (đặc biệt là người da đỏ); có kế hoạch phát triển cân đối kinh tế xã hội của
mỗi nước; thực hiện khu vực hố và tồn cầu hố; bảo vệ quyền lợi của các
nhóm dân di cư, bảo vệ mơi trường. Những phương hướng này rõ ràng chứa
đựng những quan điểm phát triển con người phù hợp với mục tiêu của CNXH.
II.Triển vọng Quốc tế cộng sản hiện nay
2.1 Phong trào cộng sản quốc tế hiện nay
Các ĐCS đang đứng trước thách thức lớn – phong trào cộng sản lâm vào
khủng hoảng và suy thối, uy tín của các ĐCS giảm sút, nội bộ bị phân hóa, nhất
là sau khi ĐCS Liên Xơ tan rã, ảnh hưởng và uy tín của phong trào cộng sản
giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do việc chậm tổng kết lý luận và thực tiễn,
giáo điều trong việc áp dụng kinh nghiệm và vận dụng lý luận, chậm đổi mới về
tổ chức và phương thức hoạt động. Những sự khủng hoảng và suy thối của
phong trào cộng sản cịn có nguồn gốc từ những sai lầm nảy sinh trong những
năm 30-50 như sự độc quyền chân lỹ, sự áp đặt đường lối và phương pháp tư
fmoojt đảng lớn, sự tranh giành quyền lãnh đạo đối với phong trào cộng sản và
nước xã hội chủ nghĩa
Ngoài ra, một số ĐCS cầm quyền đã dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn dẫn
đến những cuộc chiến tranh biên giới giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau,
vì thế đã đưa đến sự phân hóa sâu sắc và khủng hoảng nghiêm trọng trong
phong trào cộng sản quốc tế.
Ở một số ĐCS, ban lãnh đạo đã phạm sai lầm trong việc thóng nhất tư tưởng
và hành động của giai cấp công nhân. Với lập trường “ tả khuynh biệt phái mới”
16



họ đã từ chối việc hợp tác liên minh với những chính đảng và trào lưu chính trị
khác. Từ độc quyền chân lý, đọc quyền lãnh đạo, họ coi những đảng khơng ăn
cánh với mình là cơ hội xét lại, là “ đội quân ngầm” của kẻ thù giai cấp, do vậy
trong một thời gian dài đã đẩy các đảng ấy sang trận tuyến chống cộng sản, hoặc
trở thành lực lượng trung lập trong cuộc đấu tranh giai cấp.
Gần đây trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện xu hướng mới ở các
nước Tây Âu, Đông Âu và những nước cộng hịa thuộc Liên Xơ cũ, các lực
lượng cánh tả mà nòng cốt là những người cộng sản đã giành những thắng lợi
quan trọng các cuộc bầu cử quốc hội và chính quyền địa phương đảng viên cộng
sản đã được bầu vào các vị trí trọng yếu trong chính quyền ở nhiều nước. Các
ĐCS thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đơng Âu, sau khi mất chính quyền
đã phân hóa và tan rã, có đảng chuyển sang vị trí đối lập nhưng vẫn có vai trị
nhất định trong xã hội.
Ở Tây Âu và Châu Á, một số ĐCS và cơng nhân lực lượng tuy có giảm sút
nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định trong đời sống chính trị và đang lãnh đạo
cuộc đấu tranh vì dân sinh dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ở châu Mỹ, ngoài ĐCS Cuba, ĐCS Chile còn một số tổ chức theo khuynh
hướng xã hội chủ nghĩa như Mặt trận Sandino ở Nicaragoa, Ensanvado,
Coolimbia... là những lực lượng kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc và chính
quyền phản động.
Tình hình trên cho thấy mặc dù đang trải qua cuộc khủng hoảng trâm trọng
sau sự tan rã của Liên Xô, nhưng qua thử nghiệm phong trào cộng sản quốc tế
đã bắt đầu “hồi tỉnh” và đang có những nỗ lực nhằm giành lại uy tín và ảnh
hưởng trong quần chúng. Cùng với lực lượng cánh tả, họ đang cố gắng đưa đất
nước ra khỏi thời kỳ : hậu cộng sản”
2.2 Triển vọng
Phong trào cộng sản quốc tế có thể đã qua được một chặng gian nan của
cuộc khủng hoảng cuối thế kỉ XX, xong trong bối cảnh chính trị phức tạp hiện
17



nay, nhiều vấn đề đang được đặt ra đòi hỏi mỗi ĐCS và cả phong trào cộng sản
quốc tế cần phải có những chuyển biến to lớn về sách lược. Để tồn tại và phát
triển, các ĐCS phải đổi mới, để thoat khỏi khủng hoảng và phát triển
+ Đổi mới tư duy lý luận và phương pháp hoạt động
Việc đổi mới tư duy lý luận, thực chất là bảo vệ những nguyên lý khoa học
và cách mạng của Mác- Leenin, kiên quyết chống bọn cơ hội xét lại, đồng thời
gắn chặt lý luận với cuộc sống, vận dụng, phát triển và làm phong phú lý luận
cách mạng của giai cấp công nhâ, đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ ngĩa
dân tộc dưới mọi hình thức. Phương pháp phối hợp hành động, giúp đỡ lẫn nhau
trên nguyên tắc bình đẳng, độc lập tự chủ của mỗi ĐCS ngày càng chứng tỏ là
phương pháp thích hợp của phong trào cộng sản trong tình hình hiện nay
+ Xây dựng sự thống nhất mới của phong trào cộng sản quốc tế
Phong trào cộng sản quốc tế phải tiêu biểu cho sự đoàn kết nhất trí,một lực
lượng quốc tế tiên tiến nhất và mạnh mẽ nhất của lồi ngươì tiến bộ.Phong trào
cộng sản quốc tế tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên
cơ sở lập sự thống nhất về tư tưởng và hành động, vận dụng chiến lược, sách
luợc đúng đắn để tập hợp lục lượng giành thắng lợi cho cuộc đổi mới và phát
triển.
Sự thống nhất tư tưởng và hành động luôn luôn là sự cần thiết nhưng không
chấp nhận bất cứ sự đồng nhất nào muốn rập khn một hình mẫu, hoặc một “
cương kĩnh chung” ,mang tính chất áp đặt tư tưởng, đường lối của một số đảng
đối với toàn bộ phong trào các đảng thống nhất đa dạng. Tăng cường mở rộng
các hình thức quan hệ giữa đảng bằng các cuộc gặp gỡ, hội nghị quốc tế hoặc
khu vực để trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động, ủng hộ và giúp đỡ lẫn
nhau trên tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân và các nguyên tắc trong hoạt
dộng của phong trào quốc tế
+ Đổi mới gắn liền với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới


18


Các Đảng cầm quyền cần nhạy cảm với cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, kiên quyết sửa chữa những sai lầm, tìm mọi biện pháp tiếp cận có
hiệu quả cuộc cách mạng này, kể cả việc học tập kinh nghiệm của giai cấp tư
sinh thế giới để cải tiến quản lý, phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động
rút ngắn khoảng cách hiện còn rất lớn so với nền văn minh vật chất của CNTB
hiện đại.
Các ĐCS cần đổi mới phương thức, nội dung hoạt động trong môi trường
quốc tế, bắt kịp với một thế giới mới đang chuyển biến nhanh chóng và cực ký
phức tạp. Tuy nhiên cần chống mọi biểu hiện của “tả” và “hữu” khuynh trong
quá trình đổi mới.
+ Mở rộng liên minh với các phong trào, tổ chức quốc tế đang tồn tại và
hoạt động trên thế giới hiện nay.
Các ĐCS cần chủ động liên minh rộng rãi với các phong trào, tổ chức quốc
tế đang tồn tại và hoạt động trên thế giới hiện nay. Đó là sự liên minh và hợp tác
quố tế xã hội chủ nghĩa với các đảng dan chủ- xã hội và các “đảng cánh tả” đang
xuất hiện ở nhiều nước tư bản phát triển, với các Đảng xanh của phong trào bảo
vệ môi trường sinh thái...
Khi thực hiện liên minh chính trị rộng rãi, các ĐCS phải triệt để tuân theo
nguyên tắc giữ vững tính độc lập của mình, tiến hành đấu tranh chống “tả” và
“hữu”, đề phòng khuynh hướng chống “tả” mà ngả hẳn sang “ hữu”, phải phê
phán, thậm chí lên án những lãnh tụ cộng sản dao động trước sức ép của thế lực
chống cộng, chống chủ nghĩa Mac- Lenin, vội vàng thay đổi mục tiêu, thay đổi
cương lĩnh, đoạn tuyệt với học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân. Phong trào cộng sản quốc tế phải luôn gắn chặt cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, các thế lục phản động với cuộc đấu tranh chống các loại hủ nghĩa
cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc.


19


Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại “hữu” “tả” khuynh là nhiệm vụ
thường xuyên để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin và củng cố tình
đồn kết quốc tế của giai cấp công nhân trên thế giới.
II.

Tình hình Việt Nam
Việt Nam sau 20 năm đổi mới, GDP tăng 3,5 lần, thu nhập bình quân trên

đầu người tăng hơn 3 lần. Về đối ngoại, từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã
bình thường hóa, phát triển quan hệ đa phương, đa dạng với tất cả các nước theo
tinh thần “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 174 nước, quan hệ thương
mại với trên 200 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các
tổ chức, định chế quốc tế lớn, được bầu làm uỷ viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế tạm lâm vào thối trào, các thế lực
thù địch, phản động đã tận dụng cơ hội này lại đưa ra điệp khúc: chủ nghĩa Mác
- Lênin đã lỗi thời, Quốc tế cộng sản và chủ nghĩa xã hội (CNXH) đã đi vào hồi
kết... Những luận điệu ấy chẳng có gì mới. Trong thực tế, tư tưởng của Quốc tế
cộng sản vẫn tiếp tục khẳng định sức sống mãnh liệt và tác động sâu sắc đối
với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, công cuộc đổi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản do V.I. Lênin sáng lập và lãnh đạo đã khơng ngừng đấu
tranh vì sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì quyền lợi

của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động tất cả các nước.
Những vấn đề về đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng của Quốc tế
Cộng sản là ngọn cờ tư tưởng cho việc hoạch định, bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới của Đảng ta.
20


Dưới ngọn cờ của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng nhằm giải quyết vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại và đã giành được những thắng lợi vĩ đại, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNXH. Qua hơn 30 năm đổi
mới, Đảng ta đã kiên trì thực hiện đường lối đổi mới xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta đã hình thành được hệ thống
quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, đảm bảo cho công cuộc đổi mới phát triển nhanh, bền vững, vì
lợi ích quốc gia dân tộc. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã khẳng định
sự đúng đắn và giá trị lớn lao của Quốc tế Cộng sản.
Vấn đề khả năng phát triển lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa của các nước lạc hậu, Đảng ta đã chỉ rõ: “…bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội đối với nước ta là một quá trình cách mạng

sâu sắc, triệt để, đấu tranh quyết liệt, phức tạp, lâu dài giữa cái cũ và cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiện nay, tình hình quốc tế và các nhân tố thời đại có sự biến đổi phức
tạp, mau lẹ, hịa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng lớn tác động sâu sắc
đến mọi mặt đời sống xã hội nước ta. Vận dụng sáng tạo di sản, nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn tiếp tục được làm rõ, trong đó có “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” là “bỏ qua cái gì?” và “cái gì khơng được bỏ qua”?,“bỏ qua mà vẫn tuân
21


theo lôgic lịch sử - tự nhiên” là như thế nào?… ; giải quyết hài hòa các mối quan
hệ giữa giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế, giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với giữ vững ổn định chính trị - xã hội;
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân.
Tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản đã thông qua 21 điều kiện kết nạp, những
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; Đảng phải lấy chủ
nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của mình;
vai trị của đảng cộng sản trong hệ thống chun chính vơ sản; tập trung dân chủ
là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo
cách mạng của Đảng.
Đồng thời, Quốc tế Cộng sản đã đấu tranh không khoan nhượng với các
quan điểm sai trái, chủ nghĩa cơ hội “hữu khuynh” và “tả khuynh” trong các
đảng cộng sản mới ra đời; sự yếu ớt, thiếu kiên định tính đảng cộng sản; sự “non
kém” về nhận thức và giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng đối với đảng
cộng sản.
Trước yêu cầu nhiệm vụ đổi mới trong tình hình mới, bên cạnh những
thành tựu to lớn, Đảng ta cịn bộc lộ khơng ít những hạn chế trong lãnh đạo và
cầm quyền, nhất là tình trạng tham nhũng, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đang có nguy cơ đe
dọa sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Để ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là Đảng cách mạng chân chính, trong sạch,
vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy, ủy thác của nhân dân, Đảng ta cần phải
thường xuyên lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, coi trọng việc nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận, tiếp thu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những kinh
nghiệm của Quốc tế Cộng sản, đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn, lãnh đạo công cuộc đổi mới thắng lợi.
22


Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đã, đang và sẽ tiếp tục chống
phá Đảng ta cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức, thực hiện “diễn biến hịa
bình” với những âm mưu, thủ đoạn và hành vi hiểm độc. Tính chất độc hại, nguy
hiểm của nó đã gây nên sự mơ hồ, ngộ nhận, lẫn lộn về nhận thức, dao động về
tư tưởng, hoài nghi, suy giảm niềm tin của nhiều người vào sự lãnh đạo của
Đảng, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên.Vì thế, việc đấu tranh chống các
tư tưởng, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động là vấn đề có tính
ngun tắc, một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong tổ chức và hoạt động
lãnh đạo của Đảng ta hiện nay. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05
của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện triệt để Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII
về kiện tồn sắp xếp bộ máy Đảng, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Quốc tế Cộng sản đã để lại bài học quý báu về xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và

bồi dưỡng cho Việt Nam gần 100 cán bộ, trong đó có những cán bộ đã trở thành
lãnh tụ chính trị, chiến sĩ cộng sản xuất sắc như: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Hà
Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… Nhờ đó mà chủ nghĩa
Mác-Lênin đã được đội ngũ cán bộ này truyền bá vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta từng bước trưởng thành vững chắc
về lý luận cách mạng, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng
lợi to lớn, giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ nước ta đang có sự chuyển giao thế hệ từ lớp
cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu
được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ
23


sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hịa bình và được đào tạo từ nhiều
nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có đủ phẩm chất và năng lực,
ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến cơng tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới. Chủ trương, nguyên
tắc, quan điểm về công tác cán bộ của Đảng cần được thể chế, cụ thể hóa bằng
quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ và chính xác hơn. Cơng
tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách cán bộ phải
được thực hiện theo quy hoạch, chặt chẽ, đúng quy chế, quy định và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hơn. Cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với
người tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực xã hội, quan liêu, tham
nhũng…; mặt khác, phải kiên quyết xử lý những những cán bộ, đảng viên thối
hóa, biến chất, “chạy chức, chạy quyền, bè phái, cục bộ, gia trưởng, quan liêu,
tham nhũng, lợi ích nhóm…”. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai
đồng bộ, thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác

cán bộ, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những hành vi tiêu cực.
Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa quốc tế vô sản trong hoạch định và thực
hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Với khẩu
hiệu chiến lược: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”,
Quốc tế Cộng sản đã giương cao ngọn cờ chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhằm tập
hợp, đồn kết đảng cộng sản, giai cấp cơng nhân, lực lượng tiến bộ cách mạng ở
các nước thành mặt trận thống nhất đấu tranh chống đế quốc phong kiến, chống
chủ nghĩa phát xít, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội thế giới.
Trung thành với những vấn đề có tính ngun tắc về chủ nghĩa quốc tế vô
sản (nay gọi là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân), Đảng ta khẳng định:
Trước sau như một, ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến
bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại. Trong tình
hình mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục quán triệt sâu sắc những vấn đề có tính
ngun tắc trong thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân để bổ sung,
phát triển đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
24


yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, giữa lợi ích
quốc gia dân tộc và lợi ích quốc tế. Có thể nói, thực hiện chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân là nguyên lý, đồng thời là quy luật của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Chương III. Tinh thần của Quốc tế cộng sản đối với công cuộc đổi mới Việt
Nam hiện nay
Trải qua gần một phần tư thế kỷ hoạt động (1919 - 1943), Quốc tế Cộng
sản không ngừng đấu tranh vì sự phát triển của phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế, vì quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tất cả
các nước, vì độc lập dân tộc, dân chủ, hịa bình và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự kế
tục xứng đáng sự nghiệp vĩ đại của Quốc tế I và những giá trị của Quốc tế II.
Trong thời đại ngày nay, những bài học kinh nghiệm và đường lối cách mạng

của Quốc tế Cộng sản vẫn còn nguyên giá trị đối với các đảng cộng sản và
phong trào cách mạng thế giới.
Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng Việt Nam, định
hướng cho cách mạng nước ta về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đào
tạo cán bộ, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị các điều kiện về
tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ Quốc tế Cộng sản,
thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh và phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng, hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ, thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, các thế lực thù
địch, phản động đã tận dụng cơ hội này đưa ra điệp khúc: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, Quốc tế Cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã đi vào hồi kết... Những
luận điệu ấy khơng có gì mới. Trên thực tế, Quốc tế Cộng sản tiếp tục khẳng
25


×