MỤC LỤC
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 34
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa là con đường tất yếu của các quốc gia để đạt được trình độ
một nước phát triển. Trên thế giới đã có nhiều nước tiến hành thành công công
nghiệp hoá và hiện nay cũng còn nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hoá.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người, công nghiệp hoá ở
những nước khác nhau có sự khác nhau về mô hình, về thời gian thực hiện và do
đó có sự khác nhau về ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế, chính trị - xã hội.
Sự phát triển của nền kinh tế kể từ khi đổi mới (1986) đến nay đã thu được
nhiều kết quả đáng kể.Trong đó phải kể đến vai trò rất quan trọng của Đảng và
Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược phát triển
kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, hạn chế tối thiểu những mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của Đảng quả lý của
Nhà nước để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã
lựa chọn. Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các
nước khác.
Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng có vai trò nhất định trong sự phát
triển của một quốc gia, đặc biệt là trong sự nghiệp cải tổ và xây dựng nền kinh tế.
Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong
nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Trong điều kiện
như vậy thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là khách quan, một nhu cầu nội
tại của nền kinh tế thị trường, thể hiện ở việc Nhà nước điều tiết nền tế kinh thông
qua việc hoạch định chính sách. Vì vậy, vai trò của Đảng, Nhà nước trong việc giữ
ổn định chính trị - xã hội, quản lý và điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là trong quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa là vấn đề mang tính thời sự và là đề tài nghiên
cứu của nhiều cấp, ngành, nhiều cán bộ và sinh viên.
Trong bất kỳ xã hội nào, kinh tế cũng là nền tảng của xã hội. Nền tảng kinh tế
không được phát triển ổn định thì không có chính trị ổn định. Sự ổn định chính trị -
xã hội về thực chất là sự ổn định của các chính sách kinh tế xã hội, thể hiện ở khả
2
năng điều chỉnh các chính sách kinh tế, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khuyến khích mọi tầng lớp tham
gia sản xuất. Và ổn định chính trị xã hội là điều kiện thuận lợi để kinh tế phát triển.
Vì vậy giữa ổn định chính trị – xã hội với phát triển kinh tế có mối quan hệ biện
chứng. Việc nghiên cứu mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trong cả về mặt lý
luận và thực tiễn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với ý nghĩa như trên học viên xin chọn đề tài là:
“Quan hệ giữa ổn định chính trị - xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước” làm đề tài tiểu luận cho môn học Chính
trị học nâng cao của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
ổn định chính trị - xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá (CNH- H§H) đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương. Trong các Văn kiện của
Đảng đều bàn tới vấn đề này; nhiều công trình khoa học nghiên cứu được xuất bản
và đăng trên các báo, tạp chí, cụ thể như:
- Ngô Đình Giao: Suy nghĩ về công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta, Nxb
Khoa học, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Duy Hùng: Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường- kinh nghiệm các nước ASEAN (Nxb khoa học xã hội 1999);
- Phạm Ich Khiêm - Nguyễn Đình Phan: CNH- H§H Việt Nam và các nước
trong khu vực; Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994.
- Võ Đại Lưîng: Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế, kinh nghiệm
ASEAN và Việt Nam; Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
- GS, TS. Dương Xuân Ngọc (chủ biên): Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị- từ nhận thức đến thực tiễn, Nxb chính trị – hành chính, Hà Nội,
12.2009.
3
- Vì TuÂn Anh: Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1999.
- Báo Tuổi trẻ, ngày 1/4/2010: Phát triển kinh tế gắn với an dân;
- Việt Ân (Báo Quân đội nhân dân, ngày3/3/2010): Giữ vững ổn định chính trị
để tạo thỊ phát triển;
- Việt báo.com (13/7/2003): Giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế,
xã hội;
Các công trình nghiên cứu trên đã phần nào làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực
tiễn, mối quan hệ giữa ổn định chính trị – xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh
CNH – H§H ở nước ta trong thời kì hiện nay, đồng thời trên cơ sở đó đã đề ra
nhiều giải pháp để giải quyết mối quan hệ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Đưa ra hệ tri thức với tính chất là quan điểm cơ bản vỊ ổn định chính trị- xã
hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước;
Sử dụng các tri thức nói trên vào đánh giá thực trạng, phát hiện các vấn đề đặt ra về ổn
định chính trị- xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH-H§H đất nước;
Đề xuất những giải pháp tác động nhằm giải quyết quan hệ giữa ổn định chính
trị - xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lÝ luận về ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, đẩy
mạnh CNH- H§H đất nước;
Đánh giá thực trạng về quan hệ giữa ổn định chính trị – xã hội với phát triển
kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước;
Đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm ổn định chính trị – xã hội với phát triển kinh
tế, đẩy mạnh CNH- H§H ở nước ta hiện nay.
4. Đối tuîng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
4
Quan hệ giữa ổn định chính trị - xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH-
H§H đất nưíc;
* Phạm vi nghiên cứu
ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H ở nước ta
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lªnin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ giữa ổn định chính trị –
xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước.
* Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nhgiªn cứu, tác giả đã sô dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy
nạp.
6. ý nghĩa của đề tài
Về lý luận: góp phần khái quát lý luận về quan hệ giữa ổn định chính trị – xã
hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước.
Về thực tiễn: Đề tài góp phần giải quyết mối quan hệ giữa ổn định chính trị –
xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nước.
7. Kết cấu nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của đề tài gồm 3 chương.
5
Chương 1:
Tính tất yếu khách quan về quan hệ giữa ổn định chính trị -
xã hội với phát triển kinh tế, đẩy mạnh CNH- H§H đất nưíc
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Chính trị và ổn định chính trị- xã hội
* Chính trị
Chính trị theo nghĩa tổng quát nhất, là khoa học nghiên cứu lĩnh vực chính trị, khoa
học về chính trị nhằm làm sáng tỏ những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống
chính trị - xã hội, cũng những thủ thuật chính trị để hiện thực hoa những quy luật, tính quy
luật đó trong xã hội có giai cấp được tổ chức thành nhà nước.
* ổn định chính trị- xã hội
ổn định chính trị- xã hội là khái niệm dùng để chỉ trạng thái xã hội mà trong
đó tình hình chính trị- xã hội được duy trì trong một trật tự nhất định, không có
những xung đột; là trạng thái xã hội không có những bất an về chính trị, càng
không có khủng hoảng chính trị; là trạng thái vận động nhưng là vận động trong
thăng bằng, cân đối giữa các mỈt của đời sống chính trị- xã hội. ổn định chính trị-
xã hội được thực hiện trên hai phương diện: Một là vÌ ý thức chính trị. Thực chất
sự ổn định của tâm lÝ chính trị là toàn xã hội vẫn có đủ niềm tin vào chế độ chính
trị, vào định hướng chính trị, không có sự khủng hoảng về niềm tin chính trị. Hai
là sự ổn định của hệ thống chính trị, đó là ổn định vị trí chính trị của các tổ chức
chính trị trong hệ thống chính trị và ổn định cơ chế hoạt động của hệ thống chính
trị: ổn định hoạt động của các chính đảng, của nhà nước, của các tổ chức chính trị -
xã hội và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị.
1.1.2. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
* Kinh tế thị trường (KTTT)
KTTT nói chung là những hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá,
một hình thức mà ở đó hầu hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị trường, chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế vốn có của nó.
6
KTTT là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, diễn ra trong
môi trường cạnh tranh và lấy lợi nhuận làm động lực thúc đẩy.
* KTTT định hướng XHCN
Đã có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau xung quanh việc đưa ra một
khái niệm về KTTT định hướng XHCN, nhưng nói chung đều tập trung làm nổi
bật một số ý sau:
Đó là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN là việc sử dụng công nghệ KTTT để thực hiện
mục tiêu của CNXH. Là quá trình giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: vừa phát
triển kinh tế thị trường, vừa phải thực hiện các mục tiêu của CNXH
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhằm mục đích phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống nhân dân.
1.1.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH- H§H)
Để thực hiện CNH- H§H chúng ta cần phải có các điều kiện cơ bản là: Thị
trường, công nghệ, vốn.
* Công nghiệp hoá
CNH là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn
bản về kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực
và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại.
* Hiện đại hoá
Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của H§H. Hiện đại hoá có
nội dung lớn và phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá. Hiện
đại hoá thường được định nghĩa là một quá trình nhờ đó các nước đang phát triển
tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị
và củng cố cơ cấu xã hội, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội và chính trị
7
giống hệ thống của những nước phát triển. Hiện đại hoá cưỡng bức, dập khuôn sẽ
làm bại hoại cho quốc gia vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân
chủ.
1.2. Vai trò của ổn định chính trị - xã hội
1.2.1. ổn định chính trị - xã hội là điều kiện, là tiền đề phát triển của xã
hội ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử
Tư duy biện chứng xem xét ổn định đối lập với rối loạn và ổn định gắn liền
với biến đổi, phát triển. ổn định không có mục đích tự thân, ngược lại ổn định là
để phát triển, vì phát triển. Trong mối quan hệ đó, phát triển vừa đòi hỏi ổn định
phải thường xuyên được tăng cường, củng cố, đồng thời phát triển cũng tạo những
điều kiện, những tiền đề cho quá trình củng cố, nâng cao trạng thái ổn định. Lịch
sử phát triển của xã hội nói riêng, của thế giới khách quan nói chung hiện ra nh là
quá trình với chuỗi mắt xích: ổn định- biến đổi - phát triển- ổn định bền vững hơn-
phát triển trình độ cao hơn.
Chính vì vậy, ổn định chính trị được xem nh là một điều kiện, một tiền đề để
tạo ra sự phát triển cho kinh tế. Tất nhiên, sự ổn định không thể tồn tại lâu dài
trong mọi thời điểm của lịch sử. Sự ổn định chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó phù hợp
với yêu cầu của sự phát triển, khi nó đảm bảo cho những cái mới có thể ra đời và
trưởng thành, khi nó chống lại mọi sự cản trở từ các lực lượng đi ngược dòng lịch
sử để tạo ra một nền tảng xã h«Þ vững chắc cho sự phát triển.
ổn định chính trị- xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo điều
kiện, môi trường đầu tư an toàn cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, khi mà
tình hình an ninh chính trị trên thế giới và trong khu vực hiện nay đang là vấn đề
nóng bỏng, là sự quan tâm của tất cả mọi người, làm cho các nhà lãnh đạo của các
quốc gia phải có những mục tiêu, chiến lù¬c riêng để bảo vệ sự ổn định của quốc
gia mình.
1.2.2. Vai trò của ổn định chính trị- xã hội đối với kinh tế
8
Kinh tế quyết định chính trị, và chính trị có sự tác động trở lại đối với kinh
tế. Lªnin đã chỉ rõ: Chính trị chỉ là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Vì vậy, ổn
định chính trị- xã hội sẽ làm cho đường lối phát triển kinh tế được giữ vững, định
hướng phát triển kinh tế rõ ràng. Mặt khác, ổn định chính trị- xã hội, nhà nước mới
có điều kiện tập trung tìm ra giải pháp cho những bài toán kinh tế nan giải, phức
tạp, từ đó mới tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Đồng thời nhà nước cũng có
điều kiện để đầu tư nhiều hơn cho kinh tế, ổn định chính trị- xã hội còn đảm bảo
cho các công trình xây dung không bị phá hoại bởi nhưng sự đụng độ, những cuộc
xô xát bạo lực, làm cho kết cấu hạ tầng của xã hội được giữ vững.
Hiện nay, ổn định chính trị còn tạo điều kiện để các nhà doanh nghiệp nước
ngoài yên tâm đầu tư kinh doanh mà không sợ những biến động xã hội làm thất
thoát tài sản của họ.
1.3. Quan hệ giữa ổn định chính trị- xã hội với phát triển kinh tế đẩy
mạnh CNH- H§H ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, chúng ta đã thực hiện rõ nhất sự tác động tích cực
của chính trị đối với kinh tế. Chính sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trên cơ sở
nghiêm cứu một cách nghiêm túc thực tiễn của đất nước đã mở ra một giai đoạn
phát triển mới trên lĩnh vực kinh tế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Mặt khác,
sự phát triển của kinh tế lại đưa tới sự ổn định của chính trị- xã hội làm cho đất
nước vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức, nâng cao được vị thế trên trường
quốc tế.
ở nước ta, công cuộc đổi mới được triển khai toàn diện và được bắt đầu từ
đổi mới tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối
nội, đối ngoại. Song đổi mới lại tập trung trước hết vào đổi mới kinh tế, khắc phục
và ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần
để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng củng cố niềm tin cho nhân dân, tạo điều
kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Một mặt, ổn định chính trị- xã
hội được giữ vững và phát huy vai trò của mình trong quá trình khắc phục khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tịng bước dẫn dắt đổi mới kinh tế theo tư duy mới; Mặt
9
khác chính trong quá trình đó, ổn định chính trị càng được tăng cường, củng cố, tư
duy chính trị ngày càng sắc bén, con đường đi lên CNXH ngày càng rõ hơn, hoạt
động của Nhà nước ngày càng có hiệu quả, hệ thống chính trị ngày càng được đổi
mới và thể hiện rõ hiệu lực của mình. Về vấn đề này, Đảng ta đã rót ra bài học
kinh nghiệm mang tính khái quát sau: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời tong bước đổi
mới chính trị; Tăng cường kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xÉ hội; Giữ
vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”.
Tính biện chứng của mối quan hệ giữa ổn định chính trị và ổn dÞnh kinh tế
dặc biệt thể hiện rõ trong trường hợp đất nước đứng trước những thư thách, khó
khăn, những lựa chọn cho tương lai. Đất nước ta từng rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế- xã hội, trong thời kì đó, ổn định chính trị trở thành nhân tố cực kì
quan trọng có ý nghĩa quyết định sự tồn vong của cả chế độ xã hội. Trên thực tế,
mục tiêu đặt ra lúc này là: “cần th¸ot nhanh khái tình trạng khủng hoảng và đưa lại
sự ổn định cho tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Để đạt được mục
tiêu này cần có sự ổn định về chính trị”. Vai trò của ổn định chính trị lúc này thực
hiện qua sự kiên định về lập trường cách mạng, vững vàng về tư duy khoa học ,
phát huy năng lực tổ chức lãnh đạo xã hội nhằm vạch ra đường lối chủ trương,
chính sách đúng đắn, động viên tập hợp lực lượng.
Trong thời kì đổi mới, ổn định chính trị- xã hội đã là điều kiện quyết định
đến sự phát triển kinh tế, thúc đẩy CNH- H§H đất nước.
10
Chương 2:
Thực chất quan hệ giữa ổn định chính trị- xã hội với phát
triển kinh tế, đẩy mạnh cnh- h®h ở nước ta hiện nay
2.1. Tình hình chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay
ổn định chính trị- xã hội ®uîc thực hiện trên hai phương diện là:
Một là, về ý thức chính trị, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn củng cố được
niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lÝ của Nhà
nước. Lòng tin của nhân dân ta ngày càng được củng cố vững chắc, luôn tin tưởng
và làm theo sự chỉ đạo của Đảng, đi theo Đảng. Đảng , Nhà nước và nhân dân ta
luôn xá định lấy chủ nghĩa Mác- Lªnin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho việc xác định đường lối chiến lược.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu XHCN, luôn tìm ra
con ®uêng đi mới cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước và thế giới,
tránh ®ù¬c những sai lầm như Liên Xô và Đông Âu. Lòng tin của quần chúng
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lÝ của Nhà nước được thể hiện trên
các mặt:
Về chính trị tư tưởng, đại đa số cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân giữ
vững được tinh thần cách mạng, có tinh thần trách nhiệm trước Đảng, cùng xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh, không bị các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên
truyền, xuyên tạc, làm mất lòng tin nơi quần chúng. Trong những năm qua, các thế
lực thù địch luôn lợi dụng những người dân ở các vùng sâu vùng xa, các đồng bào
dân tộc, những người dân nhẹ dạ cả tin để tuyên truyền các tư tưởng sai trái, thù
địch nhằm gay chia rẽ nội bộ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng, nói xấu cán bộ, gây hiểu lầm, tạo ra các hoạt động chống phá, gây mất
đoàn kết dân tộc. Nhng dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sự quan tâm của Đảng với quần
chỉng thì các hành vi chống phá đó đã bị thất bại như ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ,
Tây Bắc, Tây Nghệ An, và hoạt động của một số tôn giáo không với mục đích tốt
đẹp, mà là tuyên truyền phản động, chống phá.
11
Trước những khó khăn, phức tạp đó nhng chúng ta vẫn giữ được sự ổn định
về chính trị- xã hội, giữ được lòng tin của nhân dân, không bị khủng hoảng về
niềm tin chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng kết hợp trong việc phát hiện
và đấu tranh chống lại các hành vi phá hoại của kẻ thù, phát huy truyền thống yêu
nước của dân tộc.
Hai là, sự ổn định của hệ thống chính trị (HTCT): HTCT nước ta về cơ bản
®uîc tổ chức theo những mô hình phổ biến của HTCT các nước trên thế giới.
Đồng thời, HTCT nước ta cũng có những đặc điểm riêng, nhất nguyên chính trị và
một đảng- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. HTCT nước ta hiện nay bao gồm
§CS Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã
hội. Trong đó §CS Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo của HTCT.
HTCT ở nước ta tỏ rõ u việt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mü xâm lược, hoàn thành cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước. Sau chiến tranh, đất nước trải qua nhiều khó khăn do chủ quan và khách
quan, đặc biệt là sau khi hệ thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô tan rã nhng
HTCT của nước ta vẫn đứng vững và vượt qua được những thử thách, khủng
hoảng đưa đất nước phát triển lên một bước mới, đạt ®ù¬c nhiều thành tựu to lớn.
HTCT ở nước ta hiện nay luôn có sự phối kết hợp để cùng hoàn thành tốt nhiệm
vụ và mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra. Các tổ chức chính trị- xã hội từ cơ sở
lên đến Trung ương (TW) luôn có sự kết hợp chặt chẽ, thống nhất.
Qua hoạt động của HTCT mà toàn thể nhân dân, cán bộ, đảng viên hiểu
®ù¬c ý nghĩa của dân chủ cũng như quyền làm chủ và nghĩa vụ, trách nhiệm công
dân của mình. Trên cơ sở đó mỗi người sẽ biết đấu tranh với những sai trái, vi
phạm pháp luật, những hiện tượng tiêu cực mất dân chủ để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình. Nước ta chỉ có một đảng duy nhất là §CS Việt Nam nên mọi hoạt
động của HTCT đều có sự nhất quán, vì một mục tiêu là xây dựng đất nước đi theo
con đường XHCN.
12
2.2. Thực trạng việc hình thành và phát triển nền KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta
2.2.1. Bản chất KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số
điểm nh sau:
Thứ nhất, quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường
đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị
trường thế giới.
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền KTTT
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng
tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền KTTT và quá trình
chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước.
2.2.2. Đặc trưng của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Mục đích của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên trong xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về sở hữu, sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát
triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc,
tránh nóng vội xây dựng å ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý, trong KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền kinh tế bằng
pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường,
13
các hình thức kinh tế và phương thức quản lý KTTT để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết
tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động và toàn thể quần chúng
nhân dân.
Về phân phối, KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đông thời hạn chế những bất công trong
xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT nước ta còn thể hiện ở chỗ
tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác- Lªnin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguêi, xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của nhà nước thể hiện trình độ tư duy và vận dụng của Đảng ta về
qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.2.3. Thực trạng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
* Trước đổi mới
Từ năm 1975 đất nước ta hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách mạng Việt
Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng
nặng nề do chiến tranh kéo dài. Nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua
bao khó khăn thử thách mới giành được độc lập thống nhất đất nước. Chúng ta đã
14
có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế
bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y
tế, thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế
vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề, tính tự
cung tự cấp. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như trong kết cấu
hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong
nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp
để lại nhiều hậu quả tiêu cực do đó nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều với đặc trưng sản xuất chậm và
không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động
và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, trật tự an toàn
xã hội không được đảm bảo, tham nhũng nhiều và tệ nạn xã hội phát triển.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 Ban chấp
hành Trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được chấp
nhận nhưng mới ở mức độ thứ yếu. Đó là, do nhiều thập kû qua tư tưởng kinh tế xã
hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến coi quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường là
biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác, do chúng ta xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều chủ quan duy ý chí, bố trí cơ
cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn với xoá bỏ các hình
thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể, nặng nề hình thức phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ
chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả. Những sai lầm đó đã
dẫn đến việc kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển, cuộc cải
cách kinh tế bị đẩy lùi.
* Sau đổi mới
Khi chuyển sang KTTT chúng ta đứng trước thực trạng là đất nước đã và
đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội thấp. Không những
15
thỊ, đất nước ta lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại vô cùng nặng
nề, những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Từ những đặc điểm trên ta có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta không
còn hoàn toàn là nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế
hàng hoá theo ý nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế nền kinh
tế nước ta khi chuyển sang KTTT là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn
mang nặng tính chất tự cấp, là ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp. Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, kinh tế hàng hóa kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự
cung tự cấp, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, chưa có thị trường
theo đúng nghĩa của nó và năng suất lao động xã hội, thu nhập quốc dân tính theo
đầu người còn thấp.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và
phát triển của thị trường ngày càng đầy đủ và thông suốt, thống nhất trên phạm vi
cả nước, phải gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ hai, về thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền KTTT là
ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hai
cơ chế kinh tế cũ và mới (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và thị trường) có
nhiều đặc điểm khác nhau, điểm khác nhau cơ bản nhất là: cơ chế cũ hình thành
trên cơ sở thu hẹp hoặc gần như xoá bá quan hệ hàng và tiền tƯ, làm cho nền kinh
tế bị “hiện vật hoá”, còn cơ chế mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng
hoá tiền tệ.
Quy luật tồn tại trong cơ chế giao nộp và cấp phát chỉ là hình thức, việc mở
rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử cho nên hạn chế quan hệ
hàng hoá tiền tƯ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh tế, kìm hãm
nhân tố mới. Do đó làm cho nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế
khách quan mặc dù trong tay nhà nước có thực lực kinh tế to lớn. Vì vậy, Đại hội
lần thứ VII Đảng ta đã khẳng định: Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan
16
liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ
hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ sức lao động, thực hiện kinh tế thông suốt trong cả
nước và với thị trường thế giới.
Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm về chính sách đối ngoại và quan điểm: “Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”, chính sách kinh tế đối ngoại của nền kinh tế hàng hoá
nước ta hiện nay được thực hiện theo những định hướng sau:
Đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế với mọi quèc gia, mọi tổ chức kinh tế
không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền bình
đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường
quen thuộc và với bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập và tạo chỗ đứng ở
thị trường mới, phát triển các mối quan hệ dưới mọi hình thức.
Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ
đắc lực mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện CNH- H§H theo định hướng
XHCN.
Hội nhập vào nền kinh tế thỊ giới, phát huy ý chí tự lực tự cường; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực ở bên ngoài.
Theo những định hướng trên, những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại ở
nước ta đã lập lại quan hệ bình thường với các quan hệ tài chính, tiền tệ quốc tế,
bước đầu đã thu được những thành tựu quan trọng về kinh tế đối ngoại, như: tham
gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, APEC, ASEAN, hiện nay nước ta có
quan hệ ngoại giao với 169 nước và có quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường và
các vùng lãnh thổ.
* Hạn chế trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta
M¨c dù nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh
tế và ổn định tình hình chính trị - xã hội nhưng không phải không còn những tồn
17
tại cần được giải quyết, nhất là những tồn tại trong việc điều hành nền kinh tế và
giải quyết các vấn đề thương mại nhằm làm lành mạnh hoá nền kinh tế và đẩy
nhanh công cuộc phát triển kinh tế nước nhà.
Một trong những hạn chế lớn hiện nay là nước ta còn thiếu quá nhiều thông
tin, đặc biệt là thông tin trong lĩnh vực kinh tế. Không có các thông tin cần thiết về
thị trường, về Luật kinh tế dẫn đến gặp nhiều thất bại. Một hạn chế khác là chóng
ta vẫn còn tồn tại những ngành kinh tế còn quá yếu kém khi mà chóng ta đã và
đang dỡ bỏ một số hạn ngạch thuế quan cho một số mặt hàng. Nguyên nhân của sự
khó khăn này một phần là do còn có nhưng ngành kinh tế hoạt động không hiệu
quả đặc biệt trong sử dụng vốn. Một phần là do những ngành khác có tư lệ nội địa
hoá thấp. Ngoài ra vẫn phải thừa nhận là các ngành kinh tế nước ta phát triển phần
lớn là dựa vào sự tăng lên về vốn. Theo thống kê gần đây thì trong cơ cÂu một
đồng sản phẩm tăng lên thì có tới 74% là do tăng về vốn, 14% do lao động và chỉ
có 12% là do sự tăng lên về năng suất. Trong những ngành có tư lệ nội địa hoá
thấp thì có thể kể đến ngành « tô và công nghệ tin học, phần lớn hàng hoá sản xuất
trong nước mới dừng ở mức lắp ráp sản phẩm linh kiện nhập từ nước ngoài về.Ví
dụ ngành « tô tư lệ nội địa hoá mới ở mức 8%, cao nhất là Toyota Việt Nam tư lệ
này cũng chỉ đạt 14%. Hiện nay một trong những vấn đề mà các nhà quản lý không
thể giải quyết mâu thuẫn giữa việc giảm để kích thích tiêu dùng các loại hàng hoá
đồng thời phải tăng thuế để buộc các doanh nghiệp tăng tư lệ nội địa hoá.
Đó là trên sân nhà, còn trên thị trường thế giới thì sao? Nói chung hàng hoá
Việt Nam vẫn chí yếu cạnh tranh bằng giá. Nhìn chung công nghệ sản xuất của
Việt Nam còn khá lạc hậu nên hàng hoá có giá trị thấp, hàm lượng khoa học không
cao. Kết quả dễ thấy là lợi nhuận sẽ thấp. Trong khi đó, Việt Nam lại chưa vươn
tới những thị trường dễ tính nh châu Phi, Đông Âu mà chủ yếu hàng hoá xuất sang
EU, Nhật và Mü vốn là những thị trường khó tính đòi hỏi những tiêu chuẩn khắt
khe. Các tham tán thương mại cũng chưa hoạt động hiệu quả trong việc hỗ trợ
doanh nghiệp tìm kiếm thị trường. Một vấn đề nữa là hàng hoá Việt Nam vẫn hay
bị một số nước mua lại, dán nhãn mác khác để bán ra thị trường. Đây là một thiệt
18
thòi lớn cho chúng ta không chỉ là lợi nhuận mà còn liên quan đến những quyền lợi
và tài sản vô hình khác.
Không chỉ vậy, trong lĩnh vực quản lý nhà nước chúng ta cũng còn tồn tại
không ít những hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý hành chính và chế độ tài
chính công. Phải thừa nhận rằng bộ máy hành chính của Việt Nam còn rất cồng
kềnh và còn quá nhiều khâu trùng lặp. Mặc dù chúng ta đã có những cải cách trong
rút gọn thủ tục hành chính nhưng vẫn còn khá phức tạp, chưa thực sự thông
thoáng. Hệ thống luật Việt Nam cũng chưa thực sự hoàn thiện và thiếu sự ổn định.
Đặc biệt là hệ thống luật kinh tế nói chung luôn thay đổi gây không ít khó khăn
cho doanh nghiệp. Gần đây các phương tiện thông tin đại chúng liên tục đưa ra
những kiến nghị của các doanh nghiệp xung quanh vấn đề mua hoá đơn GTGT.
Theo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài tham gia giúp đỡ Việt Nam trong việc
soạn thảo các văn bản luật thì nguyên nhân chính là do Việt Nam có quá nhiều văn
bản chồng chéo. Ngoài luật còn có thông tư, chỉ thị, hướng dẫn. Đôi khi chính
những văn bản này lại hạn chế lẫn nhau, mâu thuẫn với nhau. Bộ máy hành chính
còn cồng kềnh cũng hạn chế khả năng hoạt động của các nhà đầu tư. Cái khó nhất
ở đây là bộ máy hành chính càng cồng kềnh càng tạo ra nhiều khâu trung gian,
càng làm mất thời gian của doanh nghiệp trong khi đó có không ít khâu còn có sự
chồng chéo nhau không phân định rõ phạm vi hoạt động. TƯ tham nhũng, quan
liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Đó là những hạn chế cơ bản trong quá trình phát
triển KTTT định hướng XHCN nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.3. Thực trạng CNH- H§H ở nước ta hiện nay
2.3.1. Những cơ hội và thách thức đối với sự nghÞªp CNH- H§H ở nước
ta
Thực hiện CNH- H§H đất nước theo định hướng XHCN là con đường phát
triển của đất nước ta trong giai đoạn mới.
Trong cuộc hành trình đi đến tương lai chúng ta không quên rằng đất nước
mình còn nghèo nàn, lạc hậu, khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước
quanh ta còn khác xa, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách đố gay gắt.
19
Một số thế lực vẫn muốn âm mưu diễn biến hoà bình để chống phá cách mạng
nước ta. Trong khi đó nạn quan liêu, tham nhũng vẫn còn là nguy cơ lớn.
Tuy nhiên, chúng ta có những điều kiện và những khả năng để thực hiện thắng
lợi công cuộc CNH- H§H đất nước. Những yếu tố thuận lợi do môi trường quốc tế
đem lại cùng những bước chuyển mạnh mẽ do chúng ta tạo ra đã trở thành nguồn
lực tổng hợp để đưa đất nước đi lên.
Môi trường quốc tế hiện nay có nhiều biểu hiện tích cực rất thuận lợi cho sự
phát triển. Đó là xu hướng quốc tế hóa với việc phân công lao động không ngừng
phát triển, là tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ, đặc biệt là xu thế
hoà bình, hợp tác trong khu vực và trên toàn thế giới. Bối cảnh chung đó giúp
những nước đi sau như nước ta có điều kiện để nhìn trước trông sau, tìm ra cho
mình những nhân tố hợp lý, rót ra những bài học thành công của các nước đi trước
về nhiều lĩnh vực, từ quản lý kinh tế vĩ mô thúc đẩy doanh nghiệp đến bảo vệ môi
trường sinh thái, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện, tình hình kinh tế - xã hội trong nước ổn định, cũng là
những yếu tố góp phần tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút nguồn
đầu tư từ các doanh nghÞªp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam.
Một thế lợi nữa mà chúng ta phải kể đến đó là nguồn tài nguyên. Nước ta có nguồn
tài nguyên phong phú, đa dạng có vùng biển và thềm lục địa rộng lớn với chiều dài
bờ biển 3.260km, diện tích vùng biển, thềm lục địa thuộc quyền sở hữu quốc gia
rộng lớn gấp 8 lần diện tích đất liền gắn với một tiềm năng phát triển tổng hợp
được đánh giá là to lớn và đa dạng. Thực tiễn cho thấy, những nước biết tận dụng
và khai thác lợi thế tiềm năng của biển đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao.
Những “Con rồng” Châu ¸ đều là những quốc gia lãnh thổ hải đảo hoặc bán đảo
của các ngành kinh tế biển luôn đóng vai trò mũi nhọn trong phát triển.
Về yếu tố thị trường, chúng ta đang phải đối mặt với những điều kiện cạnh
tranh gay gắt hơn. Thị trường Việt Nam ra đời còn quá non trẻ, một mặt còn thiếu
nhiều yếu tố thị trường như thị trường tiền tệ, thị trường lao động bất động sản, kể
20
cả thị trường chất xám. Mặt khác, cơ chế thị trường vận động còn những trục trặc
chưa thật thông suốt. Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh với Việt Nam có nhiều
lợi thế hơn về trình độ công nghệ, kinh nghiệm buôn bán quốc tế.
Có thể nói rằng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình lâu dài, đầy khó khăn
gian khổ đòi hỏi chúng ta phải hết sức nỗ lực phấn đấu. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chiến lược này, chúng ta phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách
nhưng chúng ta cũng có đủ những điều kiện và khả năng để thực hiện thành công
sự nghiệp CNH- H§H đất nước mà toàn Đảng, toàn dân ta đã đề ra.
21
2.3.2. Nội dung chủ yếu của CNH- H§H
Xuất phát từ những điều kiện thuận lợi và khó khăn kể trên, Đảng ta đã chủ
trương tiến hành CNH- H§H theo nội dung cơ bản sau:
* Trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế
Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện kỹ thuật ngày nay,
quá trình trang bị công nghệ hÞªn đại cho các ngành kinh tế là vô cùng quan trọng,
nó phải gắn liền với quá trình hiện đại hóa cả ở phần cứng và phần mềm của công
nghệ.
* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp
hoá. Cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
- Phản ánh đúng đắn và đáp ứng được các yêu cầu của các quy luật khách quan,
đặc biệt là các quy luật kinh tế;
- Phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
trên thế giới hiện nay;
- Đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên, lao
động của nước phát triển muộn về công nghiệp.
Chỉ có nh vậy mới cho phép chúng ta có thể khai thác tối đa và có hiệu quả
những tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở.
Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý trong sự nghiệp công nghiệp hoá là một
quá trình có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào các nhân tố và nhu
cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm năng của đất nước. Trên cơ sở xem xét thực trạng
của đất nước Đảng ta đã khẳng định công nghiệp hoá ở nước ta là quá trình tạo ra
“cơ cấu kinh tế Công- Nông nghiệp- Dịch vụ” gắn với sự phân công và phù hợp
quốc tế sâu rộng.
Tóm lại, hai nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là
trang bị kỹ thuật hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế hình thanh, phát triển và
chuyển dịch cơ cấu hợp lý. Thúc đẩy phân công lao động xã hội làm hình thành
22
nên những ngành nghề mới có tác dụng tốt tới quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh,
bền vững và có hiệu quả xã hội.
* Phát triển nguồn nhân lực
Một trong những nguồn nhân lực quan trọng bậc nhất của đất nước hiện nay
là đội ngũ trí thức. Theo thống kê năm 2005 của Bộ Khoa học công nghệ và môi
trường cho thấy so với một số nước có thu nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo ở nước ta là tương
đối lớn. Lực lượng này bao gồm khoảng 11.500 tiến sĩ và phó tiến sĩ; hơn 2 triệu
người có trình độ đại học, cao đẳng, trên 3,5 triệu cán bộ kĩ thuật và công nhân kĩ
thuật.
Chúng ta muốn mau chóng trở thành một nước công nghiệp, muốn hội nhập
với thế giới, phát triển giáo dục và đào tạo, tạo nguồn nhân lực, nhân tài, phải luôn
được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và chính phủ ta đã có những cố gắng lớn
tăng nguồn đầu tư tài chính cho giáo dục và đào tạo. Tỉ trọng ngân sách nhà nước
chi cho giáo dục và đào tạo tăng hàng năm và tăng nhanh chóng những năm (trong
vòng 12 năm từ 1998 đến 2010, Nhà nước đầu tư cho giáo dục- đào tạo từ mức
13% lên 20% tổng chi ngân sách nhà nước).
Tuy nhiên cơ cÂu nguồn nhân lực của nước ta hiện nay chưa hợp lý: 1 đại
học/ 1,6 trung học chuyên nghiệp/ 3 công nhân. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở
nước ta mới chỉ đạt 10% so với tổng số lao động là quá thấp. Việc phân bố cán bộ
theo ngành nghề cũng còn rất bất cập. Hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang
xảy ra ngay trong đội ngũ tri thức. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận
cán bộ khoa học và công nghệ không còn hào hứng với công việc của mình, xin
được chuyển sang những ngành nghề không phải được đào tạo, phần lớn là những
người khoẻ, trẻ và có năng lực. Còn sinh viên ra trường chỉ muốn xin vào làm cho
các liên doanh, không muốn vào các viện nghiên cứu, trường học hoặc các cơ quan
của đảng và nhà nước.
23
Nh vậy, khai thác tiềm năng của đội ngũ tri thức Việt Nam giàu tính sáng tạo
- một nguồn tài nguyên đặc biệt, đang còn nhiều vấn đề cần phải bàn tới và tìm
hướng giải quyết.
24
2.4. Quan hệ giữa ổn định chính trị- xã hội với phát triển kinh tế, đẩy
mạnh CNH- H§H đất nước
Trong thời kì đổi mới, ổn định chính trị- xã hội đã tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển kinh tế.
Trước hết nhờ có ổn định chính trị Đảng và Nhà nước ta đã tập trung vào
việc lãnh đạo và chỉ đạo toàn thể các lực lượng xã hội đưa nền kinh tế đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế.
Do tình hình kinh tế- xã hội ổn định, Việt Nam đã lần lượt tham gia nhiều tổ
chức quan trọng trên thỊ giới và trong khu vực như gia nhập tổ chức thương mại thỊ
giới WTO, và nước ta đang ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Cũng
vì sự phát triển này mà Việt Nam đã tạo được điều kiện vật chất và tinh thần đẩy
mạnh CNH- H§H. Mặt khác, chính sự phát triển của kinh tế, đặc biệt là sự phát
triển nền kinh tế tư tưởng, quá trình CNH- H§H đã tạo cơ sở, tiền đề cho những
đổi mới chính trị quan trọng đã và đang diễn ra trên đất nước ta. Từ những nguyên
lÝ cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lªnin Đảng ta đã: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”.
Quá trình đổi mới chính trị là quá trình xác định ngày càng rõ vai trò nền
tảng tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lªnin, và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là quá
trình tìm ra các giải pháp ngày càng thiết thực, cụ thể để nâng cao vai trò của
HTCT mà trọng yếu nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lÝ của Nhà
nước đối với toàn xã hội.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân được
đẩy mạnh nghiên cứu về mặt lý luận và được từng bước tiến hành trong hiện thực.
Ngay trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã thấy rõ: “Phải nhìn thẳng vào sự
thật”, phải nhận thức rõ những mặt còn hạn chế và phải khắc phục những yếu
kém, bất cập, những thiếu sót, sai lầm của cán bộ, đảng viên trong HTCT, đặc biệt
là trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Yêu cầu cải cách HTCT ngày càng đặt ra
một cách nghiêm túc và cơ thể vấn đề mở rộng dân chủ ở cơ sở và đấu tranh chống
25