LỜI MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có ranh
giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn
Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn
thứ bảy về diện tích.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự
thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để
thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh sông Ấn (Indus) phát
triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng
trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh. Trước ngày độc lập,
Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có
công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã
thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được
chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân
theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm
hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía
tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách
nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ.
Bài tiểu luận này có nội dung tổng kết một vài nét chính về tình hình lịch sử,
chính trị- xã hội, kinh tế của Ấn Độ trong thời kỳ cận đại và trong giai doạn hiện nay. Rất
mong được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
1
I. Ấn Độ thời kỳ cận đại
Thành tựu hàng hải của Vasco da Gama đã tìm ra cho châu Âu một hải trình mới tới
Ấn Độ vào năm 1498 và tạo thuận lợi cho thương mại Ấn-Âu. Người Bồ Đào Nha nhanh
chóng thiết lập các thương điếm tại Goa, Daman, Diu và Bombay. Tiếp theo là người Hà
Lan, người Anh thiết lập một thương điếm ở cảng Surat năm 1619— rồi người Pháp.
Những cuộc xung đột giữa các vương quốc Ấn Độ đã tạo cơ hội cho thương nhân châu Âu
dần dần tạo được những ảnh hưởng chính trị và trú chân vững chắc. Mặc dù những thế lực
châu Âu lục địa này đã kiểm soát nhiều khu vực ở Nam và Đông Ấn Độ trong thế kỷ sau
đó, cuối cùng họ vẫn để mất tất cả lãnh địa của mình ở Ấn Độ vào tay người Anh, ngoại
trừ ngoài Pháp còn giữ được các tiền đồn ở Pondicherry và Chandernagore, người Hà Lan
còn giữ được cảng ở Travancore, và người Bồ Đào Nha chỉ còn vài thuộc địa nhỏ ở Goa,
Daman, và Diu.
Công ty Đông Ấn Anh quốc được hoàng đế Môgôn là Jahangir cho phép buôn bán
với Ấn Độ vào năm 1617. Dần dần họ tăng được ảnh hưởng của mình và làm cho hoàng đế
Môgôn trên thực tế là Farrukh Siyar trao cho họ dastaks hay quyền buôn bán tự do ở
Bengal vào năm 1717. Nawab of Bengal Siraj Ud Daulah, người cai trị trên thực tế tỉnh
Bengal, đã chống lại những nỗ lực của người Anh khai thác quyền lợi này. Điều đó dẫn tới
Trận Plassey năm 1757, tại đó "quân đội" của Công ty Đông Ấn do Robert Clive chỉ huy
đã đánh bại quân của Nawab. Đây là cơ sở chính trị đầu tiên để người Anh đòi hỏi quyền
lợi về lãnh thổ ở Ấn Độ. Clive được Công ty Đông Ấn bổ nhiệm làm "Toàn quyền Bengal"
đầu tiên vào năm 1757. Sau Trận Buxar năm 1764, Công ty Đông Ấn đã đòi được quyền
dân sự về hành chính ở Bengal; việc này đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc cai trị chính
thức, mà về sau đã nhấn chính hầu hết Ấn Độ và làm tiêu tan sự thống trị Môgôn cũng như
chính vương triều này trong vòng 1 thế kỷ tiếp theo. Công ty Đông Ấn đã giữ độc quyền
về thương mại ở Bengal. Họ ban hành chế độ địa tô gọi là Permanent Settlement - một chế
độ kiểu phong kiến ở Bengal (xem Zamindar). Vào những năm 1850, Công ty Đông Ấn đã
kiểm soát gần hết tiểu lục địa Ấn Độ, bao gồm cả Pakistan và Bangladesh ngày nay. Chính
sách cai trị của họ đôi khi được mô tả cô đọng là Chia để trị, lợi dụng sự kình định giữa
các tiểu vương quốc, các nhóm xã hội và tôn giáo. Trong thời kỳ British Raj, nạn đói,
2
thường góp phần làm cho các chính sách cai trị thất bại, một vài trận đói khủng khiếp nhất
còn được ghi chép lại, gồm cả Đại nạn đói 1876–78, đã khiến cho từ 6,1 triệu đến 10,3
triệu người chết và nạn đói ở Ấn Độ 1899–1900, làm từ 1,25 triệu đến 10 triệu người chết.
Đại dịch hạch lần thứ ba khởi đầu từ Trung Quốc giữa thế kỷ 19, lây lan khắp lục địa và đã
làm 10 triệu người Ấn Độ thiệt mạng. Mặc dù dịch bệch và nạn đói thường trực, nhưng
dân số của tiểu lục địa Ấn Độ, đã tăng từ 125 triệu vào năm 1750, lên 389 triệu vào năm
1941.
Phong trào lớn đầu tiên chống lại sự thống trị khắc nghiệt của Công ty Đông Ấn
Anh quốc là Khởi nghĩa Ấn Độ năm 1857, còn gọi là "Binh biến Ấn Độ" hay "Binh biến
lính Ấn" hay "Chiến tranh Độc lập lần thứ nhất". Sau 1 năm lạc loạn, quân đội của Công ty
Đông Ấn với sự hỗ trợ của quân đội Anh đã trấn áp được cuộc nổi dậy. Lãnh tụ trên danh
nghĩa của cuộc nổi dậy, vị hoàng đế Môgôn cuối cùng Bahadur Shah Zafar, phải lưu vong
ở Miến Điện, các con của ông bị chém đầu và dòng dõi Môgun chấm dứt. Ngay sau binh
biến, toàn bộ quyền lực đã được chuyển từ tay Công ty Đông Ấn sang Nhà nước Anh. Nhà
nước Anh cai trị hầu hết Ấn Độ làm thuộc địa; phần đất của Công ty Đông Ấn do công ty
này trực tiếp kiểm soát và phần còn lại thông qua các tiểu vương Ấn Độ. Có khoảng 565
tiểu vương quốc ở tiểu lục địa Ấn Độ vào thời điểm người Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ
vào tháng 8 năm 1947.
Phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ
Bước đầu tiên tiến tới độc lập và nền dân chủ kiểu phương Tây ở Ấn Độ là việc bổ
nhiệm các ủy viên hội đồng người Ấn vào hội đồng tư vấn cho phó vương, và việc thành
lập các hội đòng tỉnh có các thành viên là người Ấn tham gia rộng rãi vào các hội đồng lập
pháp. Từ năm 1920 các nhà lãnh đạo như Mohandas Karamchand Gandhi đã bắt đầu tiến
hành các phong trào rộng rãi chống lại British Raj. Subash Chandara Bose là một nhà đấu
tranh vì tự do khác đã thành lập các lực lượng có vũ trang để chống lại nhà cầm quyền
Anh. Bhagat Singh cũng là một nhà đấu tranh vì tự do, được xem là một trong những nhà
cách mạng có ảnh hưởng nhất trong phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ. Ông
thường được gọi là Shaheed Bhagat Singh (từ shaheed có nghĩa là "kẻ tử vì đạo").
Veerapandiya Kattabomman là một nhà đấu tranh vì tự do khác, người đã khởi xướng
3
phong trào của mình chống lại nhà cầm quyền bằng cách chống sưu thuế. Các hoạt động
cách mạng chống lại nhà cầm quyền Anh cũng nổ ra ở hầu khắp tiểu lục địa Ấn Độ, và
những phong trào này đã giành lại được nền độc lập cho tiểu lục địa này vào năm 1947.
Một năm sau, Gandhi bị ám sát. Nhưng, ông đã thành công trong việc giành lại độc lập cho
tổ quốc mình.
Độc lập và chia cắt
Cùng với ước vọng độc lập, sự căng thẳng giữa người Hindu và người Hồi giáo
cũng phát triển theo năm tháng. Người Hồi giáo luôn là nhóm người thiểu số, và triển vọng
về một chính quyền của riêng người Hindu đã khiến họ lo ngại; họ không tin sự cai trị của
người Hindu cũng chẳng kém gì sự cai trị của người Anh. Năm 1915, Mohandas
Karamchand Gandhi đã thành công một cách kỳ lạ trong việc lãnh đạo sự đoàn kết giữa hai
nhóm người để giành độc lập cho nước mình. Ảnh hưởng thế tục của Gandhi tới Ấn Độ và
khả năng của ông trong việc giành độc lập thông qua một phong trào rộng rãi hoàn toàn
không bạo lực đã làm cho ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất. Ví dụ,
việc ông mặc trang phục vải thô dệt thủ công Khadi đã làm suy yếu ngành dệt của người
Anh và ông đã hướng dẫn được đoàn tuần hành ra biển, nơi những người tuần hành tự làm
ra muối để phản đối sự độc quyền của người Anh. Người Ấn Độ đã gọi ông là Mahatma,
hay Linh hồn Vĩ đại. Người Anh đã phải cam kết rời khỏi Ấn Độ vào năm 1947.
Các lãnh thổ Ấn Độ thuộc Anh đã giành được độc lập vào năm 1947, sau khi phân
chia thành Liên bang Ấn Độ và Lãnh thổ tự trị Pakistan. Tiếp theo và trước khi có sự chia
cắt các tỉnh Punjab và Bengal, bạo động giữa người Sikh, Hindu và Hồi giáo đã bùng nổ ở
một vài nơi, bao gồm Punjab, Bengal và Delhi, làm 500.000 người thiệt mạng. Ngoài ra,
vào thời kỳ này, người ta còn chứng kiến một trong những cuộc di cư ồ ạt nhất trong lịch
sử hiện đại, với khoảng 12 triệu người Hindu, Sikh và Hồi giáo di chuyển giữa các quốc
gia mới được thành lập là Ấn Độ và Pakistan.
II. Một Ấn Độ mới
4
Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, ít có quốc gia nào thu hút nhiều sự chú ý của
các học giả và cũng luôn là đề tài thảo luận như Ấn Độ, đặc biệt trong năm 2006 này.
Ấn Độ được coi như một quốc gia với nhiều nghịch lý khác nhau. Đó là đất nước có
cơ sở hạ tầng yếu kém với những sân bay cũ nát, đường sá thảm hại, những khu nhà ổ
chuột ở khắp nơi và những ngôi làng nghèo khó. Đó cũng là đất nước vẫn còn tới hơn 300
triệu người sống với điều kiện cùng cực: dưới một đô la/ngày (chiếm tới 40% dân số nghèo
của toàn thế giới) và là nước có số dân nhiễm HIV lớn thứ hai trên thế giới. Nhưng bên
cạnh tất cả những yếu kém này, Ấn Độ dường như đang có thêm điều gì đó rất mới. Và
điều này ai cũng có thể cảm nhận được khi đặt chân lên đất nước có số dân đông thứ hai
trên thế giới.
Nhiều doanh nhân phương Tây tới Ấn Độ bởi họ hy vọng nước này sẽ tiếp bước
Trung Quốc trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng liệu Ấn Độ có thể làm được điều
này? Tăng trưởng của Trung Quốc là một sản phẩm đồng thời của tính hiệu quả và một
chính quyền vững mạnh. Bắc Kinh khi đã quyết định đất nước này phải có thêm các sân
bay mới, các xa lộ tám làn đường, các khu công nghiệp qui mô lớn thì chỉ trong vài tháng,
họ có thể làm được những điều này. Trung Quốc luôn nhắm tới các tập đoàn xuyên quốc
gia và tạo điều kiện về hành chính cực kỳ thông thoáng để những tập đoàn này có được
giấy phép đầu tư chỉ trong vài ngày. Không chỉ được vận hành rất tốt, nền kinh tế với tốc
độ tăng trưởng đáng kinh ngạc của Trung Quốc trong những năm vừa qua có thể được coi
là ví dụ thành công nhất từ trước tới nay trong lịch sử của loài người.
Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ vẫn còn khá hỗn độn và ít có tính định
hướng. Nó không theo mô hình top-down (từ trên xuống) mà áp dụng mô hình ngược lại:
bottom-up (từ dưới lên). Thú vị nhất là, điều này xảy ra không nằm trong mong muốn của
chính phủ mà phần lớn từ sức ép ngoài chính phủ. Ấn Độ không có các cơ sở hạ tầng
hoành tráng như ở Bắc Kinh hay Thượng Hải và chính phủ Ấn Độ cũng chưa hoàn toàn có
chính sách trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng bù lại, nước này lại có một
đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp luôn mong muốn làm giàu. Chính vì vậy, họ sẵn
sàng tìm mọi con đường, vượt qua mọi khó khăn, cản trở, luồn lách qua các tệ nạn quan
5
liêu để đạt được mục đích đó. "Ban đêm Chính phủ ngủ nhưng nền kinh tế thì vẫn tiếp tục
tăng trưởng", Gurcharan Das, nguyên Giám đốc điều hành của Procter & Gamble tại Ấn
Độ nói.
Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ vẫn còn khá hỗn độn và ít có tính định
hướng. Nó không theo mô hình top-down (từ trên xuống) mà áp dụng mô hình ngược lại:
bottom-up (từ dưới lên). Thú vị nhất là, điều này xảy ra không nằm trong mong muốn của
chính phủ mà phần lớn từ sức ép ngoài chính phủ. Ấn Độ không có các cơ sở hạ tầng
hoành tráng như ở Bắc Kinh hay Thượng Hải và chính phủ Ấn Độ cũng chưa hoàn toàn có
chính sách trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng bù lại, nước này lại có một
đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp luôn mong muốn làm giàu. Chính vì vậy, họ sẵn
sàng tìm mọi con đường, vượt qua mọi khó khăn, cản trở, luồn lách qua các tệ nạn quan
liêu để đạt được mục đích đó. "Ban đêm Chính phủ ngủ nhưng nền kinh tế thì vẫn tiếp tục
tăng trưởng", Gurcharan Das, nguyên Giám đốc điều hành của Procter & Gamble tại Ấn
Độ nói. Một số người có thể lập luận rằng con đường phát triển của Ấn Độ có một số lợi
thế nhất định. Yasheng
Huang, nhà nghiên cứu của Viện Công nghệ MIT (Massachussetts Institute of
Technology) cho rằng các công ty Ấn Độ sử dụng vốn hiệu quả hơn các công ty của Trung
Quốc. Họ cũng học các tiêu chuẩn thế giới nhanh hơn và quản lý các công ty hiệu quả hơn.
Mặc dù còn nghèo hơn Trung Quốc, Ấn Độ cũng đã sản sinh được cả tá các công ty tầm cỡ
thế giới như Infosys, Ranbaxy hay Reliance. Huang giải thích điều này vì trên thực tế, Ấn
Độ thực sự có một khu vực kinh tế tư nhân hiệu quả hơn (không như các công ty có vốn
nhà nước ở Trung Quốc), có một hệ thống tài chính hoạt động trôi chảy dựa trên các luật lệ
đầy đủ và vững chắc. Nhật Bản có giải thưởng uy tín Deming cho các sáng tạo trong quản
lý và suốt 4 năm qua, các công ty Ấn Độ luôn đoạt được giải thưởng này nhiều hơn bất cứ
quốc gia nào khác, kể cả Nhật Bản. Hoạt động bottom-up ở Ấn Độ rất rõ ràng, không phải
chỉ ở trong các doanh nghiệp. Người tiêu dùng Ấn Độ cũng luôn sẵn sàng hành động.
Phần lớn các câu chuyện thành công ở Châu Á đều gắn liền với việc chính phủ can thiệp để
dân chúng thắt lưng buộc bụng, tạo tăng trưởng nhờ tích lũy tư bản và đưa ra các chính
sách thân thiện với nền kinh tế thị trường. Tại Ấn Độ thì khác: cá nhân là vua. Những
6