TRƯỜNG ĐẠI HỌC …
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------
BÀI TẬP LỚN
Mơn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỀ BÀI:
Phân tích luận điểm của Ăngghen:
“Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực”
và làm rõ ý nghĩa luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Trần Thị Hồng Nhung
Mã sinh viên:
Lớp:
Giảng viên:
Ha Noi, 2020
MỤC LỤC
A. Mở đầu
B. Nội dung
Phân tích luận điểm của Ăngghen
I.
1.
Lý luận và phân tích khái quát
I.1.
Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
I.2.
Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
I.3.
I.2.1.
Điều kiện kinh tế - xã hội
I.2.2.
Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận
a)
Tiền đề khoa học tự nhiên
b)
Tiền đề tư tưởng lý luận
Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen
I.3.1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
I.3.2.
2.
3.
Ba phát kiến vĩ đại
Phân tích chi tiết
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học và vận dụng của
Việt Nam hiện nay.
3.1.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học
3.2.
3.3.
Vận dụng của Việt Nam hiện nay
Trách nhiệm của sinh viên hiện nay
C. Kết luận
D. Tham khảo
A. Mở đầu
Như chúng ta đã biết, C. Mác và Ph. Ăngghen là hai nhà lý luận chính trị
lừng lẫy khi đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển, sáng tạo ra học
thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội
khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh
thực tiễn xã hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu
cầu phát triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến
trình phát triển lịch sử của tư tưởng nhân loại. Học thuyết Mác sau đó được
Lênin kế thừa, phát triển, sáng tạo đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học
trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc
bị áp bức trên toàn thế giới
Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã,
đang tiếp tục được vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và hiện nay đang
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển đất nước.
B. Nội dung
Phân tích luận điểm của Ăngghen
I.
1.
Lý luận và phân tích khái quát:
1.1.
Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo nghĩa rộng, Chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, luận
giải từ các giác độ triết học, kinh tế học chính trị và chính trị - xã hội về sự
chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập
trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ
nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
1.2.
Hồn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
1.2.1.
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế, cuộc cách mạng công
nghiệp phát triển mạnh mẽ tạo nên nền đại công nghiệp. Nền đại cơng nghiệp
cơ khí làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt
bậc. Cùng với q trình phát triển của nền đại cơng nghiệp là sự ra đời của 2
giai cấp cơ bản, đối lập về lợi ích, nhưng nương tựa vào nhau: giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân. Cũng từ đây, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống
lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội của mâu
thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội với
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Chính vì vậy, mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực
cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ
nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng. Cùng với sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng thành bước lên vũ đài
đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập.
Giai cấp cơng nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết những mâu thuẫn
mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân phát
triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp: Phong trào
Hiến chương của những người lao động ở nước Anh diễn ra trên 10 năm (1836
– 1848); phong trào công nhân dệt ở thành phố Xi-lê-di, nước Đức diễn ra năm
1844. Đặc biệt, phong trào công nhân dệt thành phố Li-on, nước Pháp diễn ra
vào năm 1831 và năm 1834 đã có tính chất chính trị rõ nét. Nếu năm 1831,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Li-on giương cao khẩu hiệu thuần
túy có tính chất kinh tế “sống có việc làm hay là chết trong đấu tranh” thì đến
năm 1834, khẩu hiệu cùa phong trào đã chuyển sang mục đích chính trị: “Cộng
hịa hay là chết”.
Sự phát triển nhanh chóng có tính chính trị cơng khai của phong trào cơng nhân
đã minh chứng, lần đầu tiên, giai cấp công nhân đã xuất hiện như một lực lượng
chính trị độc lập với những u sách kinh tế, chính trị riêng của mình và đã bắt
đầu hướng thẳng mũi nhọn của đấu tranh vào kẻ thù chính cùa mình là giai cấp
tự sản. Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân địi hỏi
một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh
chính trị làm kim chỉ nam cho hành động.
Điều kiện kinh tế - xã hội ấy không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư
tưởng của giai cấp cơng nhân mà cịn là “mảnh đất hiện thực” cho sự ra
đời một lý luận mới, tiến bộ thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, khơng cịn có khả năng đáp ứng
phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản - chủ
nghĩa xã hội khoa học.
1.2.2.
a)
Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận
Tiền đề khoa học tự nhiên
Sau thế kỷ ánh sáng, đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to
lớn trên lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là ba phát minh tạo nền tảng cho phát triển
tư duy lý luận. Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vạch thời đại trong
vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng: Học
thuyết Tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh) và T. Savanxơ (Đức); Định luật Bảo tồn
và chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga); Học thuyết tế bào của M.
Sơlayđen.
b)
Những phát minh này là tiền đề khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở phương pháp luận cho
các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những vấn đề lý
luận chính trị - xã hội đương thời.
Tiền đề tư tưởng lý luận
Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng có những
thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có triết học cổ điển Đức với Ph.Hêghen, L.
Phoiơbắc; kinh tế chính trị học cổ điển Anh với A.Smith và D. Ricardo; chủ
nghĩa xã hội không tưởng phê phán với đại biểu là Xanh Ximông, S. Phuriê và
R.O-en.
•
-
Chủ nghĩa xã hội khơng tưởng phê phán:
Giá trị lịch sử:
+
+
+
-
Thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và
chế độ tư bản chủ nghĩa đầy bất công, xung đột, của cải khánh kiệt,
đạo đức đảo lộn, tội ác gia tăng.
Đã đưa ra nhiều luận điểm có giá trị về xã hội tương lai: về tổ chức
sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội; vai trị của cơng nghiệp và
khoa học - kỹ thuật; yêu cầu xóa bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay
và lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ và về vai trị lịch
sử của nhà nước…
Chính những tư tưởng có tính phê phán và sự dấn thân trong thực tiễn
của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, trong chừng mực, đã thức
tỉnh giai cấp công nhân và người lao động trong cuộc đấu tranh chống
chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa đầy bất công,
xung đột.
Hạn chế: do điều kiện lịch sử hoặc do chính sự hạn chế về tầm nhìn và
thế giới quan của những nhà tư tưởng (đứng trên lập trường của
giai cấp thống trị)
+ Không phát hiện ra được quy luật vận động và phát triển của xã hội lồi
người nói chung; bản chất, quy luật vận động, phát triển của chủ nghĩa
tư bản nói riêng.
+ Không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc
chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, giai
cấp công nhân.
+ Không chỉ ra được những biện pháp hiện thực cải tạo xã hội áp bức, bất
công đương thời, xây dựng xã hội mới tốt đẹp.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được lối thốt thực
sự. Nó khơng giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế
độ tư bản, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển của chế
độ tư bản và cũng khơng tìm được lực lượng xã hội có khả năng trở
thành người sáng tạo ra xã hội mới. Chính vì những hạn chế ấy, mà
chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán chỉ dừng lại ở mức độ một
học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán. Song vượt tất cả
những giá trị khoa học, cống hiến của các nhà tư tưởng đã tạo ra tiền
đề tư tưởng lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những hạt nhân
hợp lý, lọc bỏ những bất hợp lý, xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã
hội khoa học.
Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen
1.3.
1.3.1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
-
Từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật biện chứng.
-
Từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa.
Ba phát kiến vĩ đại:
1.3.2.
-
Chủ nghĩa duy vật lịch sử: làm sáng tỏ tính lịch sử nhất thời (tính giới hạn)
của chủ nghĩa tư bản vạch rõ tính tất yếu, những tiền đề khách quan của cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
-
Học thuyết giá trị thặng dư: vạch trần bản chất bóc lột của chế độ nô lệ làm
thuê tư bản, vạch rõ mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản là khơng thể điều hồ, khẳng định giai cấp công nhân do lịch sử
đương thời tạo nên là lực lượng xã hội có đầy đủ khả năng, điều kiện tiến
hành cách mạng xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
-
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (Lênin bổ sung)
Khi
nghiên cứu mảnh đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm
duy vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu ra hai phát kiến vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật
lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến ấy, chủ
nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa
học.
2.
Phân tích chi tiết:
Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể
của châu Âu từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và những tiền đề văn hóa, tư tưởng
nhân loại đạt được trong suốt chiều dài lịch sử. Với sự gắn bó mật thiết với
phong trào cơng nhân ở khắp các nước châu Âu, với sự uyên bác trong kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra được quy luật vận
động của xã hội lồi người, đặc biệt là quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản
thông qua ba phát kiến vĩ đại: Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, học
thuyết về giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
công nhân (Lênin bổ sung). Đến thời đại của mình, Lênin đã bảo vệ, bổ sung,
phát triển học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội dựa trên việc nghiên cứu “mảnh
đất hiện thực” của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ đế quốc, bộc lộ tất
cả các mặt “thối nát” của chúng và thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chống chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa của các châu lục.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra rằng: "Không phải ý thức của con người
quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ". Đây chính là xuất phát điểm để giải thích tồn bộ lịch sử nhân loại trên lập
trường duy vật biện chứng. Với điểm xuất phát đó, các ơng đã từng bước tìm ra
cấu trúc và quy luật vận động, phát triển của lịch sử, rút ra những kết luận có
tính tất yếu về sự ra đời, diệt vong, thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội
nhất định
-
Về cấu trúc xã hội: Theo các ông, ở một giai đoạn nhất định bao giờ cũng
được biểu hiện bởi một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng và
xây dựng trên cơ sở hạ tầng ấy. Đó chính là hình thái kinh tế - xã hội.
-
Về quy luật vận động phát triển xã hội: Các ông cho rằng quy luật phát triển
của lịch sử là từ sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giai đoạn nhất
định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn này phát triển
đến đỉnh điểm sẽ diễn ra cuộc cách mạng xã hội thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Từ việc tìm ra quy luật phát triển chung của nhân loại, C.Mác và Ăngghen đi
sâu nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa tư bản, các nhân tố
của lực lượng sản xuất đã phát triển to lớn vượt quá mức dung nạp của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã
hội thay thế phương thức tư bản bằng một phương thức cao hơn. Từ đó đi đến
kết luận: "Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung
đột có thật vào trong tư duy, ... trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu
đau khổ và sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân". Như vậy, học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã cho chúng ta thấy chủ nghĩa xã
hội ra đời là một tất yếu khách quan. Tất yếu này đã được Đảng Bơn-sê-vích
Nga do Lênin đứng đầu lãnh đạo tổ chức Cách mạng tháng Mười thành công,
lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thực tế.
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Mười dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơn-sê-vích,
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Nga đã tiến hành xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt to lớn đánh dấu chủ nghĩa
xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Cách mạng tháng Mười đã chứng minh
trên thực tế những dự báo của C.Mác và Ăngghen về tính tất yếu của ra đời
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản là có cơ sở khoa học. Nó cũng mở ra cho
nhân loại một xu hướng mới về xây dựng xã hội cơng bằng, bình đẳng, đối lập
với chế độ áp bức, bóc lột, bất công tư bản chủ nghĩa.
-
Từ một nước tư bản phát triển lạc hậu so với châu Âu, Liên Xô đã vươn lên
trở thành siêu cường với những thành tựu vĩ đại trên mọi phương diện kinh
tế (vị trí thứ hai của thế giới và trở thành một trong hai siêu cường của thế
giới), đời sống xã hội, khoa học kỹ thuật,chiến tranh là một thực tế không
thể phủ nhận.
-
Sau những thành tựu đạt được của Liên Xô, một hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa ra đời, có chế độ chính trị đối lập với chế độ chính trị của chủ
nghĩa tư bản, góp phần thay đổi cơ bản của nhiều quốc gia – dân tộc trên
toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội đã giải phóng người lao động khỏi chế độ áp
bức, bóc lột; xác lập quyền lực thuộc về đa số nhân dân lao động và từng
bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội. Khi xây dựng chủ nghĩa xã
hội, các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế,
giáo dục với trình độ dân trí được nâng cao, y tế... Sự ra đời và phát triển lớn
mạnh của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã có tác động mạnh mẽ đến
chính trị thế giới và trở thành lực lượng tiên phong của các phong trào hồ
bình, phong trào đấu tranh địi dân sinh, dân chủ.
Đó chính là một hiện thực khách quan không thể phủ nhận của lịch sử
nhân loại.
Mác và Ăngghen chỉ rõ: Muốn chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì phải đặt
nó đứng vững trên mảnh đất hiện thực; từ khi nó trở thành khoa học thì phải đối
xử với nó như mọi khoa học, nghĩa là phải nghiên cứu nó trên mọi chi tiết. Bên
cạnh đó nhìn nhận chủ nghĩa xã hội như một cơ thể sống, tất yếu phải thường
xuyên biến đổi, đổi mới và phát triển. Các nguyên lý cơ bản Mác – Lênin đòi
hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể ở từng
nơi từng lúc. Bởi vậy chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu với những
hạn chế của nó chỉ là một mơ hình chủ nghĩa xã hội, hơn nữa, mơ hình này lại
phản ánh khơng đầy đủ, thiếu sáng tạo những ý tưởng của học thuyết Mác Lênin. Như vậy, việc nhận thức rõ và sửa chữa sai lầm một cách tự giác, có
nguyên tắc trên cơ sở giữ vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin là vô cùng cần thiết để chủ nghĩa xã hội tiếp tục phát triển.
3.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học và vận dụng
của Việt Nam hiện nay
3.1.
-
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học
Về mặt tư tưởng:
+) Giúp ta thấy được tính chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
+) Giúp ta có cơ sở khoa học tin tưởng vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội,
vào sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, những khát vọng tốt
đẹp của nhân loại.
+) Giúp chúng ta có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng,
khơng hoang mang, dao động, hồi nghi trước những biến cố của lịch sử,
vững tin ở tương lai xã hội chủ nghĩa, thấy rõ thêm bản chất và âm mưu phá
hoại của những kẻ phản bội, cơ hội và các thế lực phản động, thù địch
-
Về mặt thực tiễn:
+) Nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học là vấn đề
rất quan trọng của Việt Nam trong công cuôc đổi mới.
+) Là cơ sở lý luận trực tiếp giúp cho Đảng xác định mục tiêu, đường lối
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
+) Tạo cơ sở bản lĩnh vững vàng để tránh những sai lầm trong xây dựng
đường lối, chính sách và chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+) Tạo cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán và chống các quan điểm sai
trái, thù địch, cũng cố trận địa tư tưởng vô sản.
3.2.
Vận dụng của Việt Nam hiện nay
Đảng ta đã tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức của Đảng
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ
hơn, trên cơ sở đó Đảng đề ra và từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới toàn diện đất nước. Kinh nghiệm và những bài học được tích lũy để Đảng ta
từng bước hoàn thiện lý luận đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Sự phát triển của đất nước trong điều kiện hiện nay hơn lúc nào hết địi hỏi phải
có một mơ hình CNXH của riêng Việt Nam, vừa phản ánh những giá trị phổ quát
của CNXH, vừa phản ánh những đặc điểm đặc thù của Việt Nam được thể hiện
bằng những đặc trưng bản chất của xã hội XHCN của Việt Nam, các phương
hướng cơ bản để hiện thực hóa đặc trưng, các giải pháp, cách thức tiến hành
mang ý nghĩa đột phá... Phát triển đất nước theo định hướng XHCN phải được
phản ánh trong các mục tiêu chiến lược: Mục tiêu chung của công cuộc xây
dựng CNXH và mục tiêu đặc thù khi kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH gắn với
mục tiêu của từng chặng đường, của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng
giai đoạn. Việc xác định rõ các tiêu chí bằng định tính, định lượng cho CNXH ở
Việt Nam cũng địi hỏi phải phân tích đầy đủ, sâu sắc các mối quan hệ, bối cảnh
quốc tế và trong nước, dự báo khoa học các xu thế, những thời cơ, thách thức
đang đặt ra...
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào công cuộc đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định rất rõ ràng: Công cuộc đổi
mới hiện nay phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy đó làm nền
tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Lịch sử đã
chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch
định chủ trương, đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại
trong hành động. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
là vấn đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong tồn
bộ cơng tác tư tưởng, lý luận. Điều đó càng địi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam
tuyệt đối không được xa rời hoặc từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trái lại, cần
trung thành, kiên định với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt nó trên "cơ sở hiện thực"
mới đương đại, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới đất nước, làm thất bại, phá sản mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch. Sự kiên định đó khơng phải chỉ là tình cảm cách mạng,
khơng chỉ là sự trung thành với truyền thống lịch sử cách mạng của dân tộc, mà
dựa trên sự đánh giá phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế một cách nghiêm
túc, khoa học. Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, đi tiếp con đường đó là
giải pháp tổng quát duy nhất đúng, tối ưu nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất để
xây dựng một nước Việt Nam thực sự giàu mạnh, văn minh, tự do, ấm no, hạnh
phúc.
Dù trong những năm tới, tình hình sẽ cịn nhiều diễn biến nhanh chóng và phức
tạp, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế phát triển của lịch sử xã hội loài
người, là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Hồ Chí Minh. Sự nghiệp xây dựng xã hội mới là một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo
ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với thế và lực
của đất nước ta hiện nay, với sức mạnh thống nhất của toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta sẽ tận dụng được thuận lợi, tranh thủ được thời cơ,
khắc phục nguy cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi những mục tiêu
theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử
3.3.
Trách nhiệm của sinh viên hiện nay
-
Phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, có lịng u
nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và có thái độ chống lại các hành động tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham
nhũng.
-
Phải tích cực học tập nâng cao trình độ văn hóa, chun môn, khoa học, kỹ
thuật và tay nghề. Nước ta đang trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi sinh viên phải có nhiều kinh nghiệm thực tế,
trình độ chun mơn cao, khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ mới.
Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân – một trong những ngôi
trường hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực kinh tế, ta phải ý thức được tầm quan
trọng của bản thân với sứ mệnh xây dựng nền kinh tế đất nước phát triển,
đưa Việt Nam trở thành một nước cơng nghiệp trong thời gian ngắn nhất. Từ
đó, xác định mục tiêu học tập rõ ràng, có những tư tưởng hiện đại, tư duy
mới mẻ, tích cực rèn luyện để có thêm nhiều kinh nghiệm thực tế, góp phần
đưa kinh tế Việt Nam trở thành một trong các quốc gia cơng nghiệp mới.
C.
Kết luận
Có thể nói, chủ nghĩa xã hội là hiện thực, thực tế, đã và đang đổi mới, được xây
dựng, phát triển trên cơ sở từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá khứ;
từ sự nhận thức lại và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện
mới, dựa trên cơ sở "hiện thực khách quan" mới, dựa vào đặc điểm, đặc thù của
từng quốc gia dân tộc. Điều đó cho thấy sức sống mới của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong bối cảnh lịch sử mới.
Mặc dù trong quá trình “đối mới”, chúng ta không tránh khỏi những sai lầm,
những khuyết điểm không nhỏ. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước đã cố gắng khắc
phục, từng bước đưa đất nước đi lên CNXH một cách kiên định theo con đường
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chúng ta – thế hệ trẻ, tương lai của đất
nước phải luôn cố gắng nắm bắt, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, góp phần tích
cực vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
D.
Tham khảo
1)
Đặng Công Thành, Con đường đi lên CNXH của nước ta là "phù hợp với
thực tiễn và xu thế phát triển", Báo Hà Giang online
2)
Đỗ Thị Thạch, Luận cứ phê phán quan điểm cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội
chỉ là ảo tưởng, không bao giờ thực hiện được”
3)
Nguyễn Mạnh Hưởng, Sức sống và giá trị trường tồn của Chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, Báo Quân đội Nhân dân Online
4)
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng
sai trái để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới,