Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tieu luan cao hoc_Hội nhập quốc tế - những cơ hội và thách thức với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.54 KB, 40 trang )

MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế
thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập
diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo
tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới
hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc
gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc
gia để phát triển.
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân
quen với hầu hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước
trên hè phố, thậm chí cả ở thơn q, người ta đều sử dụng nó một cách rất
thông dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này;
đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người.
Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác
nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác định đúng ý
nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập
quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến
lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong q trình hội nhập.
Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Hội nhập quốc tế những cơ hội và thách thức với Việt Nam” làm đề tài tiểu luận môn Thời đại
ngày nay và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1


CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Định nghĩa khái niệm hội nhập quốc tế


Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngồi (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau
về khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang,
cho rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một q
trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ
hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan
tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập
trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu
như thương mại, đầu tư, thư tín, thơng tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó
hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch,
có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa
Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách
tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản
phẩm cuối cùng.

2


Cách tiếp cận thứ ba, xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành
vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở
phân cơng lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục

tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó khơng đặt hiện tượng hội
nhập trong q trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về
khía cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mơ
hình Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải
thích thực tiễn của q trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ
khác nhau như hiện nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng
dẫn đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn
nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái
tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực
tiễn của q trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều vấn đề của
hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi của hiện tượng,
khơng quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội
nhập, do vậy, thiếu tính tồn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản
chất của q trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng
từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN,
tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế
quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói
ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm
nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước
khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng
Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh
tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái
niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”. Sự khác biệt
giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau.
3


Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối

cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng
Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về
hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa
các nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến
tranh thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như
Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu
dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng
đồng Caribê và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA), v.v... Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật
ngữ “liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như
khơng có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn khơng có một định nghĩa nào về khái
niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hồn tồn trong giới học thuật
và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên
hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự
tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi
“hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc
tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cơ lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy
theo cách này, khơng ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác
quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy
đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp
cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng
chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi
cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một q
trình xã hội có nội hàm tồn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục
tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các
4



nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên
sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền
định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các
định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi
các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống
đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường:
nó địi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở
góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ
chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ
thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là một tổ chức liên chính phủ
(các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách,
chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức
siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ
cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mơ hình nhà nước liên
bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép
giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ quyền quốc gia cho
một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình,
chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính
của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng
hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
1.2. Nội hàm của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phịng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng
cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ
gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa
phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.


5


1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra
theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được
chia thành năm mơ hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:
1.2.1.1. Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên
dành cho nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng
còn hạn chế về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế
quan) và mức độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định
Thương mại Việt-Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ
thể của mơ hình liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
1.2.1.2. Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện
việc cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng
(có thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong
thương mại hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc
lập đối với các nước ngồi khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu
(EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA). Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có
phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều. Ngồi lĩnh vực hàng hóa, các hiệp
định này cịn có những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA
giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
dương (TPP- đang đàm phán).
1.2.1.3. Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm
và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối cịn thống nhất thực hiện

chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm
ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
6


1.2.1.4. Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ
thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính
sách thuế quan chung đối với ngồi khối, các thành viên cịn phải xóa bỏ các
hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao
động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh
châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung
châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
1.2.1.5. Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mơ hình hội nhập kinh tế ở giai
đoạn cao nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với
việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân
hàng trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với
tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua
các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra
trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh
tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên
minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng
hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực
khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên
thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh tồn
cầu hóa.
1.2.2. Hội nhập chính trị
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu
nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể

hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về
các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực
và đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị
quốc tế thơng qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở
7


thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng
minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như
ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mơ tồn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp
quốc).
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên cịn
hạn chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách
riêng. ASEAN hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu q trình hội nhập
chính trị, nên vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các thành
viên còn hạn chế. Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một khn khổ liên
chính phủ. Hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng
đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội)
sẽ giúp tăng cường q trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện
để ASEAN bước tới một giai đoạn hội nhập cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao địi hỏi sự tương đồng về thể chế chính
trị và độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các
thành viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các
quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia. EU hiện nay là một mơ hình
hội nhập chính trị cao.
Thơng thường hội nhập chính trị là bước đi sau cùng trên cơ sở các
nước liên quan đã đạt đến trình độ hội nhập kinh tế và văn hóa-xã hội rất cao.
Sự hình thành Liên bang Hoa Kỳ, Liên bang Canađa trước đây và EU hiện
nay cơ bản theo phương thức này. Tuy nhiên, trong những bối cảnh nhất định,
hội nhập trong lĩnh vực chính trị có thể đi trước một bước để mở đường thúc

đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác. Trường hợp ASEAN thể hiện khá đặc
biệt sự kết hợp nhiều tiến trình hội nhập. Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu tồn tại,
ASEAN chủ yếu là một cơ chế hợp tác khu vực về chính trị-ngoại giao nhằm
đối phó với những thách thức đối với an ninh quốc gia của các thành viên.
Một số học giả nhìn nhận ASEAN như là một định chế/chế độ quốc tế
(international regime) về chính trị-an ninh ở khu vực Đơng Nam Á[11]. Nói
8


một cách khác, đây là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trị-an ninh. Sau
giai đoạn khởi đầu chủ yếu bằng hội nhập sơ khai về chính trị-an ninh, từ cuối
thập niên 1970 trở đi, ASEAN mới bắt đầu triển khai hợp tác về kinh tế và chỉ
từ gần giữa thập niên 1990, ASEAN mới thực sự bắt đầu tiến trình hội nhập
kinh tế. Hội nhập văn hóa-xã hội phải đợi đến khi ASEAN thông qua Hiến
chương năm 2008 mới được triển khai.
1.2.3. Hội nhập an ninh-quốc phòng
Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá
trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hịa bình và an ninh.
Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song
phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia
sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt
động chung về đảm bảo an ninh-quốc phịng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên
những hình thức chủ yếu được nhiều nước sử dụng như sau:
- Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời
kỳ Chiến tranh lạnh khi mà thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi
là hệ thống hai cực) giữa một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
lãnh đạo và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Hàng loạt
tổ chức phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục tiêu
chính trị và an ninh-quốc phịng, chẳng hạn như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại

Tây Dương (NATO), Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO), Tổ chức Hiệp
ước Đông Nam Á (SEATO), Hiệp ước Liên minh Úc-Niudilân-Mỹ
(ANZUS), Tổ chức Hiệp ước Vác-xô-vi. Nguyên tắc của các tổ chức phịng
thủ chung là: (1) các nước tham gia phải có chung kẻ thù bên ngồi, khi một
nước nào đó tấn cơng một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù
của cả khối và tất cả các thành viên cùng hành động chống lại kẻ thù đó; (2)
các thành viên có chính sách phịng thủ chung; (3) các thành viên cùng đóng

9


góp lực lượng vũ trang tham gia vào lực lượng chung của khối đặt dưới một
bộ chỉ huy chung.
Đây là phương thức liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các thành viên phải
đồng về ý thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an ninh-quốc
phịng, chiến lược qn sự và có trình độ phát triển kỹ thuật quân sự cũng như
năng lực tác chiến không quá chênh lệch. Phương thức liên kết này cũng đòi
hỏi các thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ quyền quốc gia và
trao một phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung siêu quốc gia.
- Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là hình thức cổ điển
rất phổ biến trong lịch sử quan hệ quốc tế xưa và nay. Phần lớn, nếu như
không nói là hầu hết, các nước đều có hiệp ước liên minh với một hoặc một số
nước khác, trong đó có quy định về trợ giúp quân sự trong những tình huống
cần thiết. Mỹ có hiệp ước liên minh qn sự song phương với Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng đã có Hiệp ước liên
minh với Liên Xô cũ, Lào và Cămpuchia.
- Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa
trên nguyên tắc các thành viên cam kết khơng tấn cơng nhau, nếu có một
thành viên vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và
giúp giải quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên Hiệp quốc, Liên

đoàn Ả-rập, Tổ chức thống nhất châu Mỹ (OAS), Tổ chức Thống nhất châu
phi (AU), Cộng đồng chính trị-an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những
mơ hình cụ thể của phương thức liên kết an ninh tập thể.
- Các dàn xếp về an ninh hợp tác là phương thức liên kết an ninh-quốc
phòng lỏng lẻo hơn cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh vực, từ
dễ đến khó, với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lịng tin, ngoại
giao phịng ngừa… để xây dựng thói quen hợp tác và sự phụ thuộc, ràng buộc
lẫn nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các thành viên.
ASEAN và một loạt cơ chế khu vực liên quan như Hội nghị sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao (PMC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ
10


trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phịng
ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấo cao Đơng Á (EAS)… là những
mơ hình cụ thể về dạng thức liên kết này.
Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh-quốc phịng là tiến trình
khó khăn hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm nhấtcốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hịa bình, độc lập và chủ quyền.
1.2.4. Hội nhập về văn hóa-xã hội
Hội nhập về văn hóa-xã hội là q trình mở cửa, trao đổi văn hóa với
các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các
giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân
tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã
hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng
một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và tồn cầu
(ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và
thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dụcxã hội với các nước.
Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu
sắc quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền
vững hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày

càng gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy
và hành động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các
chính sách xã hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người
dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các
phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó
thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình (ý thức
cơng dân khu vực/toàn cầu).
1.3. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải
11


có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên
kết với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên
kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống
thế giới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các
thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây
là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và
hội nhập quốc tế nói chung.
Từ sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là từ khi chấm dứt Chiến tranh
lạnh, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ
hàng loạt tiến bộ nhanh chóng về khoa học-cơng nghệ, xu thế hịa bình-hợp
tác, nỗ lực tự do hóa-mở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập
quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và
trở thành một xu thế lớn của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra
trên nhiều cấp độ: song phương, đa phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực
và toàn cầu. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc hơn, bao quát toàn diện
hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới đã và đang tích cực tham gia vào q

trình này.
Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc
và hàng loạt các tổ chức chun mơn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều
thiết chế thuộc hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và
Ngân hàng Thế giới), ra đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều
hơn, bao quát hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn
diện, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực và có quy mơ tồn cầu. Trong một số lĩnh
vực, Liên hiệp quốc đã có sự phát triển vượt lên trên sự hợp tác thông thường
và có thể nói đã đạt đến trình độ ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an
ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực tài chính). Trong lĩnh vực thương mại,
tiến trình hội nhập tồn cầu được thúc đẩy với việc ra đời của một định chế đa
phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về Thương mại và Thuế
12


quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) kể từ năm 1995. Hiện nay, 153 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham gia
với tư cách thành viên chính thức của Tổ chức này, khoảng 30 quốc gia khác
đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Trong hơn một thập kỷ qua, WTO đã
phát triển mạnh mẽ hệ thống “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu
hết các lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich
vụ, nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư,
sở hữu trí tuệ, chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện
pháp tự vệ, xác định giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc
xuất xứ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của
WTO trở thành nền tảng của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song
phương trên thế giới hiện nay. Vịng đàm phán Đơ-ha, bắt đầu từ hơn mười
năm trước, đang tiếp tục mở rộng và củng cố các quy định của WTO theo
hướng tự do hóa hơn nữa.
Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những

thập niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng
loạt tổ chức/thể chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục. Hầu như không
một khu vực nào trên thế giới hiện nay không có các tổ chức/thể chế khu vực
của riêng mình. Các tổ chức/thể chế khu vực về chính trị-an ninh và đặc biệt
là kinh tế, chiếm nhiều nhất. Chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế, tính đến giữa
tháng 5/2011 có 489 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTAs) giữa các thành
viên của WTO đã được thông báo cho Ban Thư ký WTO, trong đó 90% là các
thỏa thuận mậu dịch tự do (FTAs) và 10% là các liên minh thuế quan (CU).
Bên cạnh đó, có tới hàng trăm RTAs đang trong quá trình đàm phán hoặc
chuẩn bị đàm phán. Nhiều tổ chức/thể chế liên kết kinh tế liên khu vực được
hình thành, ví dụ như APEC, ASEM, ASEAN với các đối tác ngoài khu vực
chẳng hạn như Mỹ và EU (dưới dạng các PCA và FTA), EU với một số tổ
chức/thể chế hoặc quốc gia ở các khu vực khác, v.v…

13


Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, q trình hội nhập giữa các
nước cịn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng
hiệp ước liên minh (chính trị, an ninh, quốc phịng), hiệp định đối tác toàn
diện, hiệp định đối tác chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại (BFTA,
BCU…). Từ cuối thập niên 1990 trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định
đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự do (BFTA) phát triển đặc biệt
mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang trong quá trình đàm phán
các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đã ký hoặc đàm phán tới hàng chục hiệp
định BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được lý giải chủ yếu
bởi bế tắc của vịng đàm phán Đơha và những ưu thế của BFTA so với các
hiệp định đa phương (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện
cũng thuận lợi hơn).
Về phạm vi lĩnh vực và mức độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên

kết khu vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng
các lĩnh vực hội nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy
mạnh hội nhập kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các
lĩnh vực khác, đặc biệt là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Tiến trình hội
nhập tồn diện trong EU đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một
thực thể gần giống như một nhà nước liên bang. ASEAN cũng đang tiến hành
mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách tồn diện hơn
thơng qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột Cộng đồng Chính
trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội. Hàng loạt các
hiệp định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương được ký kết
gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa các bên.
Nếu chỉ xét riêng về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng hạn như
Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN-Úc-Niudilân, Hiệp định Mậu dịch tự do
Mỹ-Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Hàn Quốc-Singapore, Hiệp định
Mậu dịch tự do Nhật-Singapore, chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy
vượt xa so với các hiệp định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định
14


FTA mới toàn diện hơn và bao hàm cả những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ như
mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động, môi trường, hàng rào kỹ thuật)
thường không được đề cập trong hầu hết các hiệp định FTA ký trước đây. Bên
cạnh đó, các hiệp định FTA mới đưa ra các quy định về tự do hóa triệt để hơn,
thể hiện mức độ hội nhập cao hơn. Ví dụ, trong lĩnh vực hàng hóa, cắt giảm
thuế quan mạnh hơn và sớm đưa về 0%, hạn chế tối đa số lượng các sản phẩm
loại trừ.
Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc trưng
quan trọng của thế giới hiện nay. Không ít người khẳng định rằng chúng ta
đang sống trong thời đại tồn cầu hóa. Nói một cách khác, thời đại hội nhập
toàn cầu. Xu thế này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn

cấu trúc của hệ thống thế giới cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ
giữa chúng.
1.4. Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới
cũng đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các
nước trong thời đại tồn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn
tất yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo
ra cho các nước. Dưới đây, xin nêu những lợi ích chủ yếu của hội nhập quốc
tế mà các nước có thể tận dụng được:
Thứ nhất, q trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời,
làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền
khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu
15


khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thơng qua đầu tư trực tiếp
nước ngồi và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá
cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó
có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm

bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính
sách phát triển phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa,
văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp
quyền.
Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí
thích hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng
như khả năng duy trì an ninh, hịa bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hịa bình và ổn định khu vực và quốc
tế để các nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp
các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm
chung của khu vực và thế giới .
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng
đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:
Một, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều
hậu quả về mặt kinh tế-xã hội.

16


Hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị
trường bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động của thị trường quốc tế.
Ba, hội nhập không phân phối cơng bằng lơi ích và rủi ro cho các nước
và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách
giàu-nghèo.
Bốn, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt

với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập
trung vào các ngàng sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có
giá trị gia tăng thấp. Do vậy, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp
và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại mơi
trường.
Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà
nước (theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với
việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa
truyền thống bị xói mịn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngồi.
Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng
khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất
hợp pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các
nước. Tuy nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả
các lợi ích và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn
chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không
giống nhau về điều kiện, hồn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được
lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi nước, trước hết là
chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện. Thực tế,
nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt được
17


tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục,
nhanh chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị
thế quốc tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành cơng các bất lợi và thách thức
của q trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,
Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt

hái được nhiều lợi ích từ hội nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình
này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường
hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđơnêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã thu
được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho
những tác động tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách
của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.

18


CHƯƠNG 2.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. Khái quát quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986
đến nay
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế của
Đảng
Hiện nay Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc
và toàn diện hơn bao giờ hết. Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ
ngoại giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn
220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ
khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm
1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành cơng vị trí Ủy
viên không thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của
Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành cơng
vai trị Chủ tịch ASEAN trong năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 25 năm
đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.

Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi
tình trạng vừa có hịa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch
xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào
thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa
sinh tử là phải tìm cách thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế
bị bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã
lựa chọn.

19


Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà nước Việt
Nam nỗ lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh về“thêm bạn, bớt thù”, mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thốt vịng bao vây cơ lập của các thế lực chống
đối. Sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có những
điều chỉnh cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan
hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, tạo mơi trường quốc tế hồ bình, ổn
định ở khu vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của
Đảng nêu chủ trương chiến lược: “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế”[1]. Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình
quốc tế sau sự tan rã của Liên Xơ, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992)
chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Chủ trương chiến lược của Đại hội VII tiếp tục được Đại hội VIII

khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành “Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ
bình độc lập và phát triển”[2]. Như vậy, quá trình đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng đã đưa đến việc xác lập những nội dung, tính chất cơ bản trong
đường lối đối ngoại từ “rộng mở”, “là bạn” đến “đa dạng hóa, đa phương
hố quan hệ quốc tế” và “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy”. Đây là sự thể
hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt
về sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước
vào những xu thế phát triển của thời đại. Với sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại như đã nêu, Việt Nam đã từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận,
hóa giải tương đối thành cơng những khó khăn, bất cập trong quan hệ đối

20


ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, hội nhập ngày càng chủ
động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.
2.1.2. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
2.1.2.1. Củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị với các nước láng
giềng
- Đối với các nước Đông Dương
Củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông
Dương luôn là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam
nói chung và trong q trình hội nhập quốc tế nói riêng. Với Lào, tình hữu
nghị đồn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện tiếp tục được củng cố và có
nhiều bước phát triển quan trọng.Việt Nam triển khai hợp tác một cách toàn
diện, giúp bạn phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt các hạng mục kinh tế,
khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục - đào tạo... góp phần duy trì ổn định
chính trị - xã hội, an ninh của Lào. Việt Nam một mặt lấy mối quan hệ mật
thiết giữa hai đảng làm nịng cốt, mặt khác khơng ngừng mở rộng và nâng cao

hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết hai nước trên cơ sở
lâu dài, bền vững. Mối quan hệ hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực
chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có
lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ
đặc biệt giữa hai nước. Việt Nam là một trong những nước đứng đầu về đầu tư
tại Lào. Đến nay, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào đạt trên
3,3 tỷ USD với 203 dự án, cao nhất trong số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ
được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư. Riêng 8 tháng đầu năm 2011, vốn
đầu tư đăng ký của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào đạt 469 triệu USD,
cao hơn cả năm 2010
Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ với Campuchia trên cơ sở mới
phù hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia,
phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, thông qua thương lượng
giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Đến nay, hai nước xác lập phương châm
21


chỉ đạo quan hệ là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền
thống, ổn định lâu dài”. Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh
vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết
công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam
những năm 80 của thế kỷ XX. Hai bên đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực
như giáo dục, đào tạo, năng lượng - điện, y tế, giao thông vận tải.Trao đổi
thương mại tiến triển thuận lợi, kim ngạch nhập khẩu của Campuchia từ Việt
Nam trong 8 tháng đầu năm 2011 tăng 43% so với cùng kỳ năm ngối, lên
976 triệu USD. Trong khi đó, xuất khẩu của nước này sang thị trường Việt
Nam trong cùng kỳ tăng 116%, lên 105,2 triệu USD. Việt Nam đứng hàng thứ
hai sau Trung Quốc về đầu tư vào Campuchia, với số vốn 156,38 triệu USD,
chỉ chiếm 5,2% tổng trị giá đầu tư ở nước này trong 6 tháng đầu năm 2011[4].
- Đối với Trung Quốc

Việt Nam đặc biệt coi trọng tiến trình bình thường hóa và phát triển
quan hệ với Trung Quốc. Sau Đại hội VI, Việt Nam đã xem xét lại toàn bộ
mối quan hệ với Trung Quốc, khẳng định rõ Trung Quốc là một nước XHCN,
nhân dân Trung Quốc là nhân dân cách mạng và có truyền thống hữu nghị lâu
đời với nhân dân Việt Nam. Trung Quốc trong tư cách vừa là một nước láng
giềng, vừa là một nước lớn, vừa là một nước XHCN được Việt Nam nhận
thức có vai trị rất quan trọng đối với hồ bình, ổn định của Việt Nam và của
cả Đơng Nam Á, đồng thời cũng thấy rõ vị trí của Việt Nam trong chiến lược
của Trung Quốc.
Với những nỗ lực của cả hai bên, nhất là sự chủ động của Việt Nam,
tháng 10/1991 quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước chính thức bình thường
hố. Việc bình thường hố quan hệ Việt - Trung sau hơn mười năm quan hệ
khơng bình thường là một sự kiện rất quan trọng về mặt đảm bảo an ninh
quốc gia của Việt Nam cũng như tạo ra môi trường khu vực và quốc tế thuận
lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác[5]. Kể từ sau
bình thường hóa, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn
22


diện. Khn khổ quan hệ hai nước được chính thức xác định với 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai”, tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt” và gần đây là “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
tồn diện”. Hai bên có nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan
điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại
Việt Nam - Trung Quốc tăng trưởng nhanh. Năm 2010, kim ngạch thương mại
song phương đạt trên 27 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2009, chiếm khoảng
17,6% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Tám tháng đầu năm 2011,
kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đã đạt gần 22 tỷ USD, tăng
31,52% so với cùng kỳ năm 2010[6].

Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân
định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề
cá trong vịnh Bắc Bộ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt
tốt phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh đối với những vấn đề còn bất
đồng và tranh chấp thì kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của
mình.
2.1.2.2. Xây dựng và phát triển quan hệ với các nước ASEAN
Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,
Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các
nước ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối
ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối
với khu vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu
vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói
cách khác, nếu khơng là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các
nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam
kết và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến
23


nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội.
Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong
khuôn khổ đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào quá trình hợp
tác liên kết ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015 với ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào
việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành cơng vai trị Chủ tịch ASEAN, Chủ
tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA).

ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt
Nam. Năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD,
tương đương 15% tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN
đạt 14 tỷ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tổng vốn đầu
tư trực tiếp đăng ký của ASEAN tại Việt Nam khoảng trên 60 tỷ USD. Bên
cạnh đó, Việt Nam cịn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao vào các cơ chế
hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1,
ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
2.1.2.3. Phát triển quan hệ với các nước lớn và các tổ chức quốc tế
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực,
Việt Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn
và các tổ chức quốc tế trong q trình hội nhập.
- Bình thường hố quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động
đối ngoại của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu
cầu an ninh và phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp
phần củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến
quan hệ của tất cả các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt
Nam, thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc
tế, từng bước đi vào thị trường rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật
tiên tiến, nguồn vốn đầu tư... Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận
24


chống Việt Nam và tháng 11/7/1995 bình thường hố quan hệ với Việt Nam.
Sau bình thường hóa, quan hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ
kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký
Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức
ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh
viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hóa hồn tồn quan hệ
song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm

2010, kim ngạch mậu dịch hai chiều vượt 18,3 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm 2011 đạt 11,3 tỷ USD, tăng
20,6% so với cùng kỳ năm 2010 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 2,7
tỷ USD, tăng 21,5%[7]. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam.
- Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp
nhằm duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh
quốc phòng. Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng
với một loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật,
dầu khí, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông nghiệp. Kim ngạch
buôn bán giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có chiều hướng
tăng. Năm 2009 kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 1,83 tỷ USD và dự
kiến sẽ nâng lên 3 tỷ USD vào năm 2012.
- Đối với Ấn Độ, bên cạnh quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác về kinh tế,
thương mại, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn
Độ có bước phát triển thể hiện sự tin cậy lẫn nhau. Hai nước ký Tuyên bố
chung về Đối tác chiến lược mới (7/2007). Từ năm 2007, Ấn Độ đã lọt vào
nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng
trở thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất từ Ấn Độ ở Đông Nam Á. Quan hệ
thương mại Việt Nam - Ấn Độ tăng lên nhanh chóng, từ hơn 1 tỷ USD năm
2006 đã tăng lên 2,8 tỷ năm 2010. Riêng 8 tháng năm 2011, tổng kim ngạch
thương mại song phương đạt 2,4 tỷ USD, tăng 43% so với cùng kỳ. Hai nước
25


×