Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.03 KB, 5 trang )
Glucocorticoid: Lựa chọn hàng đầu
trong điều trị bệnh thận
Hình ảnh loãng xương do glucocorticoid.
Vỏ tuyến thượng thận là mô - tổ chức sản sinh ra một số nội tiết tố,
trong đó có cortizol. Cortizol có tác dụng nhiều đến chuyển hóa glucid, có
tiềm lực mạnh đối với tích trữ glycogen ở gan nên được gọi là
glucocorticosteroid gọi tắt là glucocorticoid.
Glucocorticoid được tổng hợp trong cơ thể thông qua hàng loạt phản ứng
chuyển cholesterol thành cortisol tức hydrocortison và chịu ảnh hưởng của nội tiết
tố tuyến yên - ACTH.
Từ giữa thế kỷ XX, hàng loạt các chế phẩm tương tự với cortisol được tổng
hợp và áp dụng điều trị cho các bệnh thuộc nhiều chuyên khoa: tim mạch, xương
khớp, da liễu, huyết học, thận học, miễn dịch, ghép tạng
Các dược phẩm glucocorticoid thường dùng
Kể từ năm 1949, khi Hench và cộng sự sử dụng cortisol lần đầu tiên có kết
quả với bệnh nhân bị viêm đa khớp dạng thấp, nhiều chế phẩm thuộc nhóm
cortisol được phát minh, tổng hợp và áp dụng trong lâm sàng.
Các chế phẩm này khác nhau chủ yếu ở thời gian bán hủy, khả năng kháng
viêm, ức chế miễn dịch và giữ muối, giữ nước, đó là:
- Cortison viên 25mg.
- Hydrocortison acetat, hemisuccinat. Ống 25mg và lọ 125mg. Là thuốc độc
bảng B.
- Depersolone (majipredone HCl). Ống 30mg.
3 loại thuốc trên ít dùng ở chuyên khoa thận. Thuốc glucocorticoid được sử
dụng nhiều ở chuyên khoa thận là:
- Prednison - Cortancyl. Viên 5mg.
- Prednisolon - hydrocortancyl. Viên 5mg.
- Methylprednisolon: medrol viên 8mg, 16mg, 32mg; solumedrol ống, lọ
20mg, 40mg, 120mg, 150mg; methylprednisolon lọ 500mg, 1.000mg.
Đây là các loại thuốc đầu tay của ngành thận học.