Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu BƯỚC TIẾN MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH GOUT pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.81 KB, 12 trang )

BƯỚC TIẾN MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH GOUT
29.05.2010 07:38
Những khó khăn trong điều trị Gout bằng phương pháp truyền thống
Bệnh Gout đã được biết đến từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên nhưng đến nay vẫn chưa có loại
thuốc nào được coi là chữa khỏi bệnh Gout. Bệnh Gout có liên quan đến chức năng chuyển hóa ở
gan và chức năng thải trừ acid uric qua thận trong khi đó phương pháp điều trị truyền thống vẫn
chỉ tập trung sử dụng nhóm thuốc kháng viêm, giảm đau để giải quyết triệu chứng viêm khớp của
từng đợt Gout cấp và sử dụng nhóm thuốc tăng thải hoặc giảm tổng hợp Acid uric để kiểm soát
cơn Gout cấp tái phát.

Các thuốc này chỉ giải quyết được triệu chứng và lại không được phép sử dụng dài ngày vì sẽ gây
ảnh hưởng đến sức khỏe, đặc biệt là ảnh hưởng đến chức năng của gan và thận nên có thể làm
cho bệnh tiến triển nặng hơn.

Nhiều bệnh nhân Gout do thiếu hiểu biết về bệnh nên chủ quan sử dụng thuốc tùy tiện, dễ dàng tự
mình thử nghiệm cả những loại thuốc không rõ nguồn gốc nên mặc dù có thể chặn được cơn đau
nhưng lại không biết rằng chính những loại thuốc đó đã làm cho bệnh tiến triển nhanh hơn.
Bước tiến mới trong điều trị bệnh Gout

Là cơ sở y tế đầu tiên ở Việt Nam điều trị chuyên sâu về bệnh Gout, năm 2007 Viện Gút đã thành
công trong việc tìm ra một số bài thuốc nguồn gốc từ thảo dược có khả năng điều trị vào nguyên
nhân gây bệnh, tạo ra kết quả điều trị khác biệt so với phương pháp truyền thống.

Trong khi điều trị bằng phương pháp truyền thống chỉ tạm thời giải quyết được một đợt gout cấp
nhưng không ngăn được bệnh âm thầm tiến triển với các đợt Gout cấp sẽ trở lại ngày một gần
nhau hơn, tình trạng bệnh sẽ ngày một nặng hơn thì sau một đợt điều trị bằng những loại thuốc
này giúp tình trạng bệnh được cải thiện và ổn định lâu dài. Những hiệu quả mà các loại thuốc này
mang lại được ghi nhận qua hơn 4 ngàn bệnh nhân đã điều trị tại Viện Gút trong 3 năm qua gồm :

- Chức năng chuyển hóa ở gan của những bệnh nhân suy giảm chức năng gan cũng có thể được
cải thiện và phục hồi.



- Chức năng thận của bệnh nhân suy thận độ 1, độ 2 cũng có thể được cải thiện và phục hồi

- Acid uric trong giai đoạn đầu của đợt điều trị có thể sẽ tăng lên do tinh thể muối urat tại các khớp
chuyển hóa ngược lại thành acid uric để dễ dàng đào thải qua đường thận, sau một thời gian điều
trị sẽ dần dần ổn định.

- Các cơn Gout cấp trong thời gian đầu của đợt điều trị có thể sẽ nhiều hơn, nhưng sẽ thưa dần ra
và từ từ biến mất, làm thay đổi hẳn quy luật tái phát bệnh.

- Cục tophi của nhiều bệnh nhân Gout mạn tính có thể mềm ra, nhỏ lại hoặc biến mất do tinh thể
muối urat chuyển thành acid uric và được đào thải qua đường tiểu.

- Một ghi nhận đáng mừng cho bệnh nhân Gout bị kèm theo những bệnh như huyết áp cao, bệnh
tiểu đường, bệnh rối loạn mỡ máu là tình trạng những bệnh này sau một thời gian điều trị cũng
được cải thiện đáng kể.

Đặc biệt sau một đợt điều trị bệnh nhân Gout không còn phải quá kiêng khem mà có thể trở lại ăn
uống như người bình thường.

Các bài thuốc đã được Viện Gút lựa chọn qua tổng kết hiệu quả trên hàng ngàn bệnh nhân và
đang được áp dụng rộng rãi cho bệnh nhân Gout gồm :

Viên nang TP-2601 : Cải thiện chức năng chuyển hóa ở gan, cải thiện chức năng thận, tăng bài
tiết acid uric qua thận, giúp ổn định acid uric máu, loại trừ tác nhân gây bệnh Gout. Có tác dụng
giải phóng tinh thể muối urat lắng tụ tại các khớp thành acid uric để dễ dàng bài tiết qua thận, làm
tan những cục tophi. Giúp ổn định lượng đường trong máu, ổn định lượng mỡ trong máu, ổn định
huyết áp…Giúp bệnh Gout ổn định lâu dài

Viên nang TP-640 : Có tác dụng cải thiện chức năng gan, thận, tăng cường tuần hoàn ngoại vi,

ức chế mạnh men chuyển Xanthine Oxydase làm giảm quá trình hình thành acid uric; chống viêm,
giảm đau khớp, lợi tiểu tăng đào thải acid uric. Giảm đau lưng và các trường hợp đau khớp khác
không do bệnh Gout gây ra. Có hiện tượng tăng ham muốn tình dục nhẹ và tạm thời ở nam giới.
Giúp bệnh Gout ổn định lâu dài.

Viên nang Khang Thụy I : Hoạt huyết, trừ phong, nâng cao khả năng miễn dịch, giải độc, kháng
viêm, làm tan muối urat trong các cục tophi, hỗ trợ ổn định mỡ máu, ổn định lượng đường trong
máu, ổn định huyết áp. Giúp bệnh Gout ổn định lâu dài.

Gút Saman : Tác dụng Giảm đau, chống viêm, tác động vào chuyển hóa cơ chất purin trong bệnh
Gút nguyên phát

Các sản phẩm trên đều có nguồn gốc từ thảo dược nên an toàn, dễ sử dụng. Tuy nhiên để đạt
hiệu quả điều trị cao nhất Viện Gút không tổ chức bán tự do trên các nhà thuốc mà đưa vào
chương trình điều trị có sự phối hợp với một số loại thuốc đông dược hỗ trợ điều trị cải thiện chức
năng gan, chức năng thận…

Tuy nhiên Viện Gút đang đã tạo điều kiện thuận lợi để bệnh nhân Gout ở tất cả các tỉnh thành có
thể dễ dàng tham gia điều trị theo chương trình này. Lý tưởng nhất là bệnh nhân Gout đến khám
trực tiếp tại các phòng khám của Viện Gút, sau đó mua thuốc về nhà điều trị trong sự theo dõi của
các bác sỹ.

Trường hợp không thể đến khám trực tiếp, Bệnh nhân có thể vào mục Liên hệ điền thông tin cá
nhân và bệnh trạng, số điện thoại để bác sỹ chủ động gọi điện hướng dẫn bệnh nhân đi làm xét
nghiệm máu, sau đó gửi kết quả cho bác sỹ Viện Gút để chỉ định phác đồ điều trị và lập hồ sơ theo
dõi.


Danh sách các Phòng khám của Viện Gút :


PHÒNG KHÁM ĐA KHOA VIỆN GÚT
98 yên Thế, Phường 2, Quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh
ĐT : 08 62968626 08 62968626 Fax :0862968627

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA VIỆN GÚT - CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG
D22 - 23 Phố Hồng Châu, Khu du lịch sinh thái Hà Hải, Phường Lê Thanh Nghị, TP. Hải Dương
Điện thoại : 0983083055 Fax : 03203861494

TẠI TP. ĐÀ NẴNG - PHÒNG KHÁM ĐA KHOA AN PHÚC
Hoạt động khám và điều trị cho bệnh nhân Gout tại Đà Nẵng tạm ngưng đến hết ngày 5/8/2010 để chuyển Phòng khám từ
158 Nguyễn Thị Minh Khai về 36A Trần Phú, Quận Hải Châu. Bệnh nhân vui lòng đến khám tại địa chỉ mới.

ĐT, Fax : 05113825631 DĐ :0913417699

CÁC THUỐC CHỐNG GÚT
11.02.2010 05:45
NTIGOUT AGENTS
CÁC THUỐC CHỐNG GÚT
Tổng quan: Hiện nay, đã có nhiều thuốc điều trị bệnh gút cấp hoặc mạn tính, bao gồm colchicin,
các thuốc chống viêm phi steroid (NSAID), sulfinpyrazon, allopurinol, probebecid, corticotropin
(ACTH) và các glucocorticoid. Điều trị bệnh gút bao gồm 3 khía cạnh khác nhau của bệnh: ức chế
phản ứng viêm (colchicin, glucocorticoid, ACTH và NSAID), giảm sản sinh acid uric (allopurinol), và
tǎng thanh thải acid uric (phenylbutazon, probenecid, sulfinpyrazon). Các thuốc lý tưởng để điều trị
cơn gút cấp là colchicin và NSAID. Các glucocorticoid và ACTH được dành để điều trị cơn cấp ở
những người kháng điều trị hoặc chống chỉ định dùng colchicin và các NSAID. Bệnh gút mạn tính
thường được điều trị bằng các thuốc thải acid uric niệu, allopurinol hoặc liều thấp colchicin dùng
hằng ngày.

Lịch sử: Colchicin đã được dùng từ lâu trong điều trị viêm khớp gút cấp. Nǎm 1763, chế phẩm
Colchicum autummale, loại cây chứa alkaloid colchicin, lần đầu tiên được sử dụng trong điều trị

cơn gút cấp. Mãi đến nǎm 1820, người ta mới chiết xuất được colchicin từ cây này. Ngày nay,
colchicin vẫn được dùng phổ biến trong điều trị bệnh gút cấp.

Trong suốt thời gian mà nguồn cung cấp penicillin bị hạn chế, có nhu cầu về các thuốc giảm bài
tiết penicillin qua thận. Probenecid đã được triển khai nhờ kết quả của một nghiên cứu có tổ chức.
Đây là 1 trong 2 thuốc (thuốc kia là carinamid) làm giảm thanh thải penicillin qua thận. Trong lâm
sàng, probenecid có hoạt tính bài tiết acid uric niệu và là thuốc điều trị gút có hiệu quả.

Sulfinpyrazon được phát hiện khoảng nǎm 1960, trong khi tìm kiếm một thuốc bài tiết acid uric niệu
và chống viêm ít độc nhất. Là chất chuyển hóa của phenylbutazon, sulfinpyrazon có hiệu quả rõ rệt
trong việc bài tiết acid uric niệu và do đó là thuốc có hiệu quả trong điều trị bệnh gút mạn tính.

Lịch sử của các thuốc chống viêm phi steroid bắt đầu vào giữa thế kỷ XVIII khi người ta sử dụng
vỏ cây liễu điều trị sốt. Nǎm 1829, người ta chiết xuất được hoạt chất của vỏ cây liễu. Salicylat
natri được sử dụng lần đầu tiên nǎm 1875 và aspirin được đưa vào điều trị chứng viêm nǎm 1899.
Các thuốc chống viêm phi steroid, không phải salicylat ban đầu bao gồm indomethacin, hiện nay
vẫn được dùng, và phenylbutazon, một hợp chất ít được dùng vì nguy cơ thiếu máu bất sản và
mất bạch cầu hạt. Vào giữa những nǎm 1970, ibuprofen và các dẫn xuất acid propionic không độc
cùng họ khác được tung ra thị trường. Có không dưới 17 thuốc riêng biệt về mặt hóa học trong
nhóm này. Nếu dùng đúng, các thuốc NSAID khá ít độc khi điều trị ngắn ngày, mặc dù các tác
dụng phụ trên đường tiêu hóa (GI) khá nổi tiếng và là một trong những phản ứng thuốc có hại hay
gặp nhất khi dùng kéo dài. Để điều trị cơn gút cấp, các NSAID hay dùng nhất là indomethacin,
phenylbutazon và sulindac, tuy nhiên, nhiều thuốc NSAID khác cũng có hiệu quả trong cơn gút
cấp. Các thuốc khác có hiệu quả bao gồm diclofenac, ketoprofen, fenoprofen, ibuprofen, piroxicam,
tolmetin, naproxen, acid meclofenamic và flurbiprofen.

Vào cuối những nǎm 1970, mới đầu allopurinol được nghiên cứu như một thuốc chống ung thư.
Nó tỏ ra thiếu hoạt tính chống chuyển hóa nhưng lại có hoạt tính chống gút rõ rệt. Nghiên cứu sâu
hơn đã chứng minh allopurinol là một thuốc có hiệu quả trong điều trị bệnh gút.


Các corticosteroid và ACTH được xem là những thuốc có hiệu quả điều trị cơn gút cấp vì hoạt tính
chống viêm của thuốc. Do có một số tác dụng phụ, các thuốc này được dành để điều trị cơn gút
cấp kháng thuốc.

Cơ chế tác dụng: Các thuốc điều trị gút khác nhau tác dụng thông qua một số cơ chế khác nhau.
Probenecid và sulfinpyrazon làm tǎng bài tiết acid uric niệu, trong khi, allopurinol cản trở sự hình
thành acid uric. Probenecid và sulfinpyrazon không tác dụng trên sự hình thành acid uric.
Colchicin, NSAID, corticotropin, và các corticosteroid ức chế chứng viêm phản ứng với lắng đọng
tinh thể urat, do đó, giảm các triệu chứng (thí dụ: viêm khớp gút) do bệnh gút.
Hoạt động của các thuốc chống viêm dùng điều trị gút khác nhau rõ rệt. Colchicin tác động bằng
cách gắn với các protein vi tiểu quản và cản trở chức nǎng thoi gián phân dẫn đến giảm di cư bạch
cầu, hóa ứng, bám dính và thực bào. Indomethacin và phenylbutazon có hiệu quả như colchicin
trong việc giảm các triệu chứng viêm của gút. Không như indomethacin, phenylbutazon cũng có
hoạt tính bài tiết acid uric niệu. Sulfinpyrazon, không giống phenylbutazon, không có đặc tính
chống viêm hoặc giảm đau. Thuốc có hoạt tính thải acid uric niệu mạnh gấp 3-6 lần probenecid.
Sulfinpyrazon cũng kéo dài đời sống tiểu cầu, có lợi trong phòng ngừa nhồi máu cơ tim và huyết
khối.

Các liều dược lý của corticosteroid và ACTH làm giảm viêm do ức chế giải phóng các acid
hydrolase bạch cầu, ngǎn ngừa sự tích tụ đại thực bào tại vị trí viêm, cản trở sự bám dính của
bạch cầu vào thành mao mạch, giảm tính thấm màng mao mạch (nhờ đó làm giảm phù nề), giảm
các thành phần bổ sung, ức chế giải phóng histamin và kinin, và cản trở sự hình thành mô sẹo.

Các đặc điểm phân biệt : Các thuốc điều trị bệnh gút khác nhau về cơ chế tác dụng và các tác
dụng phụ. Colchicin, loại thuốc lâu đời nhất trong nhóm thuốc này, được dùng để làm giảm các
triệu chứng của cơn gút cấp và bệnh gút mạn tính nhưng có tác dụng giảm mức acid uric. Ngoài
những lợi ích đối với bệnh gút, colchicin có hiệu quả trong một số chỉ định chưa chính thức như xơ
gan, thoái hóa dạng tinh bột, bệnh Paget, viêm da dạng herpes, sốt Địa Trung Hải gia đình.

Sulfinpyrazon là thuốc được ưa chuộng dành cho những bệnh nhân bị bệnh gút thứ phát sau liệu

pháp lợi tiểu điều trị tǎng huyết áp và những người có nguy cơ bị bệnh mạch vành.

Các phản ứng có hại : Tác dụng độc của colchicin liên quan tới hoạt tính chống gián phân trong
các mô đang tǎng sinh như da, tóc và tủy xương. Điều trị ngắn ngày thuốc có thể gây buồn
nôn/nôn và viêm dạ dày ruột xuất huyết. Điều trị lâu dài thuốc có thể gây mất bạch cầu hạt, thiếu
máu bất sản và rụng tóc.
Tác dụng phụ hay gặp nhất của allopurinol là phản ứng da. ở một số trường hợp, phát ban xuất
hiện tới 2 nǎm sau khi bắt đầu điều trị. Ngoài ra, việc dùng allopurinol có thể gây hội chứng ngộ
độc nguy hiểm đến tính mạng.

Tất cả các thuốc NSAID đều gây các tác dụng phụ tương tự nhau, nhưng có một vài ngoại lệ.
Những tác dụng phụ hay gặp nhất là ở dạ dày ruột, bao gồm buồn nôn, chán ǎn, đau bụng và loét.
Indomethacin và phenylbutazon có những tác dụng phụ khác hạn chế việc dùng thuốc kéo dài. 30-
55% số bệnh nhân dùng indomethacin bị tác dụng phụ. Hay gặp nhất là các tác dụng phụ ở dạ dày
ruột và hệ thần kinh trung ương (CNS). Những tác dụng phụ trên CNS bao gồm đau đầu vùng trán
dữ dội, chóng mặt, mất thǎng bằng, kém minh mẫn, lú lẫn. Điều trị phenylbutazon kéo dài gây viêm
gan, viêm thận, thiếu máu bất sản, giảm bạch cầu, mất bạch cầu hạt và giảm lượng tiểu cầu.

Tất cả các thuốc glucocorticoid, do kích thích phản hồi (feedback) tiêu cực, có thể ức chế trục
vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA). Ngoài ra, những tác dụng phụ khác của
glucocorticoid rất nổi tiếng và xuất hiện ở hầu hết các bệnh nhân sau khi điều trị kéo dài với
liều trên mức sinh lý. Những tác dụng phụ này bao gồm: loãng xương, viêm tụy, đái đường do
steroid, đục thủy tinh thể, tǎng nhãn áp, rối loạn tâm thần, bệnh nấm candida miệng và các
nhiễm trùng cơ hội khác, suy giảm miễn dịch, tǎng cân và teo da. Mặc dù các corticosteroid có
hiệu quả rõ rệt trong điều trị một số bệnh, việc dùng thuốc kéo dài bị hạn chế do có nhiều tác
dụng phụ nghiêm trọng.
Điều trị và ngăn chặn con gout cấp trong thời gian đầu mắc bệnh không khó, tuy nhiên gout
là bệnh phải điều trị lâu dài vì vậy bệnh nhân không nên tự ý sử dụng hoặc lạm dụng các
loại thuốc trên bởi những phản ứng có hại của chúng với chức năng gan, thận, dạ dày... gây
khó khăn cho việc điều trị bệnh. Tốt nhất bệnh nhân nên đồng hành cùng một thầy thuốc để

được chỉ định điều thuốc phù hợp, điều chỉnh thuốc hợp lý và được theo dõi thường xuyên.
Đảm bảo việc điều trị được an toàn, hiệu quả.

Triệu chứng của gout cấp tính
22.04.2010 06:28
Có thể nói một cách tóm tắt: gout cấp tính biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính và dữ dội của
khớp ngón bàn chân cái, cho nên còn gọi là bệnh “gout do viêm”.
* Cơn viêm cấp của bệnh thường xuất hiện sau một số hoàn cảnh thuận lợi như :
- Sau một bữa ăn nhiều rượu thịt.
- Sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
- Sau lao động nặng, đi lại nhiều, đi giầy quá chật.
- Sau những sang chấn về tinh thần : quá xúc động, cảm động, quá căng thẳng, lo lắng…
- Nhiễm khuẩn cấp.
- Sau khi dùng một số thuốc như lợi tiểu nhóm chlorothiazid, tinh chất gan, vitamin B12, steroid,...
Khoảng 50% bệnh nhân có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đi tiểu
nhiều và nóng buốt, sốt nhẹ,…

* Triệu chứng cơn gout cấp tính:
- Khoảng 60-70% cơn cấp biểu hiện ở khớp bàn ngón chân cái.
- Đang đêm bệnh nhân thức dậy vì đau ở khớp bàn chân cái (một bên), đau dữ dội ngày càng
tăng, đau không thể chịu nổi, chỉ một va chạm nhẹ cũng gây đau tăng.
- Ngón chân sưng to, phù nề, căng bóng, nóng đỏ, xung huyết, trong khi các khớp khác bình
thường.
- Toàn thân: sốt nhẹ, mệt mỏi, lo lắng, mắt nổi tia đỏ, khát nước nhiều, táo bón, tiểu tiện ít và đỏ.

- Đợt viêm kéo dài từ vài ngày đến hai tuần (trung bình là 5 ngày), đêm đau nhiều hơn ngày, viêm
nhẹ dần, đau giảm, phù bớt, da tím dần, hơi ướt; ngứa nhẹ rồi bong vẩy và khỏi hẳn, không để lại
dấu vết gì ở chân. Bệnh có thể tái phát vài lần trong một năm (vào mùa xuân hoặc mùa thu).
* Xét nghiệm và X quang :
- Chụp X quang không có gì thay đổi so với bình thường.

- Xét nghiệm : acid uric máu tăng trên 7mg% (trên 416,5 micromol/l), bạch cầu tăng, tốc độ máu
tăng, chọc dịch ở nơi viêm có thể thấy tinh thể urat nằm trong bạch cầu, nhưng cũng có khi acid
uric trong máu không tăng.

* Thể lâm sàng :
- Thể lâm sàng theo vị trí :
+ Ngoài vị trí khớp bàn ngón chân cái chiếm 60-70%, các vị trí khác ở bàn chân đứng hàng thứ
hai như cổ chân, các ngón chân, sau đó là khớp gối, rất ít khi thấy ở chi trên.

×