Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH, HĐH TRONG TÁC PHẨM PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI- KINH TẾ CỦA G.S PHẠM MINH HẠC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.41 KB, 13 trang )

1
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ
SỰ NGHIỆP CNH, HĐH TRONG TÁC PHẨM PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI- KINH TẾ
CỦA G.S PHẠM MINH HẠC
Mở đầu
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
tới đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để con
người phát triển chính bản thân mình về mọi mặt. Yếu tố quan trọng nhất để có
thể phát triển tồn diện con người đó là phát triển giáo dục; bởi vì, giáo dục là
quá trình nâng cao tri thức và kỹ năng mà trước hết, giáo dục là phương tiện đặc
biệt mang lại sự phát triển cho con người. Mặt khác, phát triển giáo dục là cơ sở
cho chúng ta phát huy tốt nhất “của cải nội sinh”, tạo nên sự phát triển đất nước
một cách bền vững. Mở đầu từ đại hội VI Đảng Cộng sản việt Nam, theo đường
lối đổi mới, Nhà nước ta xây dựng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội đến năm 2000. Một tư tưởng xuất phát điểm của chiến lược này là tư tưởng
đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế- xã hội. Đó là chiến
lược của dân, do dân, vì dân, nhằm giải phóng và và phát huy mọi tiềm năng
của mỗi cá nhân, từng tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc. Như vậy, tư
tưởng con người là trung tâm của cuộc sống và ngày nay gọi là trung tâm của sự
phát triển gắn liền với lịch sử văn hoá, văn minh nhân loại. Con người được coi
là chủ thể của lịch sử, của mọi giá trị, mọi nền văn minh. Đây là vấn đề trung
tâm của mọi đường lối chiến lược, sách lược của Đảng và được xác định là
nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quan điểm đó khơng chỉ dừng lại ở tư
tưởng chỉ đạo mà còn là chủ trương chiến lược, là sự bảo đảm cho tương lai,
tiền đồ của dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta chỉ rõ: Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta
là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ. Vì vậy, trong q
trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Đảng ta luôn coi giáo dục và đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, coi con người là
vốn quý nhất, đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển, lấy việc phát triển




2
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
đất nước. Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát triển xã hộikinh tế trở thành vấn đề cấp thiết thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học góp phần phát triển tồn diện đất nước.
1. Hồn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm
* Hoàn cảnh ra đời
Được xuất bản cùng với khoảng thời gian diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, tác phẩm “Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát
triển xã hội- kinh tế” của GS. Phạm Minh Hạc đã quán triệt các quan điểm về giáo
dục, phát triển giáo dục, phát triển con người qua các kỳ Đại hội của Đảng mà trực
tiếp là cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư
(khoá VII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII để đi đến khẳng định con
người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố; cần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về giáo dục
và đào tạo để phát triển xã hội- kinh tế của đất nước.
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII “Về tiếp
tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” đánh giá tổng quát: Hơn 40 năm
qua, ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần chủ yếu vào việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, Một số mặt quan trọng giảm
sút với so với trước, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Giáo dục đại
học ít gắn với nghiên cứu khoa học, cơ cấu đào tạo không đáp ứng cơ cấu lao
động, cơ cấu của nền sản xuất. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đạt được,
hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản, Hội nghị Trung ương đã xác định
các quan điểm chỉ đạo cơ bản trong đó: Giáo dục và đào tạo được tiếp tục khẳng
định là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải
coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển. Mục tiêu của

giáo dục là phát triển con người, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hố, khoa học, có kỹ


3
năng nghề nghiệp đáp ứng sự phát triển của các quá trình kinh tế- xã hội. Phát
triển giáo dục là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trường tồn những giá trị
văn hoá tốt đẹp của dân tộc và làm phong phú thêm những tinh hoa văn hoá của
nhân loại, là điều kiện tốt nhất để sản sinh và vun trồng nhiều nhân tài, làm giàu
thêm “nguyên khí quốc gia”; là bí quyết thành cơng, là bí quyết ngắn nhất đi tắt,
đón đầu trong CNH,HĐH. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khoá
VII), đã nâng tầm nhận thức của chúng ta lên cao hơn về vai trò của con người:
sự phát triển người quyết định mọi sự phát triển, như phát triển xã hội, phát
triển kinh tế, phát triển văn hoá. Tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VIII, trong
các quan điểm về cơng nghiệp hố, hiện đại hố có một quan điểm cực kỳ quan
trọng đã khẳng định: Lấy việc phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh chóng bền vững.
* Kết cấu của tác phẩm (Tác phẩm được kết cấu làm bốn phần, có lời kết
và danh mục tài liệu tham khảo).
Phần thứ nhất, tác giả khái quát lại thành tựu 50 năm nền Quốc học nhân
dân được mở đầu bằng nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ngay khi ra đời là phải thực hiện chống chính sách ngu dân, xây dựng
nền giáo dục dân chủ mới- giáo dục dân chủ nhân dân, với tính chất: dân tộc,
khoa học và đại chúng. Để thực hiện chủ trương đó, ngay lập tức chính quyền
cách mạng đã tổ chức xố mù chữ và giáo dục cho mọi người. Các cuộc cải
cách giáo dục được xác định rõ ràng về nguyên tắc, mục tiêu, phương châm
giáo dục, nội dung giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại
học; cơ cấu trường lớp đã tạo điều kiện cho nền giáo dục của nước ta phát triển
mạnh mẽ, đào tạo được nguồn nhân lực to lớn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
từng thời kỳ cách mạng. Trên cơ sở đánh giá kết quả 10 năm đổi mới giáo dục

(1986- 1996) bằng việc khái quát những thành tựu, chỉ ra những hạn chế,
nguyên nhân, tác giả đã nêu lên 10 quan điểm chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào
tạo và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phát triển nguồn nhân
lực phục vụ phát triển xã hội- kinh tế.


4
Phần thứ hai, tác giả viết về văn hoá và giáo dục nhân cách văn hoá. Bao
gồm các nội dung: văn hoá, văn minh; văn hoá và phát triển; giáo dục con người
đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc,
chống diễn biến hồ bình.
Phần thứ ba, trên cơ sở quán triệt các quan điểm tư tưởng chỉ đạo của
Đảng về giáo dục phát triển con người; đặc biệt là quán triệt quan điểm cơ bản
của Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (khoá VII) về giáo dục, đào tạo, quán triệt
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và với phương pháp tiếp cận
hoạt động- nhân cách tác giả đã đề xuất nhiều quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi
mới giáo dục phổ thông trong cả nước cũng như ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
núi cao.
Phần thứ tư, tác giả đi sâu làm nổi bật vai trò, tầm quan trọng của con
người- nguồn lực chủ yếu quyết định sự nghiệp CNH,HĐH và các quá trình
phát triển xã hội- kinh tế khác; trên cơ sở đó tác giả nêu lên các yêu cầu nhằm
phát triển con người phục vụ CNH,HĐH.
Nhìn chung, tác phẩm có nội dung phong phú, đề cập đến nhiều khía cạnh
ở các cấp bộ và góc độ khác nhau nhưng nổi bật, bao trùm và xuyên suốt toàn
bộ tác phẩm là vấn đề phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát
triển xã hội- kinh tế đúng như tiêu đề của nó mà tác giả đã chọn. Khai thác dưới
góc độ kinh tế học giáo dục, tư tưởng về phát triển nguồn nhân lực phục vụ
CNH,HĐH là một nội dung trọng tâm được tác giả đặc biệt quan tâm.
2. Nội dung tư tưởng giáo dục phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp CNH,HĐH.

Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945 các triều đại phương Bắc và thực
dân Pháp đô hộ đã không coi trọng tới việc giáo dục con người Việt Nam.
Chúng thực hiện chính sách nơ dịch và đồng hố mà thực chất là thực hiện
chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, chính vì vậy mà xã hội lạc hậu, kinh tế
không phát triển, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, nhờ chính sách giáo dục đúng đắn
lại được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, hiệu quả của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí


5
Minh từ đó trình độ dân trí ngày một nâng cao. Kết quả các lần cải cách giáo dục
đã giúp chúng ta đào tạo được nguồn nhân lực to lớn phục vụ sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trong tác phẩm, giáo sư Phạm Minh Hạc khẳng định: Muốn phát triển
văn hoá, kinh tế- xã hội thì trước hết phải phát triển con người vì con người là
nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển “là chủ thể của lịch sử, mọi giá trị,
mọi nền văn minh”. Sự phát triển con người bao gồm cả đức, trí, thể, mỹ; trong
sự phát triển tồn diện ấy có một nhân tố đi sâu, thâm nhập vào tất cả tạo thành
động lực cho sự phát triển đó là giáo dục.
Khi đánh giá sự phát triển của một quốc gia, người ta không chỉ căn cứ
vào sự phát triển kinh tế như sản phẩm quốc nội, tốc độ phát triển kinh tế mà
còn căn cứ vào nhiều chỉ số khác: thu nhập cao, mơi trường trong sạch. Trong
đó có một chỉ số rất quan trọng là chỉ số phát triển giáo dục.
Trước hết, đặt vấn đề con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội- kinh
tế chúng ta nhận thấy, không chỉ lấy phát triển kinh tế là mục đích tối thượng
đơn thuần mà phải lo làm sao bảo đảm tính cơng bằng, mọi người đều được
hưởng lợi từ những thành quả cách mạng. Vì vậy cần phải quan tâm đến các nhu
cầu cơ bản của mọi người và tạo điều kiện cho mọi người phát triển tối đa tiềm
năng của bản thân mình. Việc quan tâm đến lợi ích của từng người và mọi người
là động lực phát triển con người; thúc đẩy con người tích cực tham gia vào phát

triển xã hội. Theo quan điểm của tác giả về cách tiếp cận của thời đại văn minh
ngày nay thì: “Con người là trung tâm của sự phát triển xã hội - kinh tế, phát
triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội- văn hoá; mọi sự phát triển phục vụ
sự phát triển người một cách bền vững. Đó cũng là cách động viên tốt nhất tiềm
năng và sức mạnh của con người đóng góp cho công cuộc phát triển. Tư tưởng
của chúng ta là: Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
xã hội- văn hoá - kinh tế”1.
Con người là động lực của sự phát triển tức là nguồn lực con người đi
liền với vấn đề dân trí, một yếu tố cơ bản của nguồn lực con người. Theo tác
1

Sđd Tr 130


6
giả, nói tới nguồn lực người là phải nói tới giáo dục và đào tạo nguồn lực người,
làm cho mọi người lao động đều có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp. Vấn đề xoá mù chữ và phổ cập giáo dục, bắt đầu từ phổ cập giáo
dục tiểu học, tạo cho cả một dân tộc có tri thức cơ bản, kỹ năng cơ bản và thái
độ cần thiết cho cuộc sống. Đó là tiêu chí cơ bản để xét nguồn lực người của
một cộng đồng hay một quốc gia.
Hầu hết trong toàn bộ nội dung của tác phẩm, tác giả đã đi sâu phân tích
vai trị của con người đối với sự phát triển kinh tế- xã hội và khẳng định; trong
tất cả các nguồn lực thì nguồn lực con người là quan trọng nhất vì nó tham gia
vào q trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội. Thông qua hoạt động của con người các nguồn lực khác mới có thể phát
huy được tác dụng, mới có thể biến tiềm năng thành hiện thực. Chính con người
phát hiện và sáng tạo ra những nguồn lực mới, phát triển, phát huy nguồn lực
tinh thần và sử dụng nó để phục vụ bản thân. Tác giả cho rằng, nói đến nguồn
lực con người là nói đến những yếu tố cấu thành khả năng, năng lực, sức mạnh

sáng tạo của con người. Nhưng điều quan trọng nhất trong nguồn lực con người
là ở chất lượng chứ không phải là số lượng. Mà nói đến chất lượng nguồn nhân
lực là nói đến hàm lượng trí tuệ trong đó; theo quan điểm của Đảng ta thì
“nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực”. Nguồn lực con người
có trí tuệ là nguồn tài nguyên quý giá nhất. Muốn thực hiện được chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội thì trước hết phải xây dựng và thực hiện tốt chiến lược
phát triển con người toàn diện. Phát triển giáo dục và đào tạo sẽ là yếu tố căn
bản nhất đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ấy. Đi từ việc nghiên cứu các quan điểm, tư
tưởng của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề con người, tác giả đã
trích dẫn lời của đồng chí Phạm Văn Đồng để khái quát vấn đề này: Hồ chủ tịch
rất coi trọng con người bởi vì đó là vốn q nhất. Cuộc chiến đấu và chiến
thắng của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cũng như
trong công cuộc xã hội chủ nghĩa xã hội, chung quy là thắng lợi của con người.
Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định “Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của
chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam, trong đó có tiềm lực trí tuệ”. Vì vậy,


7
mọi chính sách, mọi giải pháp phải nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng
của từng người, tập thể lao động và cả cộng đồng, toàn dân tộc- giải phóng lực
lượng sản xuất. Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội và phát triển văn
hoá nhằm làm cho “mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều
kiện phát triển tồn diện cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội và dân chủ”.
Đảng ta luôn coi trọng sự phát triển con người được thể hiện ở luôn làm
cho sức sáng tạo của con người được phát huy, giải phóng sức sản xuất, tạo nên
sự phát triển xã hội lành mạnh, một nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển kinh tế ln ln gắn liền với phát triển văn hố, nhằm vào phát triển
xã hội tốt đẹp, lấy phát triển người làm mục tiêu trung tâm. Mục tiêu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay là tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, để xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh, con người và gia đình ấm no, hạnh phúc.
Tác giả cho thấy mơ hình giáo dục cho mọi người là xoá mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học và giáo dục thường xuyên ở những năm cuối của thế kỷ XX.
Thì bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH mơ hình đó phải là: phổ cập trung
học cơ sở, giáo dục thường xuyên, phổ cập trung học và phổ cập nghề trong đội
ngũ những người lao động làm cho tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo tăng lên
về số lượng, có chất lượng tay nghề cao. Nói đến phát triển nguồn nhân lực
phục vụ CNH,HĐH khơng thể khơng nói tới nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất. Nói đến phát triển người, vốn người thì trước hết phải có cách hiểu
đúng đắn về con người, Đi từ cách tiếp cận con người theo quan điểm Mác xít,
tác giả nhận định “Trong xã hội có giai cấp sự giải phóng con người gắn liền
với sự giải phóng giai cấp. Đó là điều kiện tiên quyết để phát triển người” 1.
Ngược lại, sự tác động của nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến tồn bộ
tiến trình của lịch sử. Tiến bộ xã hội không phải là một q trình tự động mà
phải thơng qua hoạt động của đông đảo mọi người trong xã hội. Con người là
nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội.
Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của vật chất và
1

Sđd Tr 311


8
tinh thần, sáng tạo và hồn thiện chính bản thân mình, đồng thời vừa là chủ
nhân sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực vô giá ấy. Trên phương diện đó, vai trị
nhân tố con người trong lực lượng sản xuất khơng phải tồn bộ nhân tố con
người nói chung mà là nhân tố năng động nhất, sáng tạo nhất của q trình sản
xuất. Chỉ có nhân tố con người mới làm thay đổi được công cụ sản xuất, tác
động vào đối tượng sản xuất làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng xuất
và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ khác, nhằm mục đích

ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người và toàn xã hội.
Đề cập đến yếu tố con người trong lực lượng sản xuất theo tác giả thì
khơng chỉ chú ý đến yếu tố kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của người
lao động mà đó phải là những con người có sự phát triển cao về trí tuệ, khoẻ
mạnh về thế chất, giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức, linh hoạt và văn
minh trong ứng xử. Vì vậy, cần cụ thể hoá mục tiêu ấy để đào tạo những người
có kiến thức văn hố, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng
tạo và có kỷ luật. Đó là xu thế của thời đại: Thế kỷ XXI là thế kỷ kỹ thuật và
nhân văn. Theo đó, sự nghiệp giáo dục đào tạo cần tiếp tục đổi mới, có phương
hướng tổng quát làm cho giáo dục đào tạo thật sự trở thành động lực thúc đẩy
và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã
hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nói đến phát triển giáo dục- phát triển con người ở bậc giáo dục phổ
thông tác giả cho rằng việc phát triển giáo dục cần chú ý đến bốn vấn đề ở các
cấp độ khác nhau: phát triển giáo dục trong phạm vi cả nước, trong từng vùng,
từng tỉnh, ở các bậc học phù hợp với các chỉ tiêu phấn đấu; phát triển từng
ngành học, có mục tiêu của bậc học, kế hoạch dạy học, chương trình môn học
làm sao người quản lý phải nắm được nhu cầu phát triển của bậc học; phát triển
giáo dục của một trường, một cộng đồng; phát triển người, phát triển nhân cách
tồn bộ q trình quản lý, giảng dạy, giáo dục là điều kiện để học sinh bằng hoạt
động của mình sáng tạo nên bản thân, hình thành và phát triển nhân cách, hình
thành và phát triển bản thân.


9
Để làm sáng tỏ con người, vai trò của con người với tư cách là những chủ
thể quyết định đến sự phát triển xã hội- kinh tế, tác giả đã lần lượt đi sâu nghiên
cứu làm rõ một số khái niệm cơ bản với tư cách là những khái niệm công
cụ:“Khái niệm con người”, “khái niệm phát triển người, khái niệm nhân cách và
phân tích cấu trúc của nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách”. Với

phương pháp tiếp cận hoạt động- giá trị, thang giá trị tác giả đã làm rõ thêm sự
cấp thiết cần phải phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát triển kinh
tế- xã hội nói chung và phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay. Sau khi
lần lượt nêu lại các quan điểm của Đảng ta về vấn đề con người qua các kỳ Đại
hội, Hội nghị Trung ương; tác giả cho rằng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
với tư tưởng “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững” là quan điểm cực kỳ quan trọng cho sự phát triển
con người trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH.
Xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo của Đảng, tác giả cho rằng nhân
loại bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh tri thức và nịng cốt là cách
mạng cơng nghệ thông tin, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh
mẽ đã dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm thay đổi sâu sắc mọi mặt
của đời sống xã hội. Vì vậy, yêu cầu của việc phát triển con người phục vụ
CNH,HĐH hiện nay trước hết cần thấu triệt quan điểm đúng đắn về phát triển
đất nước, phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh CNH,HĐH làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo đường lối Đại hội Đảng
VIII quyết định. Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội theo quan điểm
phát triển nội sinh, tự lực tự cường. Phát triển kinh tế xã hội phải lấy con người
là trung tâm: con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội- kinh tế.
Trong phát triển phải tăng mức tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người
nhưng mặt khác phải vì sự phát triển người. Phải có kế hoạch thoả mãn các nhu
cầu cơ bản của con người.
Phải thật sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là
đầu tư cho phát triển, đầu tư vào con người là đầu tư cơ bản. Phát triển giáo dục


10
- đào tạo phải coi trọng cả số lượng và chất lượng, phát huy tác dụng của quốc
sách và hiệu quả của đầu tư vào giáo dục, vào con người.
Trong phát triển con người cần phải chú ý đến cả tay nghề và đạo đức;

đây là một quy luật của sự phát triển người và phát triển kinh tế- xã hội. Phải
làm sao nuôi dưỡng được ở mọi người, nhất là thế hệ trẻ về ý chí cách mạng,
tình cảm cách mạng và hành động cách mạng. Đây là nội dung cốt yếu trong
nhân cách văn hoá của con người Việt Nam, các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam đi vào CNH, HĐH.
Nhiệm vụ của giáo dục nhân cách văn hố ngày nay là phải coi trọng tác
phong cơng nghiệp, lực lượng sản xuất và công tác, nâng cao năng xuất lao
động, tạo thêm cơ hội tham gia, đóng góp, hội nhập vào cộng đồng và xã hội.
CNH, HĐH mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đất nước, đòi hỏi đổi mới
mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, đào tạo, tạo nên những con người mang đậm đà
bản sắc dân tộc, có trình độ khoa học và cơng nghệ, có tinh thần cơng dân, có
nghĩa, có tình, có đạo đức và đạo lý; biết tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Để giáo dục, đào tạo giữ được vai trò nền tảng trong xã hội, tạo ra bước
chuyển biến từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp, chiến lược
đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta phải đáp ứng yêu cầu của cả 3 nền kinh tế:
kinh tế lao động sức người, kinh tế tài nguyên và kinh tế tri thức. Phải đổi mới
mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nghề trung học chuyên nghiệp và đại học để đáp
ứng được sự nghiệp CNH,HĐH trong thời đại thơng tin, tồn cầu hố và hội
nhập, mở cửa và kinh tế thị trường nhằm đào tạo được đội ngũ lao động đáp
ứng thị trường lao động.
Phải đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo theo hướng gắn
chặt với thị trường lao động, với sản xuất, kinh doanh; nâng cao chất lượng đào
tạo học sinh ra trường có thể phục vụ trong các ngành sản xuất kinh doanh.
Cần điều chỉnh cơ cấu ngành học, bậc học phù hợp với yêu cầu của từng lĩnh
vực kinh tế, từng vùng đáp ứng được các yêu cầu và là động lực thúc đẩy kinh
tế của cả nước phát triển ổn định bền vững với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Bên cạnh đó, cần phát triển nhiều khu cơng nghiệp, mở rộng các hình thức hợp


11

tác liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế, góp phần giải quyết việc làm
cho người lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm.
Những tư tưởng giáo dục phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
CNH,HĐH trong tác phẩm Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội- kinh tế của G.S Phạm Minh Hạc đến nay vẫn còn nguyên giá
trị, các kỳ đại hội của Đảng tiếp tục bổ xung phát triển, một trong những nhiệm
vụ chủ yếu đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định “Phát triển mạnh khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và phát triển kinh tế
tri thức”1. Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội cần xây dựng chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo điều
kiện và mở đường cho các chiến lược thực hiện một cách có hiệu quả.
Hai là, nhanh chóng cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, xây dựng
chương trình đào tạo hợp lý, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, hướng tới
tương lai. Xây dựng hệ thống trung tâm hướng nghiệp, dạy nghề, mở rộng các
cơ sở thực hành, sắp xếp lại hệ thống các trường dạy học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề một cách khoa học để đáp ứng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phát triển kinh tế- xã hội.
Ba là, củng cố, phát triển và nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo viên của
các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề có chính sách thu hút những nhà khoa
học có khả năng tham gia giảng dạy ở các nhà trường, mở rộng sự hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất nhất là
những phịng thí nghiệm, các trung tâm thông tin thư viện hiện đại. Chú ý đào
tạo lại và nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật, kể cả
cơng nhân lành nghề.

1


.

Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, tr187


12
Bốn là, đi đôi với đào tạo chuyên môn cần chú trọng cơng tác giáo dục,
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống tốt đẹp để đội ngũ cán bộ vừa có tài, vừa
có đức, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận
Tác phẩm “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã
hội- kinh tế” của GS. Phạm Minh Hạc ra đời là sự quán triệt các quan điểm của
Đảng, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng về giáo dục và đào tạo nhanh chóng đi
vào cuộc sống. Nội dung tác phẩm làm cho chúng ta có sự hiểu biết sâu sắc hơn về
một ngành khoa học còn mới mẻ, ngành kinh tế học giáo dục. Nghiên cứu tác
phẩm cho chúng ta những quan điểm chỉ đạo trong việc phát triển giáo dục đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển xã hội- kinh tế nói chung và phục
vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng.Từ vấn đề nghiên cứu chúg ta nhận thấy vai
trò to lớn của quân đội trong giáo dục phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
CNH,HĐH.
Việc xác định nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nhân viên
chuyên môn kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu
của sự nghiệp xây dựng các lực lượng vũ trang, xem hệ thống các trường trong
quân đội là một bộ phận của hệ thống nhà trường quốc gia. Quán triệt nghị quyết
đại hội X của đảng, Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về giáo dục- đào tạo,
Nghị quyết Tung ương 8 (khoá IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc…
NQ86/ĐUQSTW xác định phương hướng, nhiệm vụ cơng tác giáo dục-đào tạo
trong tình hình mới mới “ Đổi mới tồn diện cơng tác giáo dục- đào tạo và xây
dựng nhà trường quân đội theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tạo sự chuyển
biến cơ bản và vững chắc về chất lượng hiệu quả giáo dục- đào tạo và nghiên cứu

khoa học; đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách
mạng trong sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với tổ quốc và nhân dân; tập
trung đào tạo theo chức vụ có trình độ học vấn tương ứng, trong đó đào tạo cán
bộ cấp phân đội có trình độ đại học cơ bản…đáp ứng yêu cầu phát triển sự


13
nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”1.
Để thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ giáo dục- đào tạo các nhà
trường quân sự cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan
trọng hàng đầu của cấp uỷ và chỉ huy các cấp, các ngành trong quân đội. Tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn lực về con người, ngân sách và có chính sách ưu
tiên phù hợp để giáo dục- đào tạo phát triển trước một bước.
Hai là, Phát triển giáo dục đào tạo phải đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội,
củng cố quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, gắn giáo dục đào tạo với
phát triển của yêu cầu tác chiến, trang bị, khoa học và công nghệ hiện đại.
Ba là, Gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp bồi dưỡng kiến thức, năng lực tư duy
với rèn luyện năng lực thực hành; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và
giáo dục truyền thống. Kết hợp chặt chẽ đào tạo tại trường với bồi dưỡng tại đơn
vị; đào tạo với sử dụng cán bộ.
Bốn là, Nâng cao khả năng đào tạo của Bộ Quốc phòng; đồng thời, gắn với việc
huy động nguồn lực của toàn xã hội để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về chất
lượng giáo dục- đào tạo. Nhà trường quân đội phải đi đầu trong đào tạo về khoa
học công nghệ, một số lĩnh vực trọng yếu cần ưu tiên hàng đầu.
Thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo trên chắc chắn quân đội sẽ góp phần quan
trọng vào giáo dục phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH. Là
một cán bộ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần phải, tích cực học
tập, nắm vững kiến thức chuyên môn và các quan điểm, đường lối, chủ trương

chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục phục vụ phát triển kinh tếxã hội để sau này ra trường vận dụng tốt kiến thức đã học vào trong công tác, giảng
dạy và nghiên cứu khoa học.

1

. Số86 NQ/ĐUQSTW, tr12



×