Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận cao học,Mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.72 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng - Nhà nước - nhân dân là ba bộ phận cơ bản, ba chủ thể chủ yếu
tạo nên chế độ xã hội và hệ thống chính trị ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn được Đảng ta quan tâm xây dựng phát triển
và củng cố.
Trong 25 năm đổi mới vừa qua, xử lý mối quan hệ này, Đảng giữ vững
được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước, nhân dân thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của mình tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã phát
huy tốt hơn vai trị quản lý của mình, có chính sách đúng, động viên và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của cơ quan hành chính nhà
nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước bước đầu đã có đổi mới theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ
quan nhà nước. Theo đó, đã giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị: Tình
trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước đã giảm dần ở nhiều cấp; đã nâng
cao vai trò chủ động và phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính chủ
động, tự giác của các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy được vai trị của mình trong việc
tập hợp, đồn kết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào
cách mạng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự
quản của các cộng đồng dân cư. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò của
1



dân chủ hóa tồn bộ đời sống xã hội, của việc phải từng bước xác lập và phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; từng bước làm rõ mối quan hệ giữa dân
chủ xã hội chủ nghĩa và nhất ngun về chính trị, bảo đảm vai trị lãnh đạo
duy nhất của Đảng; giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền,
yêu cầu và tác động của phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
tới việc phát huy dân chủ ở nước ta. Có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy
mạnh q trình dân chủ hóa xã hội như ban hành và thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử,
giám sát đại biểu được thực hiện có hiệu quả hơn. Quyền của công dân tham
gia vào các công việc Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị
quan trọng của Đảng và Nhà nước được mở rộng và thực chất hơn. Trình độ
và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ Đảng - Nhà nước - nhân dân còn
những khuyết điểm, hạn chế sau:
- Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; cịn có tình trạng bao
biện, chồng chéo và buông lỏng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của
Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội chưa phát huy đúng mức vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
- Thứ hai, chưa phân rõ, còn lẫn lộn chức năng, quyền hạn giữa Đảng
lãnh đạo với Nhà nước quản lý, bộ máy Đảng bị "Nhà nước hóa", cồng kềnh,
khơng rõ chức năng lãnh đạo. Càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng
lãnh đạo, quyền lực chính trị. Mơ hình tổ chức đảng - Nhà nước - đồn thể
cịn cồng kềnh, chồng chéo, dư thừa, kém hiệu lực, hiệu quả.
- Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ
đã được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
- Thứ tư, bộ máy hành chính còn nhiều tầng, nhiều nấc làm cho việc
quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả.
2



Tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của một số bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước chưa được khắc phục, kỷ cương, phép nước bị xem
thường ở nhiều nơi. Dân chủ quá trớn, những hành vi trái với lợi ích của nhân
dân, của Nhà nước chưa bị nghiêm trị. Nhiều biểu hiện dựa vào dân chủ để
phá hoại kỷ cương.
- Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận
và các đồn thể khơng ít nơi vẫn chưa thốt khỏi tình trạng hành chính hóa
nặng nề, xơ cứng, chậm đổi mới; một số cán bộ đoàn thể chưa thật gần với
quần chúng. Dự thảo cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) đã nêu rõ, trong
quá trình thực hiện phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú
trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ".
Do vậy, chủ đề “Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà nước quản
lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện nay”
được lựa chọn làm Đề tài nghiên cứu trong học phần “quan hệ đổi mới chính
trị và đổi mới kinh tế” trong chương trình đào tạo thạc sỹ chuyên ngành chính
trị học phát triển. Nghiên cứu này nỗ lực chỉ rõ hơn thực tiễn về mối quan hệ
giữa Đảng- Nhà nước và nhân dân ở nước ta hiện nay. Đồng thời, đề xuất
phương hướng tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của nghiên cứu
2.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận về Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà
nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện
nay
Đề tài nghiên cứu đề xuất phương hướng tiếp tục hoàn thiện Mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới
và phát triển ở Việt Nam hiện nay thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo3


Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam
hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trang hiện nay Mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo- Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt
Nam hiện nay
- Đề xuất phương hướng tiếp tục hoàn thiện Mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo- Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở
Việt Nam hiện nay trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Giới hạn nghiên cứu
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà nước quản lý- Nhân dân làm chủ
trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà
nước quản lý- Nhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện
nay ở nước ta.
- Về thời gian: Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo- Nhà nước quản lýNhân dân làm chủ trong đổi mới và phát triển ở Việt Nam hiện nay ở nước ta
hiện nay và đề xuất phương hướng tiếp tục hoàn thiện cho năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Lơgic và
lịch sử; phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh, các phương pháp
thống kê và điều tra xã hội học.

4



NỘI DUNG
Chương 1:Một số vấn đề đặt ra về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ” ở nước ta.
Cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật theo
một nguyên tắc nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản chất
vốn có của nó. Sự vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ” là bảo đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ
XHCN, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân làm chủ - yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này
biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân
dân. Trong lịch sử Việt Nam và thế giới, đã có tư tưởng đặt lên hàng đầu vai
trò của nhân dân trong cấu tạo quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Trần
Hưng Đạo (thế kỷ 13) khẳng định: “khoan thư sức dân” là “kế sâu rễ bền
gốc”. Nguyễn Trãi (thế kỷ 15) cho rằng: chở thuyền và lật thuyền đều do dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định rõ: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhất qn quan điểm:
cách mạng là sự nghiệp chung của cả dân chúng Việt Nam và Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) là do dân lập nên để phục vụ nhân dân. Đầu năm 1946,
khi trả lời các nhà báo nước ngoài về chức vụ Chủ tịch của mình, Người
khẳng định: “Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn công danh phú quý chút nào.
Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tơi phải gắng sức
làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận.
Bao giờ đồng bào cho tơi lui, thì tơi vui lịng lui”1.
ĐCSVN ra đời, tồn tại, phát triển khơng vì mục đích tự thân mà vì giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này được thể hiện rõ
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Tại Đại hội X, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
5



thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”2. Mục đích duy nhất của ĐCSVN là đấu tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, đồng bào được sống trong
tự do, ấm no, hạnh phúc. Theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của
Đảng, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng như các bản Hiến pháp
sau này (1959, 1980, 1992), cấu tạo quyền lực Nhà nước và xã hội của nước
ta đều thể hiện rõ: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhờ vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân
dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do của dân tộc và
ngày nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai trị làm
chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng
chưa được nhiều, hiệu quả chưa cao, nhất là việc góp ý kiến, giám sát, kiểm
định đường lối, chủ trương của Đảng cũng như đối với cán bộ, đảng viên nơi
công tác và nơi cư trú. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp trong lựa
chọn, bầu đại biểu Quốc hội và Quốc hội cấu tạo các cơ quan Nhà nước để
thay mặt mình quản lý xã hội, mới chủ yếu thông qua hiệp thương; trong thực
tế ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm nghiêm trọng...
Đây chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết,
nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân.
Đảng lãnh đạo - yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự vận hành cơ chế có
hiệu quả. Vai trị lãnh đạo của Đảng khơng tự nhiên mà có và khơng phải cứ
tự nhận mà được. Vai trị đó đã được thử thách, kiểm nghiệm trong đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nhân dân Việt Nam thừa
nhận, tin tưởng trao cho Đảng vai trị lãnh đạo tồn xã hội và dân tộc.
Tuy nhiên, hiện nay, Đảng đang đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ
phải vượt qua. Đảng ta là Đảng cầm quyền; Đảng không chấp nhận đa nguyên

6


chính trị và đa đảng đối lập là quyết định hoàn toàn đúng đắn. Để đảm bảo
cho sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn phù hợp yêu cầu của đất nước, cần có
nhiều yếu tố, trong đó vai trị phản biện xã hội là hết sức quan trọng. Bởi lẽ,
nếu khơng có sự phản biện xã hội sẽ dễ dẫn đến sự chủ quan, duy ý chí;
đường lối chính trị dễ bị sai lầm; hành động thực tế dễ bị độc đốn, làm mất
dân chủ trong xã hội và khơng bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,
không bảo đảm và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước. Cùng với đó,
Đảng phải phịng và chống nguy cơ thoái hoá, biến chất và chiến lược “Diễn
biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Thoái
hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong
các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản
lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lịng tin của nhân
dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của
Đảng, của chế độ”3. Nói tham nhũng, lãng phí, quan liêu xảy ra nghiêm trọng;
nhưng ai là người tham nhũng? Chỉ có những người có chức, có quyền, những
cán bộ, đảng viên nắm trong tay của cải, tiền bạc của Nhà nước mới có khả
năng tham nhũng... Đảng ta đã nhận thức được vấn đề đó; bởi vậy, trong Báo
cáo về cơng tác xây dựng Đảng (của Đại hội X) Đảng ta đã nhận định: “vẫn
cịn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp” 4. Đó
là tình trạng đáng báo động, ảnh hưởng trực tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng.
Nguy cơ Đảng bị suy yếu còn biểu hiện ở chỗ: có lúc, có nơi lịng tin của
nhân dân đối với Đảng bị suy giảm; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của một số
tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đang có biểu hiện lệch chuẩn...
Sự lãnh đạo của Đảng hơn 80 năm qua đã đảm bảo cho dân tộc ta giành
được những thành tựu vô cùng to lớn; nhưng, những thành tựu đó có thể

khơng cịn ý nghĩa, nếu Đảng bị suy thối và khơng cịn giữ được vai trị lãnh
đạo đối với dân tộc; khi đó mọi thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta
7


đã giành được bằng bao xương, máu, mồ hôi và nước mắt, phút chốc sẽ đổ
xuống sông, xuống biển; lúc đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” cũng bị tiêu tan. Đây là lý do để khẳng định: Đảng đóng
vai trị tiên quyết cho sự tồn tại, vận hành có hiệu quả của cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Nhà nước quản lý - yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công trong vận
hành cơ chế. Nhà nước của chúng ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề
đặt ra là, làm thế nào để bảo đảm và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền? Về lý luận, trong nhà nước
pháp quyền thì pháp luật chiếm vị trí, vai trị tối thượng đối với mọi mặt của
đời sống xã hội. Ở Việt Nam, do tính chất XHCN, Nhà nước đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng thì có mâu thuẫn với nhà nước pháp quyền không? Câu trả lời
là không! Bởi lẽ, bên cạnh lãnh đạo đất nước thông qua cương lĩnh, chủ
trương, đường lối; sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội có nhiều nội dung
được thể chế hố qua hoạt động của Nhà nước. Trong công tác cán bộ, Đảng
thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị. Điều
đó là hồn tồn phù hợp; bởi vì, ĐCSVN là Đảng cầm quyền, là hạt nhân, là
cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, để hồn thành trọng trách
đó, Đảng phải khơng ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, vừa bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, vừa bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng
chức năng của mình; trong đó, mọi công dân, mọi tổ chức và bản thân Đảng
phải hoạt động theo đúng khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Điều lệ, nghị
quyết của Đảng phải đúng với Hiến pháp và pháp luật.
Để cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” vận

hành có hiệu quả, đòi hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó
chặt chẽ với nhân dân. Nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội
nguồn của mọi sức mạnh. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức
hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều là những biểu hiện của quá trình
8


Đảng tự suy yếu, làm lỏng lẻo, thậm chí phá vỡ cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Cùng với đó, Nhà nước phải làm tốt chức
năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước còn làm
các dịch vụ xã hội để giữ ổn định chính trị-xã hội và làm cho xã hội phát triển
bền vững. Đảng lãnh đạo Nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán
bộ chủ chốt hầu hết là đảng viên, đều chịu sự quản lý của các tổ chức Đảng
tương ứng. Nhưng không vì thế mà Nhà nước hoạt động một cách thụ động;
Nhà nước mạnh thì Đảng cầm quyền mới mạnh, và ngược lại; Nhà nước
mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân mới được bảo đảm và phát huy. Nhà
nước và hoạt động của nó ngày càng nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp
nhân dân thì hiệu quả hoạt động càng cao, xã hội càng thể hiện tính chất dân
chủ...
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc XHCN với nhiều thuận lợi và cũng khơng ít khó khăn,
thách thức. Để tiếp tục vận hành có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng và Nhà nước cần tập trung thực hiện
tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
- Trước hết, cần thể chế hoá bằng pháp luật mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, tạo cơ sở để thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”. Hiến pháp năm 1992 đã xác định rõ: Đảng là
thành viên và đồng thời là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị và tồn xã hội; Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật... Theo đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy

định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền cũng như của
từng chức danh cán bộ của Đảng trong xã hội. Điều này cũng phù hợp với
việc Đảng đề ra Điều lệ và các quy định của tổ chức đảng và mọi đảng viên;
tất nhiên những quy định đó phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Cùng
với đó, Đảng cần phải làm tốt công tác quản lý tổ chức Đảng và đảng viên;
mọi đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì trong bộ máy của hệ thống
9


chính trị đều phải thực hiện nghiêm pháp luật. Chỉ có như vậy, mới bảo đảm
cho Đảng vừa khơng bng lỏng lãnh đạo, vừa không lạm quyền, bao biện,
làm thay chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị-xã hội khác.
- Thứ hai, phải tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp thể hiện quyền
làm chủ trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh năm 1991 nêu
rõ: chúng ta xây dựng một “Xã hội do nhân dân làm chủ”. Để thực hiện được
điều đó, cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực
tiếp của mình, như: góp ý vào các quyết sách của Đảng, vào cơng tác cán bộ...
Cùng với đó, Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân; qua đó,
làm cho nhân dân ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy quyền làm chủ về
chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Có thể thí điểm,
dần dần và tiến tới đại trà, việc quy định để nhân dân trực tiếp bầu các chức
danh lãnh đạo của Nhà nước. Dân có quyền bãi miễn (theo thủ tục đơn giản
nhất) những đại biểu do mình bầu ra khi thấy đại biểu đó khơng cịn đủ tư
cách và khơng hồn thành nhiệm vụ. Đó cũng chính là cách thức để thực hiện
có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát
và quản lý mọi hoạt động của xã hội.
- Thứ ba, cần xác định thật rõ những đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể nêu
lên ở đây một số nội dung cơ bản cần phải quy định rõ, như: Nhà nước quản

lý xã hội dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật; mọi hoạt động của các tổ
chức chính trị-xã hội (kể cả tổ chức đảng) đều phải tuân thủ theo Hiến pháp
và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo ấy
phải được thể chế bằng luật định. Cấu tạo quyền lực của Nhà nước cũng như
hoạt động của nó phải bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân;
nhân dân có quyền kiểm sốt Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do
mình bầu ra, nếu đại biểu đó mất tư cách và khơng làm trịn nhiệm vụ; Nhà
nước tơn trọng và khuyến khích sự hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội
10


theo đúng luật định; Nhà nước có chức năng quản lý xã hội; đồng thời, có
chức năng tổ chức các dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng, chăm lo tất cả mọi yêu
cầu của nhân dân. Đây chính là sự biểu hiện rõ ràng nhất vai trò: “Nhà nước
của dân, do dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ ràng tư cách
“Nhân dân làm chủ” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là sản
phẩm tất yếu của lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, đảm bảo cho sự
thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây
dựng, hoàn thiện và phát huy đầy đủ cơ chế đó là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị và của tồn dân, mà trước hết là của cấp uỷ, chính quyền các cấp.

11


Chương 2: Quá trình phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ từ sau khi ban hành
Cương lĩnh năm 1991 đến nay
2.1 Cương lĩnh năm 1991 do Đại hội VII của Đảng thông qua đã khẳng

định bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ
2.1.1 Về bản chất
Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân”. Điều đó có nghĩa là tồn bộ hệ thống chính trị: Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị – xã hội được tổ chức, hoạt động
nhằm mục tiêu bảo đảm cho nhân dân làm chủ.
2.1.2: Về nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ
Về mối quan hệ của Đảng với xã hội (trong đó có Nhà nước) và nhân
dân, Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng về chính sách và chủ trương cơng tác; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và
phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đồn
thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống hcính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
+ Về mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, Cương lĩnh xác định:
“Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt
12


nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp
và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật.
Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn

trọng và lắng gnhe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Qua các văn kiện đã nêu, có thể đưa ra quan niệm về nội dung mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ như sau:
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng chủ trương, đường lối và mục tiêu
chính trị của mình, trong đó mục tiêu chính trị cao nhất của Đảng là vì lợi ích
của nhân dân, do vậy Đảng được nhân dân suy tôn, ủy thác quyền lãnh đạo xã
hội. Để cụ thể hóa, thực thi đường lối chính trị, Đảng cần có bộ máy nhà nước
do Đảng lãnh đạo, cử cán bộ, đảng viên để bầu vào các vị trí lãnh đạo. Nhân
dân làm chủ thơng qua đại diện của mình (do Đảng giới thiệu để nhân dân lựa
chọn, bầu ra) bằng hệ thống luật pháp. Về phần mình, nhân dân có nghĩa vụ,
trách nhiệm, quyền hạn ở chỗ tham gia xây dựng luật pháp; thực hiện và giám
sát các tổ chức, cá nhân của Đảng, Nhà nước thực hiện các quy định của luật
pháp. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ
của nhân dân, xét cho cùng là hiệu quả thực hiện ý chí, nguyện vọng của
Đảng và nhân dân.
2.2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ trong 20 năm qua
Phương hướng cơ bản để thực hiện cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là mở rộng và thực thi dân chủ, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân, mở rộng và bảo đảm sự tham gia của nhân
dân vào xây dựng Đảng, quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội; tăng
cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, Nhà nước và
cán bộ; hoàn thiện bộ máy nhà nước.
2.2.1 Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ

13


Đảng ta nhận thức rõ Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng lãnh đạo Nhà

nước và toàn xã hội, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc để làm cho đường lối,
quan điểm của Đảng giữ vai trò hcủ đạo đối với sự phát triển xã hội, thông
qua hệ thống tổ chức của Đảng và đảng viên để lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện
bộ máy nhà nước. Đồng thời, Đảng và Nhà nước lãnh đạo nhân dân thường
xuyên tham gia ý kiến, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, nhờ vậy
mục tiêu của Đảng được thực hiện trong phạm vi quốc gia, dân tộc. Đảng lãnh
đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước, Đảng lãnh đạo
Nhà nước, nhưng không làm thay công việc của Nhà nước. Đảng quan tâm
xây dựng, củng cố Nhà nước, phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý,
điều hành đất nước.
Đảng lãnh đạo trước hết là để phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, làm cho Nhà nước thật sự xứng đáng là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng
lãnh đạo là để nhân dân phát huy vai trò làm chủ đất nước và làm chủ xã hội.
Việc phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước và làm chủ
của nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng thật sự
là người lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội.
Trong việc xử lý mối quan hệ ấy, Đảng ta luôn coi trọng việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân trên cơ sở tiếp tục khẳng định những nguyên tắc đã
được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 như: Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị nhưng khơng làm thay cơng việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị; Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay công việc của Nhà
nước; Đảng tơn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và
chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân…
Trong nhiều văn kiện, Đảng ta chỉ rõ, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng phải gắn liền với đổi mới tư duy về Đảng cầm quyền, về nội dung
14



lãnh đạo của Đảng và về mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức của hệ thống
chính trị trong tình hình mới. Chẳng hạn, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X
(năm 2007) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm giữ vững và tăng
cường vai trị lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và tồn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với
nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị – xã hội; phát huy dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cưởng trong Đảng
và trong xã hội; để nước ta phát triển nhanh và bền cững theo định hướng
XHCN”.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn phương
thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh
đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo
thơng qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng
đầu.
Đảng ta luôn chú trọng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; ln kiên định mục
tiêu, lý tưởng của mình; phục vụ nhân dân. Đảng, Nhà nước đã xây dựng các
thiết chế nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, đến nay, trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề
về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục làm sáng tỏ và cụ thể hóa để nâng

15


cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân.
2.2.2 Mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với Đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ
Lần đầu tiên, thuật ngữ “Xây dựng Nhà nước pháp quyền” được đề cập
tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1991).
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), Đảng
ta khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực xây dựng được
các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Chính sách,
pháp uật, cơ cấu tổ chức nhà nước được nhân dân góp ý xây dựng; nhân dân
giám sát các hoạt động của Nhà nước.
Mối quan hệ giữa Nhà nước quản lý với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ được thể hiện rất rõ trong năm quan điểm cơ bản về ây dựng Nhà nước
pháp quyền là: (1) Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, và vì nhân dân; lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (2) Thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân;
(3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; (4) Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước; (5) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng ta khẳng định cần thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng

hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà
nước; cải cách tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
16


Đến Đại hội IX và X, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2.2.3 Về mối quan hệ giữa nhân dân làm chủ với Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý
Đến Đại hội X, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc
hơn, khi khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.
Đồng thời đã xác định xã hội chúng ta đang xây dựng là “do nhân dân làm
chủ” chứ không chỉ là “nhân dân lao động làm chủ”.
Đại hội X có bước tiến mới về nhận thức quyền làm chủ của nhân dân:
xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải
thật sự là công bộc của nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của
Đảng. Mọi đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Xác định các hình
thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Đại hội X cũng đã chỉ rõ các hình thức để nhân dân làm chủ: thực hiện
các cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; dân
chủ trong quá trình chuẩn bị ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết
định; làm chủ thông qua các cơ quan dân cử, các tổ chức, đoàn thể chính trị,
xã hội, nghề nghiệp; làm chủ trực tiếp ở cơ sở, bằng các hình thức nhân dân
17


tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp của
Nhà nước, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình
thức. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc,
sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp
và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước,
của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện”.
Qua các kỳ đại, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ đã ngày càng được cụ thể hóa. Tuy nhiên, trong thực tế cịn
khơng ít vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức vận hành
của bộ máy nhà nước và quy định cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân còn
bất cập, cần được tiếp tục làm rõ.

18


Chương 3: Tình hình giải quyết, xử lý mối quan hệ Đảng – Nhà nước –

Nhân dân trong thời gian qua
3.1 Những thành tựu trong quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân
dân
Những thành tựu nổi bật trong mối quan hệ này được thể hiện trên các
mặt sau:
(1) Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước; thông qua
Nhà nước, nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng tốt hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã phát huy tốt hơn vai trị
quản lý của mình, có chính sách đúng, động viên và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước, đã
quán triệt nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành
dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân, tham khảo và vận dụng có chọn
lọc lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam sao cho phù hợp với dân tộc, thời đại và hoàn cảnh thực tiễn
của đất nước. Cụ thể là:
+ Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
+ Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
+ Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, trước hết là của
cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của
quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang
quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bước
đầu đã có đổi mới theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
19



* Giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các
tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị:
+ Tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước đã giảm dần ở nhiều
cấp; đã từng bước nâng cao vai trò chủ động và phát huy hiệu lực quản lý của
Nhà nước, tính chủ động, sáng tạo của các tổ hcức chính trị – xã hội.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng phát
huy được vai trị của mình trong việc tập hợp, đồn kết, động viên các tầng
lớp nhân dân tham gia các phong trào cách mạng, tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư.
+ Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò và nội dung của dân chủ
trong đời sống xã hội, xác lập và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
từng bước làm rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh
đạo của Đảng; giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, yêu
cầu và tác động của phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế với
việc phát huy dân chủ ở nước ta.
+ Đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh quá trình dân chủ
háo xã hội. Việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần tích cực vào q trình
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân trong xã hội có bước
phát triển tồn diện hơn. Quyền ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại
biểu được thực hiện có hiệu quả hơn. Quyền của cơng dân tham gia vào các
công việc của Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết định chính trị quan
trọng của Đảng và Nhà nước được mở rộng và thực chất hơn. Trình độ và
năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
Những bước trên đây trong đổi mới từng bộ phận của hệ thống chính trị
và quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó đã góp phần quan trọng làm cho dân
chủ trong xã hội có bước phát triển toàn diện.
3.2 Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

20



Trong mối quan hệ Đảng – Nhà nước – nhân dân còn những bất cập,
hạn chế sau:
-Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước; cịn có tình trạng bao biện, chồng
chéo và bng lỏng nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu
lực điều hành của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội còn chậm, chưa phát huy đầy đủ vai trò lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân.
-Thứ hai, chưa phân định thật rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh
đạo với Nhà nước quản lý; càng xuống dưới càng khó phân biệt chức năng
lãnh đạo và chức năng quản lý. Hệ thống tổ chức đảng – nhà nước – đồn thể
cịn cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả.
-Thứ ba, cơ chế Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ
đã được xác định từ lâu, nhưng chưa được nghiên cứu để cụ thể hóa đầy đủ.
-Thứ tư, bộ máy hành chính cịn nhiều tầng, nấc làm cho việc quản lý
quá trình phát triển kinh tế – xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả.
Tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công
chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường,
thậm chí cịn có những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại kỷ cương, phép
nước, trái với lợi ích của nhân dân.
-Thứ năm, phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân khơng ít nơi vẫn chưa thốt khỏi tình trạng
hành chính hóa, xơ cứng, chậm đổi mới; một số cán bộ đồn thể bị “cơng
chức hóa”, chưa thật gần với quần chúng. Một số hoạt động không đúng chức
năng, nhiệm vụ, tính chất của Mặt trận. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của
nhân dân còn bị vi phạm một cách nghiêm trọng. Trong giao dịch với các cấp
chính quyền người dân chưa thật sự là người được thụ hưởng các dịch vụ từ
các cơ quan nhà nước…

*Nguyên nhân của những bất cập và hạn chế:
21


Những bất cập và hạn chế trong mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” là hệ quả của những nguyên nhân sau:
+ Chưa có những nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đầy đủ và hệ
thống về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Do vậy, chưa thật sự làm rõ cả trên phương diện lý luận và thực tiễn về
bản chất, nội dung cơ bản và những hình thức, biện pháp để thực hiện mối
quan hệ tổng thể này.
+ Chậm đổi mới tư duy và nhận thức về mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nên chưa tạo được một hệ thống nhận
thức mới đầy đủ về mối quan hệ này trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế.
+ Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa
được thể chế hóa, cụ thể hóa đầy đủ và đồng bộ thành một hệ thống các quy
định, thể chế thích hợp. Mối quan hệ giữa các cấp ủy đảng ở cả trung ương và
địa phương với các cơ quan nhà nước các cấp, các ngành chưa được cụ thể
hóa bằng một hệ thống quy chế quan hệ đầy đủ và đồng bộ.
+ Công tác xây dựng Đảng, đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của đất
nước. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn nhiều
bất cập; phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới; hiệu quả, hiệu lực
quản lý của bộ máy nhà nước chưa cao; công tác cải cách hành chính vẫn
chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở. Đạo đức
công vụ của đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn nhiều bất cập.


22


Chương 4: Nắm vững và giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ phải đặc biệt chú
trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Để tiếp tục nhận thức rõ và giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong quá trình đổi mới, cần
thực hiện tốt những vấn đề sau:
* Nhận thức đẩy đủ hơn, sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phù hợp với đặc điểm của thời kỳ mới ở
nước ta.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được hình
thành và vận hành từ trước thời kỳ đổi mới, xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp và quan điểm về chế độ làm chủ tập thể XHCN. Bước
vào thời kỳ mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân cần có những
nhận thức mới.
(1) Nhân dân làm chủ
Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và
Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân.
Người dân không chỉ thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua các
đại biểu do mình bầu ra, mà họ cịn tự mình thực hiện những quyền đó. Người
dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật
để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của mình. Cũng thơng qua các tổ chức
của mình, người dân sẽ thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ
máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa
thuận với nhân dân hay không. Như vậy, điều cần nhấn mạnh ở đây là, người

dân thực hiện quyền làm chủ của mình khơng chỉ thơng qua bộ máy nhà nước,
23


mà họ cịn tự mình thực hiện quyền ấy trên cơ sở các tiêu chí, yêu cầu mà luật
pháp đã quy định. Bất kỳ ai lợi dụng quyền làm chủ của nhân dân để chống
đối, làm trái pháp uật, đều phải bị xử lý. Hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng
phải theo quy định pháp luật; nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật
trong thi hành công vụ, người dân có quyền phản đối hoặc khiếu kiện theo
luật định.
(2) Đảng lãnh đạo
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách, chủ trương lớn. Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng,
chủ trương lớn này của Đảng cần được sự đồng thuận của nhân dân. Nhân dân
có quyền và nghĩa vụ tham gia góp ý vào nội dung dự thảo các văn bản, văn
kiện của Đảng trước khi ban hành.
+ Đảng lãnh đạo thông qua việc giới thiệu những đảng viên ưu tú của
mình để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Với tư
cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, khi người dân nhận thấy cương lĩnh,
đường lối của Đảng là đáng tin cậy, có thể đem lại lợi ích cho bản thân mình
và cho tồn xã hội, thì chắc chắn họ sẽ bỏ phiếu cho những ứng cử viên là
người của Đảng và sẽ tự giác hơn trong việc chấp hành các chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
+ Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu phải thông qua Nhà nước chứ không
phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập đứng bên ngoài hay đứng bên
trên Nhà nước bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan
nhà nước; phù hợp với sự phát triển của nền dân chủ XHCH nói chung và việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta nói riêng. Đảng phải phát
huy vai trò và trách nhiệm cá nhân của từng đảng viên ưu tú của Đảng, được
nhân dân tín nhiệm bầu, nhân dân chính thức giao quyền. Cần thực hiện tốt

phương thức lãnh đạo thông qua đảng viên nắm giữ các cương vị chủ chốt của
Nhà nước ở các cấp, đượcbầu cử dân chủ với các quy chế pháp lý chặt chẽ,
ràng buộc trách nhiệm của những người này trước Đảng và trước nhân dân.
24


+ Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và
chứng minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn và tính khoa học trong đường
lối, quyết sách của mình. Sự chứng minh ấy khơng gì khác hơn là thông qua
các nghiên cứu, thử nghiệm, phản biện và tranh luận rộng rãi ở cả trong và
ngoài Đảng. Nếu như khơng có sự trao đổi, thảo luận rộng rãi về đường lối,
chính sách thì sự thuyết phục đối với người dân sẽ khó có thể đạt được hoặc
khơng tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.
+ Đảng tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên.
(3) Nhà nước quản lý
Để có thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, Nhà nước
phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo
đảm “lao động” quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách
khoa học, chặt chẽ, hiệu quả. Nguyên tắc ở đây là Nhà nước sinh ra để phục
vụ nhân dân. Trong một xã hội dân chủ thì Nhà nước phải là người bảo vệ
quyền công dân, quyền con người. Mức độ dân chủ của một xã hội có thể
được đo lường bằng số lượng những quyền công dân, quyền con người mà
một cơng dân bình thường có thể thực hiện được trên thực tế.
Như vậy, Đảng và Nhà nước khơng có lợi ích tự thân, sứ mệnh của
Đảng và Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, công chức là công bộc của
nhân dân. Do vậy, phải luôn luôn nhận thức và đặt “nhân dân” vào trung tâm
của mối quan hệ này; sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đều xuất
phát từ nhu cầu dân chủ của người dân, phục vụ lợi ích của nhân dân và là
những bảo đảm quan trọng để nhân dân thật sự là chủ và thật sự làm chủ.

* Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước
pháp quyền trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân
Đảng và Nhà nước đều là những tổ chức thực hiện các ủy quyền quyền
lực của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho Đảng quyền lãnh đạo chính trị với
ba thẩm quyền cơ bản:
25


×