ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ Q ĐỢ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
………… ………………………………………..
LỚP L16--- NHĨM 18 --- HK 203
NGÀY NỘP 20/7/2021
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Kiều Diễm
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Lê Đình Nhật Anh
1912568
Phan Kiến Quốc
1916078
Nguyễn Phúc Thịnh
1910564
Nguyễn Phước Trường Thịnh
1915318
Nguyễn Ngọc Tường Vi
1915895
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
Điểm số
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: CHỦ NGHĨA XÃ HỢI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: …DT06… Tên nhóm: ..18… HK: …203… Năm học …2020-2021…
Đề tài: Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải
pháp xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay
STT
1
4
5
Điểm
(%)
BTL
MSSV
Nhiệm vụ
Lê Đình Nhật Anh
1912568
Làm 2.1 100
Kết Luận
Đã ký
Đã ký
Phan Kiến Quốc
Làm 2.3 100
1916078 Tài liệu
tham khảo
Nguyễn Phúc Thịnh
1910564
Làm
Bìa
Đã ký
Nguyễn Phước Trường Thịnh
1915318
Làm 2.2
Mục lục
100
Đã ký
Nguyễn Ngọc Tường Vi
1915895
Làm 1.1 100
Mở đầu
Đã ký
2
3
Kết quả
Họ và tên
1.2 100
Chữ ký
Họ và tên nhóm trưởng: ..........Phan Kiến Quốc..........., Số ĐT: 0348400605
Email:
NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)
Phan Kiến Quốc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................4
2. Nhiệm vụ của đề tài.............................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................6
Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ Q ĐỢ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỢI......................................................................................................6
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình........................................6
1.1.1. Khái niệm gia đình..................................................................................6
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội................................................................7
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình...............................................................9
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội......12
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội............................................................................12
1.2.3. Cơ sở văn hố........................................................................................14
1.2.4. Chế độ hơn nhân tiến bộ........................................................................14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY.............................................................................................................17
2.1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới..........................17
2.1.1. Khái niệm..............................................................................................17
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới.............................................18
2.2. Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay...............................................................................21
2.3. Đề xuất giải pháp xây dựng và phát triển bình đẳng giới trong gia đình
ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới...........................................................27
2.3.1. Xây dựng định hướng đến năm 2030....................................................27
2.3.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2021-2030.......................................................................................28
KẾT LUẬN................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................35
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu như trước đây, khi tư tưởng Nho giáo có sự ảnh hưởng lớn đến lối sống của
người Việt, nó đưa ra những chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ giữa người với
người, đặc biệt là quan hệ giữa chồng và vợ, đặt ra những định kiến về vai trò của mỗi
người trong gia đình như người đàn ơng giữ vai trị quan trọng, làm chủ gia đình, trong
phụ nữ phải lệ thuộc hồn tồn vào đàn ơng như câu "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử", thì trong xã hội hiện đại ngày nay, phụ nữ được tạo điều kiện để
phát huy năng lực của bản thân, đóng góp cho sự phát triển của xã hội, khi đó đàn ơng
và phụ nữ đều có vai trị ngang nhau trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền
vững, trong đó, mỗi người đều có nghĩa vụ chăm sóc, giữ gìn những giá trị truyền
thống tốt đẹp, cùng nhau nuôi dưỡng dạy dỗ con cái, phụng dưỡng cha mẹ, khơng cịn
tình trạng trách nhiệm nghiêng về một phía. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình
phát triển bền vững sẽ giúp xã hội ngày càng tốt đẹp.
Ở một thành phố có điều kiện phát triển cao như TP Hồ Chí Minh hiện nay, giới
trẻ đã có điều kiện tiếp cận những giá trị xã hội tiến bộ, thay thế cho những quan niệm
cổ hủ như trọng nam khinh nữ, tính gia trưởng trong gia đình, đều hướng tới một xã
hội bình đẳng giữa người với người, khơng phân biệt. Nhưng bên cạnh đó, dưới sức ép
của cuộc sống hiện đại như căng thẳng trong công việc, gánh nặng tiền bạc gia tăng,
bất ổn tâm lý không được điều trị đúng cách, rất nhiều người đã chọn lối sống độc thân
không kết hôn, hay kết hôn nhưng không sinh con, dần dần đã trở thành vấn đề khiến
cho hơn nhân trở nên khó khăn với nhiều người, tỉ lệ sinh ngày càng giảm, ảnh hưởng
đến lực lượng lao động của xã hội.
Vì vậy, nhóm tác giả chọn đề tài này mong có thể góp một phần nhỏ vào việc
nâng cao nhận thức của bản thân và mọi người đối với bình đẳng giới trong hơn nhân,
nâng cao giá trị gia đình, xây dựng một xã hội phát triển bền vững, xố bỏ vấn nạn bất
bình đẳng giới trong xã hội hiện đại.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ khái niệm, vị trí và các chức năng của bình đẳng giới trong hơn nhân.
- Làm rõ những cơ sở xây dựng một mối quan hệ bình đẳng giới tính trong hơn
nhân thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nêu thực trạng biến đổi của vấn đề bình đẳng giới trong hơn nhân trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng … (ưu điểm, hạn chế).
- Đề xuất một số giải pháp.
PHẦN NỢI DUNG
Chương 1. VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Khi đề cập đến gia đình, C.Mác đã cho rằng: "Quan hệ thứ ba
tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình" 1. Cơ sở hình thành gia
đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết
thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết,
ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong
gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan
hệ giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối
quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với
nhau.
Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan
hệ giữa cha mẹ với con cái, cịn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với
cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ, dì, chú bác với cháu, v.v… 2 Ngày nay, ở
Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi (người đỡ đầu)
với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình. Dù hình
thành từ hình thức nào, trong gia đình tất yếu này sinh quan hệ ni dưỡng, đó là sự
quan tâm chăm sóc ni dưỡng giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và
tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 3, tr 41.
2 Quốc hội, Luật Hơn nhân và Gia đình, 2014.
thành viên trong gia đình. Trong xã hội hiện đại, hoạt động ni dưỡng, chăm sóc của
gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ, song không thể thay thế hồn tồn sự chăm sóc,
ni dưỡng của gia đình.
Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và thể chế chính trị - xã hội.
Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình.
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân
sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần
áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó
những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang
sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động
và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình" 3. Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu
dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người, gia đình như một tế bào tự nhiên, là
một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Khơng có gia đình để tái tạo ra con người
thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển
lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “... nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình.”4
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, và phụ
3 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 21, tr 44.
4 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t.9, tr.531.
thuộc vào chính bản thân mơ hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình gia đình trong lịch
sử. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội khơng
hồn tồn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến
sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được n ấm, hịa thuận
trong gia đình, thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã
hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình
bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá
nhân của mỗi thành viên
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là mơi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của
mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách,
thể lực, trí lực để trở thành cơng dân tốt cho xã hội. Chỉ trong mơi trường n ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình n, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Chỉ trong gia đình,
mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau mà khơng cộng đồng nào có được và có thể thay thế.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình
mà cịn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác, ngồi các thành
viên trong gia đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành
viên của xã hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ
giữa các thành viên của xã hội. Khơng có cá nhân bên ngồi gia đình, cũng khơng thể
có cá nhân bên ngồi xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu
quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là mơi trường đầu tiên mà mỗi cá
nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thơng qua lăng kính gia đình mà tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nhân cách v.v … Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi
xem xét họ trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý
xã hội phải thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và
quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia
đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo
yêu cầu của mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc
điểm của gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để củng
cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền đã có
những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung
thành với người chồng, người cha - những người đàn ông trong gia đình. Trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người
được giải phóng, giai cấp cơng nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một
chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa"5. Vì vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất
so với các chế độ xã hội trước đó.
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể thay thế.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp
ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng họ mà cịn đáp ứng nhu cầu về sức
lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội. Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra
con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà
là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và
nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã
hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng
5 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t p.9. tr.531.
này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung
cấp.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình cịn có trách nhiệm ni
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức
năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời
thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người.
Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha
mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường
để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một
mơi trường văn hóa, giáo dục, trong mơi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ
thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ
hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong
gia đình.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trị nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù, trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đồn thể, chính quyền
v.v..) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của
gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế
hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự
trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo
dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình khơng
gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hịa nhập với xã hội, và
ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với
giáo dục của gia đình, khơng lấy giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh
khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược
lại. Bởi cả hai khuynh hướng hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển tồn diện.
Thực hiện tốt chức năng ni dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm
mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối tồn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc
biệt là phương pháp giáo dục.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia
đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất
tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Gia đình khơng chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội: Gia đình thực hiện
chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản
xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu
nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần
của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một mơi
trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy
trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay cả
một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng
kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và
cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối
quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hồn
tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của
gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia
đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào q trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự
giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của
mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải vật
chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, khơng những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối
với sự phát triển của xã hội.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là
nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con
người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định
đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt quan hệ
tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Ngồi những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của
dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị gia
đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật,
chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công
dân.
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Trong chế độ cộng sản chủ nghĩa, xã hội không có giai cấp, khơng có sự bóc lột
giữa người và người với nhau. Về mặt kinh tế, tư liệu sản xuất trở thành của chung
tồn xã hội. Ở đó mọi người sống chan hòa, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Khi xây
dựng thành công chế độ cộng sản chủ nghĩa, lúc bấy giờ tư hữu tư nhân hay toan tính
về lợi ích cá nhân sẽ hồn tồn mất đi. Đồng thời, mọi việc trong gia đình như chăm
sóc con cái, quán xuyến việc nhà như trước đây chỉ thuộc về người đàn bà thì đến xã
hội này sẽ thuộc về tất cả mọi người. Mọi thành viên trong gia đình đều phải có trách
nhiệm, ý thức trong xây dựng gia đình hướng tới sự cơng bằng giữa nam và nữ.
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản
xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Bản chất của quan hệ sản xuất mới này
là từng bước xác lập vị trí thống trị về kinh tế đối với nhân dân lao động.
Để xây dựng thành cơng gia đình trong chế độ xã hội chủ nghĩa, việc cần làm đó
là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. V.I.Lênin đã viết: “Bước thứ hai và là bước
chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy. Chính như thế
và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng hồn tồn và thật sự cho phụ nữ,
mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá
thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mơ lớn”6.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng
thống trị của người đàn ơng trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ. Đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân
trong gia đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã
hội hay tham gia lao động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và
phát triển, tiến bộ của xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở
làm cho hơn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh
tế, địa vị xã hội hay một sự tính tốn nào khác.
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở để xây dựng gia đình phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện chính trị - xã hội.
Như khi nước ta còn trong xã hội phong kiến, một xã hội “trọng nam khinh nữ” khiến
cho gia đình thời kỳ này xem nhẹ vai trị của người phụ nữ, đàn ơng được phép có
nhiều vợ. Người phụ nữ phải ln tn theo “tam tịng, tứ đức”, và sẽ chịu sự khinh
miệt từ xã hội nếu đi lệch khỏi những quy tắc ấy. Điều đó khiến cho gia đình trong
thời kỳ này xây dựng một cách bất bình đẳng và thiếu vững chắc. Chừng nào và ở đâu,
hệ thống chính sách, pháp luật chưa hồn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo
hạnh phúc gia đình cịn hạn chế.
6 V.I.Lênin, Tồn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.1977, tập42, tr.464.
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được
thực hiện quyền lực của mình khơng có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng
chính là cơng cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ
đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Trong đó vai
trị của hệ thống pháp luật là rõ nét nhất. Luật Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống
chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của cơng dân, các thành viên trong gia đình, đảm
bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội... Hệ thống
pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành
gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.3. Cơ sở văn hoá
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản
trong đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng khơng ngừng
biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp cơng nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trị chi phối nền tảng văn
hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối
sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ. Sự phát triển hệ thống giáo dục,
đào tạo, khoa học và cơng nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học
và cơng nghệ của xã hội. Nếu thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền
với cơ sở kinh tế, chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, khơng đạt hiệu quả
cao.
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hơn nhân xuất phát từ tình u giữa nam và nữ. Ph.Ăngghen
từng nhận định: “Chỉ trong các giai cấp bị áp bức, mà ngày nay là giai cấp vô sản, thì
tình u nam nữ mới có thể là (và thực tế đang là) một qui tắc thật sự trong các quan
hệ với người phụ nữ”7. Hôn nhân xuất phát từ tình u tất yếu dẫn đến hơn nhân tự
nguyện. Đây là bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn
7 Ph.Ăngghen, Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước, ph.4, chương II, tr.64
mạnh: “...nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của
những kẻ yêu nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với
người khác”8.
Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn
người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện
không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có
trách nhiệm trong việc kết hơn. Hơn nhân tiến bộ cịn bao hàm cả quyền tự do ly hơn
khi tình u giữa nam và nữ khơng cịn nữa. Tuy nhiên, hơn nhân tiến bộ khơng
khuyến khích việc ly hơn, vì ly hơn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ,
chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly
hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục
đích vụ lợi.
Hơn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng
là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình u. Thực hiện hơn nhân một vợ một
chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật
tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội lồi người,
khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ
nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người,
-vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái của
người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một
vợ một chồng về phía người vợ, chứ khơng phải về phía người chồng” 9. Chỉ khi tiến
tới xã hội chủ nghĩa thì điều này mới được khắc phục. Ph.Ăngghen khẳng định, chỉ có
trong giai cấp vơ sản thì hơn nhân mới thực sự hình thành trên cơ sở tình yêu, tự do, tự
nguyện củ hai bên nam nữ, gia đình vơ sản khơng có sự tính tồn về lợi ích: “Hơn
8 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, tập. 21, tr.125.
9 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập. 21, tr.118.
nhân của người vô sản là hôn nhân một vợ một chồng theo ngữ nghĩa nguyên, chứ
tuyệt nhiên không phải là theo nghĩa lịch sử của danh từ đó”10.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ
một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tơn trọng
lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho
sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với
nhau. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu
thuẫn khơng thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi
người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được mọi người quan
tâm, chia sẻ.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Quan hệ hơn nhân, gia đình thực chất khơng phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia
đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã
hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã
đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều
đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý
trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ,
trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện pháp
ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hơn để thỏa mãn
những nhu cầu khơng chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực
hiện thủ tục pháp lý trong hơn nhân khơng ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly
hơn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ
nhất.
10 Ph.Ăngghen, Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước, ph.4, chương II, tr.65
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
2.1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới
2.1.1. Khái niệm
“Giới” là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ
vọng liên quan đến nam và nữ. Đó cũng là mối quan hệ giữa địa vị của nữ và nam
trong bối cảnh xã hội cụ thể. Khi nói tới giới là nói đến các điều kiện, các yếu tố xã hội
quy định vị trí, hành vi xã hội của giới nam và giới nữ. Nó khác với giới tính - chỉ sự
khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, chủ yếu liên quan đến chức năng tái sản
xuất giống nòi và do các yếu tố tự nhiên quy định. “Bình đẳng là thuật ngữ được sử
dụng theo nhiều cách khác nhau, tại nhiều thời điểm khác nhau để chỉ sự ngang bằng
về cơ hội, về thành quả, về luật pháp, về kết quả tạo ra, về mức độ hưởng thụ… Bình
đẳng giới chính là nói đến quyền được ngang bằng nhau trong các nội dung đã nêu
trên ở giới nam và giới nữ.”11
Khái niệm bình đẳng giới được định nghĩa tại Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng
giới năm 2006 như sau: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”
Trong xã hội nói chung hay gia đình nói riêng, bình đẳng giới ln có ý nghĩa rất
quan trọng. Trong thời kỳ đi lên và phát triển, xã hội tuy ngày càng bận rộn nhưng con
người vẫn không thể tránh khỏi việc phải lo cho gia đình, người thân của mình. Vì thế,
trong phạm vi gia đình, khi các thành viên cùng chia sẻ công việc nhà với nhau, dù là
vợ hay chồng, con trai hay con gái đều cùng nhau mỗi người góp sức vào việc chăm
sóc gia đình, nhà cửa, đóng góp nghĩa vụ chung làm việc gia đình theo sức lực và sở
thích, sở trường của mình. Hơn nữa, những người trong gia đình được quyền chia sẻ ý
kiến, suy nghĩ cho nhau, cùng nhau xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, dù là
nam hay nữ đều nhận được cơ hội học tập, lao động như nhau. Đó chính là bình đẳng
giới trong gia đình, và có như thế, gia đình mới có được sự hạnh phúc, sự hài hịa,
được vung đắp đủ đầy tình u thương, bình đẳng và được tơn trọng. Một gia đình bảo
11 Nguyễn Thị Đức. (12/2013). Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 6, tr.72 - 73
đảm được bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình sẽ là mơi trường tốt để
ni dạy những đứa trẻ trở thành người có đủ đạo đức và tri thức vì các thành viên đều
được hưởng sự chăm sóc sức khỏe, tinh thần đầy đủ, được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí
tự do, tiếp thu văn hóa và được quyền hưởng các phúc lợi xã hội cũng như có thời gian
tái tạo sức lao động. Bình đẳng giới ở mỗi thời đại, đặc biệt là khi thế giới đang
chuyển mình theo cuộc Cách mạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như lúc này lại càng
là một tiền đề để con người được đối xử bình đẳng với nhau cũng như được giáo dục
về quyền bình đẳng, là nền móng để nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi gia đình,
góp phần giải phóng phụ nữ và xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng giới
Trong các lĩnh vực đời sống xã hội nói chung và trong phạm vi gia đình nói
riêng, một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến bình đẳng giới chính là sự phân biệt
giới tính. Ở đây, “giới tính” được hiểu là những đặc điểm sinh học của nam giới và nữ
giới, có tính phổ qt và khơng thay đổi, khác với “giới” vốn mang tính đặc thù của xã
hội và có thể thay đổi được. Sự phân biệt giới tính, cịn có thể gọi là bất bình đẳng
giới, được hiểu là “sự phân biệt với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho
nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển
của gia đình, của đất nước”12. Nói cách khác thì, sự phân biệt giới tính chính là “lối đối
xử khác biệt giữa nam giới và nữ giới tạo nên các cơ hội khác nhau, sự tiếp cận các
nguồn lực khác nhau, sự thụ hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực đời
sống xã hội hay thu nhỏ trong gia đình”13. Trải dài cùng với lịch sử, qua nhiều chế độ
nhà nước trong xã hội loại người, phân biệt giới tính đã tồn tại và tới nay vẫn là một
vấn đề chưa thể giải quyết triệt để. Bắt nguồn từ các giai đoạn trong lịch sử, đặc biệt
vào thời phong kiến, tư tưởng cho rằng nam và nữ có vai trò đặc thù trong xã hội khi
mà nam giới phải là người trụ cột trong gia đình, là người có tiếng nói duy nhất trong
nhà và được quyền tự do làm những công việc nghệ thuật, kỹ nghệ, quân đội, và là chủ
thể nắm quyền trong khi nữ giới thường đảm nhiệm các cơng việc nội trợ, chăm sóc
con cái và nhà cửa. Vì tư tưởng ăn sâu vào tiềm thức dẫn đến việc hình thành quan
niệm cho là phụ nữ khơng thể thực hiện các cơng việc địi hỏi trí tuệ. Trong gia đình,
12-13 Nguyễn Thị Hà. (2018). Vấn đề bất bình đẳng giới trong gia đình trên báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Phụ nữ
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015-2016, tr. 26
13
sự phân biệt giới tính tồn tại gây hạn chế vô cùng đến quyền quyết định và tự do trong
suy nghĩ của người phụ nữ, họ không được lựa chọn cơng việc mình u thích hay
được tự do nói lên suy nghĩ, ý kiến của mình mà chỉ nên nội trợ và chăm sóc nhà cửa
chồng con một phần do tư tưởng nêu trên ảnh hưởng. Trong lao động, bất bình đẳng về
thu nhập giữa nam và nữ cũng xảy ra ở mọi ngành nghề dù trong trường hợp sự chênh
lệch trình độ, kinh nghiệm giữa đơi bên khơng nhiều. Sự phân biệt giới tính đã làm
mất đi sự bình đẳng nên có trong cơng việc, gia đình rộng hơn là trong tồn xã hội,
gián tiếp hình thành nên sự đàn áp dành cho một phái mà ở đây phần lớn là nữ giới.
Bên cạnh sự phân biệt giới tính, định kiến giới là một trong những yếu tố có tầm
ảnh hưởng lớn nhất đối với bình đẳng giới. Hiểu một cách chính xác, sự phân biệt giới
tính được sinh ra chính bởi đính kiến giới. Vậy định kiến giới là gì?
Đó là những nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị
trí, vai trò và năng lực của nam và nữ, là suy nghĩ của mọi người về những gì mà nữ
giới và nam giới có khả năng làm và loại cơng việc mà họ có thể làm và nên làm; là
tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là
thuộc tính của nam giới hay nữ giới. Những định kiến như công việc của phụ nữ là bếp
núc, nam giới phải đi làm và là trụ cột của gia đình, v.v… đã cắm sâu gốc rễ vào suy
nghĩ của con người không chỉ vào thời xã hội phong kiến mà còn ở xã hội ngày nay.
Từ ngày xưa, người ta đã có quan niệm rằng nữ giới thì phải có đủ “cơng, dung, ngơn,
hạnh”, biết thêu thùa, may vá, giỏi việc nhà thì mới chính là một hình mẫu phụ nữ lý
tưởng, nam giới thì phải “tam cương, ngũ thường”, có như vậy thì sẽ được người khác
tơn trọng, là đáng “kiếp người”. Họ tạo ra những khuôn mẫu, định kiến áp đặt hai giới
phải tuân theo và nếu làm trái lại thì sẽ bị coi là thiếu chuẩn mực. Tiếp đó, tư tưởng
“trọng nam, kinh nữ” vẫn tồn tại ở đâu đó dù cho quyền và vai trò của người phụ nữ
trong xã hội ngày nay đang dần được khẳng định. Thậm chí, vì những đinh kiến giới
nằm sâu trong tư tưởng mà đã có rất nhiều những trường hợp gia đình bắt người phụ
nữ phải phá thai khi giới tính thai nhi không như ý muốn, hay dù nhà đã đông con
nhưng vẫn muốn sinh tiếp vì tư tưởng phải có “con trai nối dõi”, gây ảnh hưởng không
chỉ đến sức khỏe thể chất, tinh thần của người mẹ mà còn vơ tình tạo ra một áp lực vơ
hình đè nặng lên vai của họ. Hơn nữa, vì sự tồn tại của những định kiến này, tình trạng
mất cân bằng giới tính trong dân số trở nên ngày một trầm trọng khi mà số bé trai hoặc
bé gái ra đời nhiều hơn so với giới tính cịn lai, tiếp nữa là khiến kế hoạch hóa gia đình
càng thêm khó thực hiện. Nói về định kiến giới, trong phạm vi gia đình, khi người phụ
nữ được ra ngồi xã hội làm việc thì người ta lại kì vọng họ làm tốt phần cơng việc đó,
đồng thời phải gánh vác tốt luôn cả trách nhiệm chăm lo cho người thân và đảm đương
công việc nội trợ ở nhà. Trong khi đó người nam giới chỉ cần làm cơng việc của mình
là đã đủ. Với mong muốn có thể quản lí tốt cả cơng việc lẫn gia đình, bắt buộc người
phụ nữ phải ra sức học tập, cố gắng rất nhiều hoặc phải đưa ra lựa chọn giữa sự nghiệp
và gia đình. Vậy rõ ràng chính định kiến giới đã làm mất đi cơ hội khẳng định vị trí
của người phụ nữ, đồng thời đẩy sự bất bình đẳng giới lên cao trào.
Ngoài hai yếu tố được đề cập ở trên, thì bạo lực gia đình cũng gây ảnh hưởng đến
vấn đề bình đẳng giới. Trong đó, bao gồm bạo lực thể chất, bạo lực tình dục, bạo lực
tinh thần và bạo lực kinh tế. Bắt nguồn từ những định kiến giới và phân biệt giới tính ở
trên đã đề cập, mầm móng bạo lực phát sinh trong gia đình và nạn nhân của bạo lực
gia đình thường là phụ nữ và trẻ con. Tệ hơn nữa, tình trạng bạo lực hơn nhân, bạo lực
gia đình ln là vấn đề nan giải từ xưa đến nay và trải dài khơng chỉ có ở nơng thơn
mà kể cả ở thành thị cũng xảy ra, gián tiếp nói rằng tình trạng bất bình đẳng giới vẫn
đã và đang diễn ra mỗi ngày và ở khắp mọi nơi. Chính sự bất bình đẳng giới mà nhóm
tác giả đề cập ở những đoạn trên, đã dẫn đến đa số tình trạng những người vợ ít tiếng
nói trong gia đình, cuộc sống phụ thuộc vào người chồng và bị người chồng cấm cản
giao lưu xã hội, kiểm soát hành động cũng như bị kiểm soát về kinh tế, họ bị mất đi tự
do cũng như quyền bình đẳng, sự tơn trọng trong hơn nhân, gia đình vốn phải được
nhận. Hành vi bạo lực gia đình đang ngày càng phổ biến, gây nhức nhối cho xã hội, và
ảnh hưởng xấu đến tuổi thơ, tâm lí con trẻ khi phải lớn lên trong một gia đình không
êm ấm, và luôn sống trong nỗi lo sợ trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Ngồi ra, yếu tố giáo dục, địa lí, kinh tế cũng có ảnh hưởng khơng ít đến vấn đề
bình đẳng giới. Con người được tiếp thu một nền giáo dục tốt, hiện đại, được tiếp cận
với tri thức, tiếp cận pháp luật thì sẽ ln có sự hiểu biết và cách nhìn nhận thế giới
quan tốt hơn. Họ nhận thức được nhiều về giới tính cũng như tuần thủ nghiêm chỉnh
về mặt pháp luật, góp phần làm giảm bớt vấn đề mất bình đẳng giữa các giới. Ở thành
phố - thành thị, vì thường chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc Cách mạng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nên được giao lưu với những suy nghĩ tân tiến, cuộc sống hiện đại
góp phần tạo nên một mơi trường đảm bảo cung cấp tri thức, tiến bộ cho mọi người và
vì thế, bình đẳng giới ở thành thị được cải thiện tốt hơn rất nhiều so với ở nông thôn –
vốn là những nơi cịn hạn chế trong việc tiếp cận thơng tin đại chúng cũng như còn tồn
tại những quan niệm phong kiến. Tiếp đó, kinh tế cũng ảnh hưởng đến bình đẳng giới.
Ở nhiều hộ gia đình khó khăn, điều kiện học tập còn hạn chế nên thiếu hụt kiến thức,
dễ tiếp thu những tư tưởng lạc hậu và định kiến về giới dẫn đến việc phát sinh bất bình
đẳng giới trong gia đình, thêm vào đó là áp lực cuộc sống đè nặng trên vai khiến họ dễ
sa vào các hành vi sai trái với pháp luật.
Nói tóm lại, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới. Tuy nhiên,
nhóm tác giả đã chọn lọc và quyết định giới thiệu những yếu tố mà nhóm tác giả cho
rằng là chính yếu nhất. Đằng sau sự ra đời của bình đẳng giới chính là hàng ngàn
phong trào phụ nữ, phong trào đầu tranh cho bình đẳng giới tính và những yếu tố gây
ảnh hưởng đến nó cũng chính là những ngun nhân có những cuộc đấu tranh này và
những cuộc đấu tranh tiếp tới nữa cho đến khi sự phân biệt giới tính bị xóa sổ hồn
tồn.
2.2. Thực trạng xây dựng, phát triển bình đẳng giới trong gia đình ở thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay
Thực trạng bình đẳng giới hiện nay trong gia đình của Việt Nam nói chung và
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
Mặc dù tình hình kinh tế của địa phương đang có xu hướng phát triển, nhưng về
mặt xã hội một số nơi vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo nên việc
thực hiện bình đẳng giới vẫn cịn nhiều thách thức, điển hình là tư tưởng mang tính
định kiến về giới cịn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, đặc biệt tại một số hộ gia
đình vấn đề “gia trưởng”, “trọng nam, khinh nữ” vẫn cịn xảy ra.
Thứ nhất: về vấn đề duy trì nịi giống. Áp lực sinh con trai nối dõi trong gia đình
là một vấn đề khơng mới, nó tồn tại trong xã hội Việt Nam từ rất lâu. Ngày nay, mặc
dù đã được tiếp cận với những tư tưởng hiện đại về bình đẳng giới nhưng bên trong
mỗi mãi ấm vẫn ln tồn tại một đợt sóng ngầm đến từ bố mẹ chồng, từ người chồng
của mình. Áp lực ấy tác động đến cuộc sống của người phụ nữ.
Thứ hai: về sự phân công lao động trong gia đình giữa người vợ và người chồng.
Hiện nay trong gia đình, đa số người phụ nữ phải làm việc nhiều hơn nam giới. Điều
này chúng ta có thể thấy rất rõ khi quan sát một gia đình ở nơng thơn, mọi công viêc
nhà từ cơm nước, áo quần, con cái đều một tay người phụ nữ. Tuy nhiên, cũng có một
vài gia đình cịn mang nặng tư tưởng “gia trưởng” áp đặt rất nhiều thứ trong gia đình,
bắt buộc phải nghe theo, khơng một ai có quyền thể hiện ý kiến của mình về những
việc làm mà trong xã hội hiện đại này khơng cịn cần đến nữa.
Thứ ba: vấn đề đóng góp kinh tế trong gia đình. Trong gia đình vẫn có quan niệm
người đàn ơng là trụ cột kinh tế. Vì vậy, nhiều trường hợp, người vợ ở nhà nội trợ bị
coi là ăn bám, khơng có tiếng nói trong gia đình. Nhưng ngược lại, cũng có nhiều
trường hợp chính người phụ nữ phải tự bươn chải, lo toan cuộc sống gia đình. Vấn đề
kinh tế cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình.
Thứ tư: vấn đề duy trì hạnh phúc, chống bạo hành trong gia đình. Bởi ngày nay
đa số các cặp vợ chồng trẻ sống riêng, tự lập. Chính mơi trường tự lập, tạo cho sự
thoải mái nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho người phụ nữ: vấn đề làm thế nào để
duy trì hạnh phúc, vấn đề bạo lực gia đình. Bởi, thực tế cho thấy, hiện nay, gia đình trẻ
có chiều hướng ly hơn rất cao. Và một trong những lí do dẫn đến li hơn chiếm khả
năng cao nhất là bạo lực gia đình.
Việc yêu cầu quyền “bình đẳng tuyệt đối” là điều khơng thể bởi tính đặc thù
riêng của hai giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nỗ lực kéo dần khoảng cách giữa nam
và nữ, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến quyền cá nhân. Bản thân người phụ nữ
luôn gặp phải những rào cản trực tiếp từ nhiều mặt, ảnh hưởng tới quá trình cơng tác,
sinh sống của mỗi cá nhân. Ví dự như rào cản về mặt thể chế với sự khác biệt chỉ rõ
trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo quy định trong Bộ luật Lao động. Mặc dù
Quốc hội đã thông qua Luật Lao động sửa đổi, tăng tuổi nghỉ hưu của nam lên 62 và
nữ là 60, tuy nhiên, xét về mặt thể trạng và điều kiện cá nhân, phụ nữ vẫn có thời gian
làm việc ngắn hơn, cũng như sẽ có ít thời gian hơn để thăng tiến trong công việc so
với các đồng nghiệp là nam giới. Với thiên chức làm mẹ, người phụ nữ cũng gặp nhiều
vấn đề hơn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như những khó khăn về quỹ thời
gian và sức khỏe, khó khăn trong việc phấn đấu để đạt được các mục tiêu cao trong
công việc và hạnh phúc gia đình…
Tại nhiều gia đình Việt Nam từ xưa đến nay luôn quan niệm “đàn ông xây nhà,
đàn bà xây tổ ấm” – đàn ơng chính là trụ cột gia đình, cịn phụ nữ giữ trọng trách sinh
con, đẻ cái, chăm sóc việc nội trợ, lo liệu cho gia đình... Chính vì suy nghĩ ấy mà
nhiều người phụ nữ suy nghĩ mình cần làm trịn vai trị của người vợ, người mẹ trong
gia đình, hy sinh mọi thứ để người chồng có thể phát triển và xây dựng sự nghiệp.
Điều ấy tạo nên những “rào cản” vơ hình ngăn cách phụ nữ được bình đẳng, được tự
tin khẳng định bản thân và phát triển tài năng của chính mình.
Nhìn thẳng vào thực tiễn, tính đến tháng 6-2019, tình hình thực hiện các mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới chỉ có 8 chỉ tiêu thống kê đã tiệm cận đạt, đạt và vượt so
với yêu cầu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
Ngay trong việc thực hiện quyền của phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị
ở cấp địa phương cịn có nhiều điểm hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ
2015-2020 ở cấp xã chỉ đạt 19,69%; cấp huyện chỉ đạt 14,3%; cấp tỉnh chỉ đạt 13,3%.
Nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV đạt 131 người (tỷ lệ 27,01%) nhưng vẫn còn cách khá
xa so với mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã
đặt ra. Chỉ có 13,7% nữ đại biểu tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ
quan của Quốc hội và chủ yếu tập trung vào các cơ quan văn hóa - xã hội, thiếu vắng
phụ nữ trong các cơ quan Quốc hội về kinh tế, đối ngoại, tài chính, pháp luật... Tỷ lệ
phụ nữ tham gia đại biểu HĐND cấp xã đạt 26,59%; cấp huyện đạt 27,85%; cấp tỉnh
đạt 26,54%; nhiều tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 5%, trong
đó phần lớn là các tỉnh, thành phố phía Bắc. Chưa tính đến việc, tỷ lệ phụ nữ dân tộc
thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp cịn ít, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc
thiểu số cịn cao.
Bên cạnh đó, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, sự bất bình đẳng giới thể hiện rõ nét
ở thị trường lao động và trong thu nhập. Cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu
nhập cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam. Nhiều doanh nghiệp
tỏ ra e ngại khi tiếp nhận một lao động nữ trẻ vì họ sẽ bị vướng thời gian 6 tháng nghỉ
thai sản.
Theo thống kê, hiện nay nam giới chiếm ưu thế trong kiểm soát đất đai và các tài
sản giá trị cao. Hầu hết các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp mang tên chủ
hộ là nam giới. Hay riêng về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể chế hóa
quy định của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban hành. Việc triển
khai quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật và đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt kết quả chưa cao.
Với những rào cản và thách thức trên, Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực cố gắng tăng
cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định
kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới,
đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như giáo dục, y
tế, việc làm.
Song song đó, các chỉ tiêu về bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh khá ổn
định. Do đây là thành phố lớn có sự phát triển, tiến bộ hàng đầu nên về mặt tư tưởng
đã được thay đổi, dẫn tới bình đẳng giới trong gia đình ở đây được thực hiện khá ổn.
Nhưng vẫn còn xảy ra khơng ít tình trạng bất bình đẳng giới, vì đây là nơi hội tụ rất
nhiều dân cư từ khắp nơi trên đất nước.
Hiện thực bình đẳng giới ở thành phố Hồ Chí Minh từ 2015-2020
Cơng tác BĐG thực hiện ở 8 lĩnh vực nhưng hiện các nghiên cứu giới chưa được
sử dụng nhiều vào lập chính sách; định kiến giới cịn phân biệt nam – nữ và phân hóa
kinh tế - xã hội ở thành phố, nông thôn trong khi thành phố Hồ Chí Minh là đơ thị lớn,
đơng dân nhập cư.
Bảng 2.2.1: Dân số Việt Nam theo giới tính từ 2015-2020 (nghìn người)
Sự chênh lệch giữa dân số nam và dân số nữ giảm dần qua các năm cho thấy
được vấn đề bất bình đẳng giới ngày càng được giảm thiểu.
Tuy có sự cải thiện tốt về mặt giới tính nhưng thành phố Hồ Chí Minh lại có tỉ lệ
bạo lực gia đình rất cao theo thống kê từ giữa 2009 đến tháng 6 năm 2018, tồn thành
phố có 1.877 vụ bạo lực gia đình. Điều đáng chú ý là hơn 1.400 số vụ tập trung tại khu
vực nội thành. Trong số các loại hình bạo lực gia đình thì bạo lực thân thể chiếm tới
61,4% (1.152 vụ), Tuy nhiên, không phải tất cả hành vi bạo lực của người chồng đều
là bạo lực về thể chất mà có những lúc, họ dùng tới nhiều cách khác để gây ra những
tổn thương về tâm lý cho người vợ: mắng mỏ, chửi bới, xúc phạm danh dự…; hoặc có
những hành vi cưỡng bức về tình dục, kiểm sốt về kinh tế… bạo lực tinh thần chiếm
30,8% (578 vụ), mặc dù bình đẳng giới được cải thiện nhưng bạo lực gia đình lại xảy
ra với người phụ nữ và trẻ em. Những vụ việc này không được giải quyết tức thời mà
cho đến lúc khơng thể chịu được nữa thì mới nhờ sự can thiệp của chính quyền địa
phương. Lúc này đây chính người phụ nữ, những đứa con nhỏ của họ đã chịu đủ
những cú sốc về thể chất lẫn tinh thần khó có thể lành lại đươc.
Tuy nhiên bất bình đẳng giới ở thành phố còn thể hiện ở nhiều mặt: