Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

giáo án bài giảng NGUỒN gốc, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.86 KB, 25 trang )

A. KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
1. Tên bài giảng: NGUỒN GỐC, Q TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2. Thời gian giảng: 5tiết
3. Đối tượng người học: Sinh viên trường Học viện Hành chính Quốc gia
4. Mục tiêu:
a. Về kiến thức: Cung cấp cho người học những hiểu biết về:
+ Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Các nguồn gốc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Các giai đoạn chủ yếu trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh.
b. Về kỹ năng: học tập phương pháp và phong cách làm việc độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Người. Từ đó vận dụng vào q trình học tập cũng như trong
cuộc sống.
c. Về thái độ:
- Sinh viên phải có thái độ nghiêm túc, tích cực trong học tập.
- Chuẩn bị bài theo sự hướng dẫn của giảng viên, tìm hiểu nội dung bài
học trước khi đến lớp để có sự chủ động trong q trình nghe giảng và đóng góp
ý kiến xây dựng bài.
5. Kế hoạch chi tiết:
Bước
lên lớp
Bước 1

Nội dung
Ổn định lớp

Phương pháp

Phương tiện


Thời gian

Thuyết trình

Micro

3’

Micro

5’

Bước 2
Bước 3

Kiểm tra bài cũ
Hỏi đáp
II.Quá trình hình thành
Thuyết
(Giảng bài và phát triển tư tưởng
phát vấn
mới)
Hồ Chí Minh
1. Giai đoạn từ 1890 Thuyết
– 1911: Hình thành tư phát vấn
tưởng u nước và chí

1

trình,


Micro

trình, Micro

75’


hướng cách mạng.
2. Giai đoạn từ 1911
– 1920: Tìm thấy con
đường cứu nước, giải
phóng dân tộc.
3. Giai đoạn từ 1921
– 1930: Hình thành cơ

Thuyết

trình,

phát vấn

Micro

75’

Micro

70’


bản tư tưởng về con
đường cách mạng Việt
Nam.
4.Giai đoạn từ năm
1930- 1969
4.1. Giai đoạn từ năm
1930 – 1941

Thuyết

trình,

phát vấn

4.2. Giai đoạn từ năm
1941- 1969

…………….
Bước 4
Bước 5

Chốt kiến thức

Thuyết

trình,

phát vấn, hỏi đáp
Hướng dẫn câu hỏi, bài Thuyết trình, hỏi
tập, nghiên cứu tài liệu


đáp

2

…………...

…………
……

Micro

3’

Micro

7’


B. TÀI LIỆU PHỤC VỤ SOẠN GIẢNG
1. Tài liệu bắt buộc:
1.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
1.2. Hội đồng biên soạn giáo trình trung ương (2013), Giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
1.3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh,
PGS.TS Nguyễn Quốc Bảo – TS Dỗn Thị Chín (2013), Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2. Tài liệu tham khảo:
2.1. GS. Song Thành (2009), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý

luận chính trị, Hà Nội.
2.2. GS. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2.3. Hồ Chí Minh tồn tập, 15 tập, Nxb. Chính trị quốc gia (2009), Hà
Nội.
2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia (1991), Hà Nội.
2.5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia (1996), Hà Nội.
2.6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia (2001), Hà Nội.
2.7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2011).
2.8. Các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các học trò
xuất sắc của Hồ Chí Minh về tư tưởng và cuộc đời của Người như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…
2.9. Hồi ký, câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

3


C. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
II.QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
1.Giai đoạn từ 1890 – 1911: Hình thành tư tưởng u nước và chí hướng
cách mạng.
- Thời kì Hồ chí Minh đã được tiếp thu truyền thống văn hố dân tộc,
hình thành và phát triển nhân cách.
Tuổi thơ ở làng Trù quê ngoại, ở làng Sen quê nội, Người đã tiếp thu
truyền thống hiếu học của gia đình, cần cù lao động, yêu nước, thương dân mà

Người trực tiếp nhận thức được từ người cha và thầy giáo Vương Thúc Qúy.
Đó là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần đoàn
kết dân tộc, tinh thần nhân ái, tinh thần lạc quan yêu đời…. Đặc biệt là tinh thần
yêu nước của dân tộc. Chính những truyền thống đó đã tác động và một phần
nào đó hình thành nên nhân cách Hồ Chí Minh. Và đặc biệt là Người đã hình
thành trong mình chủ nghĩa yêu nước. Và nó đã bám sâu vào trong con người
của Hồ Chí Minh.Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành
nên ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước,
nhân ái, thương người, có hồi bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí
độc lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư chất thơng minh, linh khiếu chính trị
sắc sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân.
-Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất
quan trọng về văn hố Đơng - Tây và lịng u nước nhiệt thành với chí hướng
rõ rệt: trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước
lớp trước. Người tiếp thu những nét văn hóa phương Đơng và bước đầu tiếp xúc
với văn hóa phương Tây, hình thành và phát triển trí tuệ.
Tháng 5/1905, Người được cụ Nguyễn Sinh Sắc cho theo học tiếng Pháp
ở Vinh. Cậu bé Nguyễn Sinh Cung được tiếp xúc với khẩu hiệu “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” và cậu đã muốn tìm hiểu xem những gì ẩn sau dịng chữ ấy…
“Khi tơi ở độ tuổi 13, lần đầu tiên tơi được nghe 3 chữ Tự do- bình đẳng - bác ái.
Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp nói như
4


vậy. Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp muốn tìm xem
những gì ẩn sau những chữ ấy”.
Năm 1906, người theo cha vào Huế và học ở trường tiểu học Pháp Việt
Đông Ba. Qua thầy Lê Văn Miến, Người được tiếp xúc với các sách báo tiến bộ
từ phương Tây và hình thành ý thức muốn sang phương Tây tìm hiểu, học hành.
Tháng 8/1910, Người vào Phan Thiết, làm trợ giáo tại trường Dục Thanh.

Qua các sách đọc tại nhà cụ Nguyễn Thông - một nho sĩ yêu nước, Người được
tiếp xúc với Tân thư do Trung Quốc dịch và trực tiếp tìm hiểu tư tưởng, cuộc đời
của các nhà khai sáng Pháp thế kỉ XVIII như Rútxô, Môngtetxkiơ, Vôn te những người khởi xướng thuyết tự do, bình đẳng, bác ái.
-Người chứng kiến nỗi cực khổ của nhân dân, tiếp thu kinh nghiệm đấu
tranh của dân tộc và hình thành tư tưởng cứu dân, cứu nước.
Người đã được chứng kiến sự tàn bạo của thực dân Pháp, sự hèn mạc của
triều đình Nguyễn.
Pháp sau khi chấm dứt cuộc xâm lược Việt Nam cũng như là tồn cõi
Đơng Dương thì đã tiến hành khai thác thuộc địa. Chính sách khai thác của Pháp
hết sức tàn bạo, Pháp khai thác tài nguyên thiên nhiên; bóc lột sức lao động của
nhân dân ta; ngoài ra chúng cịn đưa ra những thứ thuế vơ lý như thuế thân, thuế
muối…; chúng cướp ruộng đất của nhân dân ta khiến nhân dân ta mất tư liệu sản
xuất và trở thành những người vơ sản.
Chính bởi chính sách bóc lột của thực dân Pháp đã khiến cho đời sống
nhân dân ngày càng trở nên khổ cực. Cuộc sống của người dân Việt Nam lúc
này được ví như sống trong đêm trường nơ lệ.
Chính bởi chính sách khai thác của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn
giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam ngày một sâu sắc.
+ Tại Huế, Người đã tham gia phong trào chống thuế của 6 tỉnh trung kì.
Người đã thấy được sự tàn bạo của Đế quốc Pháp.
+ Người được chứng kiến những phong trào đấu tranh yêu nước và
những thất bại của các phong trào khác như phong trào Đông Du của Phan Bội
Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào của cụ Hoàng Hoa
5


Thám…. Các phong trào này có cùng một kết quả đó là đều bị thất bại, chính
điều này đã thơi thúc Hồ Chí Minh tìm hiểu ngun nhân thất bại của các phong
trào yêu nước này. Người đã tìm hiểu rõ được nguyên nhân thất bại của các
phong trào yêu nước. Để từ đó Người rút ra kết luận: “Phan Bội Châu chủ

trương dựa vào Nhật để chống Pháp chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo
cửa sau”, cịn Phan Chu Trinh chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng qua chỉ là
việc xin giặc rủ lòng thương...”. Từ đó Người có nhận thức mới: một mặt khâm
phục lịng yêu nước của các vị tiền bối như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
nhưng mặt khác lại không tán thành đường lối của các ông. Người không sang
phương Đông mà sẽ tìm đường sang phương Tây.
- Quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Ngày 3/6/1911, một thủ thủy của tàu Amiran Latusơ Tơrêvin dẫn Nguyễn
Tất Thành với cái tên Văn Ba lên tàu gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và
được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Đây là chiếc tàu của hang Sácgiơ Rêuyni
đậu gần cột cở Thử Ngữ.
Ngày 5/6/1911, tàu rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây, mang theo khát
vọng cứu nước lớn lao của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Một bước ngoặt
mới mở ra trong cuộc đời anh.
Với lòng yêu nước thiết tha và những kinh nghiệm rút ra được từ thực
tiễn đau thương của đất nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi,
mang trong mình một khát vọng lớn lao - khát vọng tìm đường cứu nước.
=> Như vậy, giai đoạn này Hồ Chí Minh đã hình thành nên cho mình
lịng u nước, có hồi bão cứu nước, nhân ái, thương người, nhất là những
người nghèo khổ. Trang bị cho Người những kiến thức cần thiết cho con đường
đi tìm đường cứu nước sau này. Nó đã trở thành hành trang cho Nguyễn Tất
Thành khi Người ra đi tìm con đường cứu nước. Đó là hành trang để Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước, thể hiện rõ tư duy hướng ngoại của mình.
2. Giai đoạn từ 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc.
- Đi đến các nước thuộc địa và các nước tư bản.
6


Người đã qua 3 đại dương, 4 châu lục và gần 30 nước để tìm hiểu các

cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân
tộc bị áp bức nhằm tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Ngày 6/7/1911 Người đến cảng Mác Xây (Pháp), và nhận thấy được rằng
ở Pháp cũng có những người nghèo khổ như ở nước mình, cũng có gái điếm trên
tàu. Anh đã thắc mắc “Tại sao người Pháp khơng “khai hóa” đồng bào họ trước
khi đi “khai hóa” chúng ta?”. Và qua nhiều lần tiếp xúc với những người Pháp ở
đây Người đã rút ra được một nhận xét “Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn
người Pháp ở Đơng dương”.
• Ở Mỹ: Sau một thời gian ở Pháp Nguyễn Tất Thành quyết định đi đến
các nước khác vì “muốn xem các nước”. Anh đã đi qua rất nhiều nước trên thế
giới qua các châu lục và đến cuối năm 1912 Nguyễn Tất Thành đặt chân đến
nước Mỹ. Tại Mỹ Nguyễn Tất Thành đến thăm những tòa nhà chọc trời ở thành
phố New York, và Anh còn thường đi tàu điện ngầm đến khu Hác – lem (Harlem) để tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và
kỳ thị chủng tộc của người da đen. Ngoài ra, Người còn đến thăm tượng nữ thần
tự do khác với những người khác chỉ thấy được vẻ đẹp của tượng thần tự do, mà
Người con nhìn thấy được những bất công của nước Mỹ, để rồi Người rút ra kết
luận: “Ánh sáng trên đầu tượng thần tự do tỏa sáng trên bầu trời xanh, còn dưới
chân tượng thần tự do này thì người da đen đang bị trà đạp, số phận người phụ
nữ đang bị trà đạp. Bao giờ người da đen mới được bình đẳng giữa các dân tộc,
bao giờ người phụ nữ bình đẳng với nam giới”.
Thời gian ở Mỹ không dài khoảng gần một năm nhưng Nguyễn Tất Thành
đã thấy được sự bất công trong xã hội Mỹ, để sau này trong tác phẩm “Đường
kách mệnh” Người đã rút ra nhận xét: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã
hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mạng
lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản
là chưa phải cách mệnh đến nơi”.
• Ở Anh: Sau một thời gian sống tại Mỹ Nguyễn Tất Thành đã rời Mỹ đi
Anh. Tại Anh, Người đã làm rất nhiều việc như quét tuyết, đốt lò sưởi, làm phụ
7



bếp tại khách sạn Cáclơtơn (Carlton) ngồi lí do để có tiền sống thì Nguyễn Tất
Thành làm nhiều việc như vậy là để hiểu rõ hơn cuộc sống của người dân lao
động Anh. Người thấy được nhân dân lao động Anh cũng khổ cực chẳng khác gì
nhân dân lao động ở Pháp và Mỹ, và Người càng thấy được sự tàn ác của bọn tư
bản. Đây là một trong những ngun nhân giúp Người thực hiện thành cơng việc
đồn kết quốc tế, đoàn kết giữa nhân dân lao động ở các nước chính quốc với
các cuộc đấu tranh ở các nước thuộc địa. Và trong thời gian ở Anh người đã kịp
tìm hiểu về xã hội Anh đễ rồi Người nhìn thấy rằng nước Anh cũng mang trong
mình những mâu thuẫn cơ bản giữa vô sản và tư sản như ở Mỹ, tuy khơng có
xung đột chủng tộc nhưng lại có các cuộc đấu tranh giành độc lập của các nước
thuộc địa trải dài từ châu Á, Phi, Mỹ Latinh đến châu Đại Dương. Ngoài ra
trong thời gian nay Người cũng nhân ra rằng để hiểu được một nền chính trị của
một nước thì cần phải biết được ngơn ngữ của dân tộc đó vì vậy Người đã tích
cực học tiếng anh, và về sau đi đến đâu Người cũng tích cực học tiếng nước đó.
Trở lại Pháp: Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước
Pháp, Người đến Paris trung tâm văn hóa và chính trị của châu Âu. Trở lại
Pháp Nguyễn Tất Thành tham gia vào rất nhiều các tổ chức như Đảng xã hội
Pháp, câu lạc bộ Phơbua, ngồi ra Người cịn tham gia các phong trào đấu
tranh. Sau này khi được hỏi vì sao lại tham gia vào Đảng Xã hội Pháp, Người
đã từng trả lời: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ
chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách Mạng: “Tự do, Bình
đẳng, Bác ái”.
Câu hỏi: Nêu ý nghĩa của Bản yêu sách của nhân dân An Nam?
Đến năm 1919, nhân hội nghị các nước đế quốc họp ở Vécxay có đại
biểu chính phủ các nước thắng trận: Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Nhật Bản, Bỉ,…, một
bên là những thua trận là Đức bàn về vấn đề sau thế chiến chủ yếu là vấn đề
phân chia lại thuộc địa. Nguyễn Tất Thành cùng với những người Việt Nam
yêu nước ở Pháp soạn thảo “Bản yêu sách” gồm 8 điểm gọi là “Bản yêu của
nhân dân An Nam” và kí tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị (từ đây

Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc để hoạt động), nhưng bản yêu sách bị từ
8


chối. Bản yêu sách bị từ chối có rất nhiều ý kiến cho rằng đó là một thất bại
của Nguyễn Ái Quốc, nhưng thực tế lại không phải như vậy, bản yêu sách
không được chấp nhận đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ hơn về chủ
nghĩa đế quốc, nhận thấy sự “bịp bợm” của bọn tư bản đế quốc. Qua hội nghị
Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp
bợm lớn” (6) ; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực
của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm
đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những
lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
(7) . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp vơ sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm
Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (31919). Đối với nhân dân Pháp, Bản u sách cũng có tiếng vang trên tồn nước
Pháp nhờ vậy mà nhân dân Pháp biết đến Việt Nam và thêm về Việt Nam. Đối
với những người Việt Nam trong và ngồi nước thì nó lại có tác động mạnh mẽ
đến họ nó giúp cho họ được thức tỉnh. Từ đây những người Việt Nam yêu nước
ở khắp nơi tìm đến Anh để được Anh chỉ bảo, giúp đỡ. Và đối với bọn thực dân
Pháp thì lại trở nên lo sợ và căm tức, những nhà cầm quyền ở Paris phải chú ý
đến Anh theo sát những bước chân của Anh, Pôn Ácnu (Paul Arnoux) tên mật
thám Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi Nguyễn Ái Quốc đã từng nhận xét
“Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người đặt

cây chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”. Có thể
nói “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” được xem như một quả bom nổ
chậm được đặt ngay giữa thành phố Paris tráng lệ.
9


Sau đó, Người đã tích cực hoạt động để hồn thiện mình và tiếp tục việc
tìm con đường cứu nước phù hợp với Việt Nam. Và nhận thấy yêu cầu của thực
tiễn đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc thấy rằng cần phải học viết báo để tố cáo tội ác
của Pháp. Chính vậy Người đã tham gia vào hoạt động báo chí.
Người tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và thâm nhập vào
phong trào công nhân.
- Bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định con đường cứu nước.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản Sơ thảo Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité, số ra ngày 16
và 17/7/1920.
Trong Luận cương, Lênin nhấn mạnh chính sách của Quốc tế cộng sản
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải làm cho vô sản quần chúng lao
động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc
đấu tranh và chiến thắng của chính quyền Xơ Viết đối với chủ nghĩa đế quốc
thế giới, các đảng cộng sản phải trực tiếp ủng hộ phong trào cách mạng của các
dân tộc thuộc địa…
Đến đây, Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo
quỹ đạo của con đường cách mạng vô sản. Sau này Người vẫn khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Đây là bước nhảy vọt lớn trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, một sự chuyển biến về chất trong tư tưởng của
Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin từ giác ngộ dân tộc
đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ 18 ở Tua (12/1920), Người đã biểu

quyết đứng về phía quốc tế III và trở thành một trong số những người đầu tiên
sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
Nhờ những nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm bôn ba tìm đường
cứu nước nên vào năm 1920, khi đọc bản Sơ thảo luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, Người đã tìm thấy ở Luận cương những lời giải đáp đầy
thuyết phục cho những câu hỏi mình đang tìm tịi. Sau này, nói về cảm tưởng khi
10


đọc Luận cương của Lênin, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất
cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
=> Trải qua 3 đại dương, 4 châu lục, từ thực tế lao động kiếm sống, học
tập, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động trên thế giới, phân
tích tình hình chiến tranh thế giới, tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã có sự thay đổi về chất:
+ Trở thành người chiến sĩ cộng sản chân chính hoạt động trên trường
quốc tế. Người đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam đó là cách mạng vơ sản.
+ Sự lựa chọn và hành động của Người phù hợp với trào lưu tiến hóa của
lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, gắn cách mạng
giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản.
3.Giai đoạn từ 1921 – 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi: Thời kì 1921 – 1930 được coi là thời kì chuẩn bị cho sự
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vậy đó là những hoạt động nào?
Đây là thời kỳ hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú của Người ở
nước Pháp (1921 – 1923), Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927),

Thái Lan (1927 – 1929). . . HCM đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận với
tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc, vận động tổ chức quần chúng đấu
tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập ĐCSVN.
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào u nước, phong trào cơng
nhân “chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã
hội và tri thức của mình. Nhờ thơng hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với
nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm
được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động
quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế
11


giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ
Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của
Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với
giải phóng giai cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng
từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vơ sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
- Tại Pháp (1921 – 1923):
Nguyễn Ái Quốc hoạt động với cương vị trưởng tiểu ban phương Đông
trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp; tham dự Đại hội I
(1921) và Đại hội II (1922) của Đảng cộng sản Pháp.
Trong các đại hội này, Người đã phê bình Đảng cộng sản Pháp chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa, kêu gọi Đảng quan tâm hơn đến vấn
đề này. Đồng thời ra Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa đồn kết
lại: “Vì hồ bình thế giới, vì tự do và sự ấm no của mọi người, những người bị
bóc lột thuộc địa mọi nịi giống, chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống
bọn áp bức”.
Năm 1921, cùng với những nhà hoạt động cách mạng các nước thuộc địa
ở Pháp, Người đã tham gia sáng lập “Hội liên hiệp thuộc địa” (7/1921 – 6/1926)

và cho xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le paria) mà Người là chủ nhiệm kiêm
chủ bút (1922).
Người viết bài đăng trên nhiều tờ báo khác của Pháp và quốc tế nhằm
khẳng định nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam, tố cáo tội ác của chủ
nghĩa thực dân, tuyên truyền cho đường lối cách mạng: như báo L’Humanité
(Nhân đạo) của Đảng cộng sản Pháp, báo Le Paria (Người cùng khổ)
- Ở Liên Xô (1923 – 1924):
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, đến tháng 10 tham dự Hội
nghị Quốc tế nơng dân và được bầu vào Đồn Chủ tịch Quốc tế nông dân.
Người là đại biểu duy nhất của nhân dân thuộc địa được mời phát biểu. Sau đó,
Người vào học tại trường Đại học phương Đơng.

12


Cuối 1923, Người gặp gỡ thanh niên Trung Quốc, tập hợp tư liệu, chủ
biên cuốn sách Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc; gặp gỡ và trả lời phỏng
vấn của nhà thơ, nhà báo người Nga Ôxip Manđenxtam, được nhận vào làm cán
bộ của Ban phương Đông.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V (7/1924)
và các Đại hội Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ…
Người tiếp tục gửi bài về cho báo “người cùng khổ” và cũng viết nhiều
bài báo đăng trên các báo khác nhau của Liên Xô và Quốc tế cộng sản.
1/1924, viếng Lênin, viết bài “Lênin và các dân tộc thuộc địa”.
Hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô đã giúp Người luận
giải một cách khoa học những vấn đề về thuộc địa, vai trò của cách mạng thuộc
địa trong mối quan hệ khăng khít với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản
với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới; nâng cao nhận thức lý
luận, phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng thuộc địa của Lênin, góp phần bổ
sung, làm phong phú kho tàng lý luận Mác – Lênin. Đồng thời có điều kiện khảo

nghiệm nhà nước Xô Viết.
- Ở Trung Quốc (1924 – 1927):
Cuối 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu – Trung Quốc. Được sự uỷ
nhiệm của Đoàn chủ tịch Quốc tế nông dân, Người tham gia phong trào nông
dân ở Trung Quốc và một số nước châu Á.
Tại Quảng Châu, Người sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội (6/1925), ra báo Thanh niên (21/6/1925) và mở lớp huấn luyện trực tiếp
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Các bài giảng của Người tại lớp này đã
được tập hợp thành cuốn “Đường Kách Mệnh” (1927). Người mở được 3 khóa
huấn luyện cho khoảng 75 người.
Người chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng trong Việt kiều yêu
nước, mở lớp huấn luyện cán bộ.
Tháng 2/1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
13


Hội nghị hợp nhất Đảng diễn ra từ 6/1 – 7/2/1930. Đặt tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt.
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Đường Kách Mệnh”
(1927) và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2/1930) đã đánh dấu sự hình thành cơ bản
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Đây là sự phát triển và
tiếp tục hoàn thiện tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc:
+ Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vơ sản.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa và đế quốc có mối
quan hệ khăng khít với nhau nhưng không lệ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một dân tộc cách mệnh.

+ Lực lượng cách mạng là liên minh công nông là gốc, đồng thời phải thu
hút, tập hợp các giai cấp xã hội khác.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Những quan điểm cách mạng trên đây của Người trong những năm 20 của
thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác phẩm, cùng các tài liệu mác xít khác,
theo những đường dây bí mật được truyền về trong nước, đến với các tầng lớp
nhân dân Việt Nam, tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy
phong trào dân tộc phát triển theo xu hướng mới của thời đại.
=>Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc
điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong
lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh
đạo cách mạng.Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
4.Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1969
4.1. Từ năm 1930- 1941 : : Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập
trường cách mạng.

14


Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh vượt qua khuynh hướng tả khuynh đang chi
phối Quốc tế Cộng sản và Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN.
Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa phương Đơng và Việt
Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả khuynh” đang ngự trị lúc bấy giờ, Quốc
tế cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra
trong Hội nghị hợp nhất Đảng (2/1930) là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất
lợi ích giai cấp đấu tranh”.
Hội nghị trung ương tháng 10/1930 (tổ chức tại Hồng Kông) của Đảng ta
theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản cũng đã ra Án nghị quyết, thủ tiêu Chính

cương, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đổi tên Đảng là Đảng
cộng sản Đông Dương.
Trong thời gian từ 6/1931 đến năm 1933, Hồ Chí Minh đã 2 lần bị thực
dân Anh bắt giữ tại Hồng Kông.
Trung tuần tháng 11/1930, sau khi tiễn các đại biểu dự hội nghị TW
(10/1930) về nước, Nguyễn Ái Quốc ở lại Hồng Kông, tiếp tục theo dõi và chỉ
đạo cao trào cách mạng ở Việt Nam đang dâng lên mạnh mẽ.
Ngày 6/6/1931, Nguyễn Ái Quốc bất ngờ bị cảnh sát Anh bắt giữ tại nhà
số 186 phố Tam Lung (Cửu Long). Trước đó, ở Singapo một cán bộ ở Uỷ ban
kiểm tra, giám sát của Quốc tế cộng sản đã bị bắt. Ở Sài Gòn cũng bắt được một
cán bộ, thấy được thư của Nguyễn Ái Quốc, vì vậy, biết Nguyễn Ái Quốc ở
Hồng Kông.
Tháng 7/1932, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do và lên đường sang châu
Âu. Nhưng mới đến Singapo lại bị bắt và trả lại Hồng Kơng. Nhưng nhờ có tinh
thần kiên định lại được Quốc tế cứu tế đỏ giúp tìm luật sư và luật sư Lơdơby hết
lịng giúp đỡ nên Người đã được xoá án, liên lạc được với Quốc tế cộng sản.
Mùa xuân 1934, Nguyễn Ái Quốc trở lại Liên Xô.
Trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới, khi
Quốc tế cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả khuynh”
trong Nghị quyết đại hội VI của mình thì những quan điểm đúng đắn của Hồ
Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết lực lượng cách mạng chống đế
15


quốc đã trình bày trong Cương lĩnh tháng 2/1930 mới được Quốc tế cộng sản
thừa nhận.
Tại Liên Xô: Nguyễn Ái Quốc vào học tại trường Quốc tế Lênin (mùa thu
năm 1934); tham dự Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (25/7 – 20/8/1935) với tư
cách là đại biểu tư vấn; học nghiên cứu sinh tại Ban sử của Viện nghiên cứu các
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế cộng sản.

Tháng 7/1935, dự Đại hội VII của Quốc tế cộng sản, là đại biểu tư vấn.
Tháng 6/1938, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế cộng sản chấp thuận cho
về nước.
Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc rời Matxcơva về phương Đông. Đến
ngày 28/1/1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở về
Tổ quốc.
Đến Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (7/1935) do chuyển biến của tình
hình thế giới nhất là nguy cơ chống phát xít chống chiến tranh u cầu phải tập
hợp đơng đảo lực lượng của tất cả các giai cấp và tầng lớp, đồng thời phải giải
quyết cụ thể ở từng nước đã khẳng định quan điểm của Người là đúng trong:
Phân hóa kẻ thù và tranh thủ đồng minh.
Thời gian ở Trung Quốc đợi cơ hội về nước, Nguyễn Ái Quốc đã từng
hoạt động trong Bát lộ quân (cuối năm 1938 – giữa năm 1939), với tên Hồ
Quang.
Thời gian tư tưởng của mình chưa được cơng nhận, Người vẫn kiên trì
bảo vệ, giữ vững quan điểm, đồng thời tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận
và tìm hiểu cơng cuộc xây dựng chế độ mới trên đất nước Liên Xơ.
Ở nước ngồi, tuy gặp nhiều khó khăn, trở ngại, vào tù ra tội nhưng
Người vẫn thường xuyên theo dõi tình hình cách mạng trong nước và có sự chỉ
đạo, định hướng kịp thời.
Điều đó đã khẳng định lập trường kiên định của mình đối với phong trào
cách mạng, lý tưởng cộng sản không một chút lung lay dao động.
Chứng minh tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam, góp phần phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
16


4.2.Từ năm 1941- 1969 : Giai đoạn tư tưởng phát triển và hồn thiện.
Câu hỏi: Hồ Chí Minh về nước khi nào? Và nơi Người đặt chân đầu tiên
là ở đâu?

- 1941 - 1945: Người trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng, tổ chức đấu
tranh giành chính quyền, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ.
Tình hình thế giới và Đông Dương: chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra
ngày 01/01/1939, lôi kéo nhiều nước tham gia trong dó có Pháp. Ở Đơng Dương
Nhật nhảy vào xâm lược (1940), Pháp và Nhật câu kết thống trị, nhân dân ta
phải chịu cảnh một cổ hai tròng.
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Người đã chỉ đạo công tác xây dựng các đoàn thể cứu quốc ở Cao
Bằng để rút kinh nghiệm; mở các lớp đào tạo cán bộ…
Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ
VIII Ban chấp hành trung ương khoá I của Đảng tại Pác Bó, Cao Bằng.
Hội nghị Trung Ương VIII đã đánh giá những chuyển biến mới của tình
hình, nhận định thời cơ mới đã xuất hiện và đề ra chủ trương chiến lược quan
trọng là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm gác khẩu hiệu cách
mạng điền địa, lập ra mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ
sở liên minh công nông… Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, lập Mặt trận Việt Minh để thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách
mạng Việt Nam.
Sau Hội nghị, dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Hồ Chí Minh,
lực lượng cách mạng và căn cứ địa được xây dựng, phát triển nhanh chóng và
khi thời cơ đến, nhân dân ta đã nhất tề nổi dậy làm nên thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám vĩ đại 1945, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tuyên ngơn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó độc
lập tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
17



chính trị cốt lõi, vốn được Hồ Chí Minh phác thảo lần đàu trong Cương lĩnh của
Đảng năm 1930, nay trở thành hiện thực cách mạng.
Như vậy trong giai đoạn 1941 – 1945, tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình
thành và phát triển ở những nội dung:
• Tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang tồn dân.
• Tư tưởng về xây dựng căn cứ địa cách mạng.
• Tư tưởng về tập hợp xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang,
đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.
• Tư tưởng về thời cơ cách mạng.
• Tư tưởng về thành lập nhà nước dân chủ nhân dân.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa là thắng lợi của Chủ nghĩa Mác - Lênin được vận
dụng, phát triển sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc
lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Sau khi chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới ra đời, nước ta đứng trước
vơ vàn khó khăn thử thách. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trên đất nước ta lúc này vừa có bọn phản động trong nước, vừa có nhiều
lực lượng quân đội nước ngoài với những âm mưu khác nhau: miền Bắc là quân
đội Tưởng Giới Thạch, miền Nam là thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh.
Bên cạnh đó là nạn đói, nạn mù chữ…
Trước tình hình đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trương, giải
pháp phù hợp để củng cố chính quyền, cải thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị lực
lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài mà ta biết là không thể tránh khỏi.
Về đối nội: củng cố chính quyền, thực hiện tổng tuyển cử trong cả nước,
phát động toàn dân tham gia chống giặc đói, giặc dốt; đưa Đảng vào hạt động bí
mật; củng cố lực lượng vũ trang nhân dân…
Người đã đề ra đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính.

18



Trong q trình thực hiện kháng chiến, Hồ Chí Minh vẫn tích cực chăm lo
xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng đạo đức cách mạng, chống
tệ quan liêu, mệnh lệnh.
Về đối ngoại: vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn bớt thù,
tranh thủ thời gian hồ hỗn để chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài.
Câu hỏi: Hãy nêu hoàn cảnh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến?
19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đây cho đến lúc kết thúc
cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, Hồ Chí Minh
là linh hồn của cuộc kháng chiến. “Hỡi đồng bào cả nước, chúng ta muốn hồ
bình chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân
Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không chúng
ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Tháng 2/1951, Đại hội II Đảng ta đã đổi tên Đảng thành Đảng Lao động
Việt Nam và hoạt động công khai trở lại. Đồng thời đề nghị Lào và Campuchia
thành lập đảng riêng ở mỗi nước cho phù hợp với yêu cầu tình hình mới.
Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của TW Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ kết thúc thắng lợi với
chiến dịch Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954), miền
Bắc nước ta được giải phóng hồn tồn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đã có
bước phát triển lớn:
• Tư tưởng ngoại giao (thêm bạn bớt thù, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù). Tư tưởng về quan hệ quốc tế với các nước Đông Dương, các nước
yêu chuộng hịa bình trên thế giới.
• Tư tưởng về chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ dự
vào sức mình là chính.
• Tư tưởng về đại đồn kết: đồn kết dân tộc và đồn kết quốc tế.
• Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

• Tư tưởng về phát triển nền văn hoá nhân văn, đạo đức. (Tác phẩm Đời
sống mới, Đạo đức cách mạng, Thường thức chính trị).

19


- 1954 – 1969: Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.
Sau hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta hồn tồn giải phóng nhưng đất
nước vẫn bị chia cắt, miền Nam vẫn nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai. Đế quốc Mỹ đã gây ra trên đất nước ta một cuộc chiến tranh xâm
lược đẫm máu nhất, quy mô lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới II.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp
tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống
nhất đất nước. Điều này chưa có trong lý luận thực tiễn của cách mạng thế giới
mà là một sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, thể hiện tư duy sáng tạo sự chin muồi của tư tưởng Hồ Chí Mính đó
là đỉnh cao của trí tuệ.
Trên một đất nước có hai chế độ chính trị khác nhau, nhưng lại dưới sự
lãnh đạo của một Đảng trong cùng một thờì gian, điều này chỉ có Hồ Chí Minh
mớí làm được và chỉ có tư tưởng của Người mới thực hiện được nhiệm vụ chiến
lược đó.
Đường lối cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo tài tình của chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ ở miền Nam và 2 cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, giành được
nhiều thành tựu trong công cuộc khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng cơ sở vật
chất cho chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị điều kiện cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội sau khi thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Hồ Chủ tịch đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta bản “Di chúc” thiêng liêng. Trong “Di chúc”, Người đã nói lên niềm tin
tất thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, tổng kết sâu sắc những bài học đấu
tranh và những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời đề ra những
phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiệm mục
tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
20


Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn này đã được bổ sung, phát triển tới
đỉnh cao và giành thắng lợi:
• Tư tưởng về chiến tranh nhân dân và xây dựng nền quốc phịng tồn
dân.
• Tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa
phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
• Tư tưởng về tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dât tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, để xây dựng được chủ nghĩa xã hội thì trước hết Người cho rằng
phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra quan điểm về thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
đã vận dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận Mác- Lênin để giải quyết vấn đề này.
Người đã đưa ra mục tiêu chung là giải phóng con người, giải phóng mọi tiềm
năng của con người, tạo điều kiện về mọi mặt cho sự phát triển tự do và toàn
diện của con người.
Bàn đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thờì kì quá độ phải dựa
vào những đặc trưng của nó. Có 3 đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, nước ta có nền sản xuất nhỏ, nơng nghiệp lạc hậu, lại vừa thốt
khỏi chiến tranh.
Thứ hai, đất nước vừa có thái bình vừa có chiến tranh, có hai chế độ chính

trị khác nhau.
Thứ ba, bối cảnh quốc tế có nhiều thuận, khó khăn ln ln đan xen tác
động.
Vì thế, mọi cái từ xác định đường lối chủ trương, chính sách, cho đến
bước đi tốc độ, nhịp điệu, phương pháp, cách thức nhiệm vụ của từng thơì kì quá
độ phải dự trên cơ sở của những đặc điểm đó.
Để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì Người u cầu phải nâng
cao đời sống của nhân dân, cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất là phải phát triển
kinh tế. Người nói: “Nhiệm vụ của chúng ta là ra sức sản xuất, nhiều, nhanh,
21


tốt, rẻ để cải thiện dần dần đời sống của nhân dân, để hoàn thành thắng lợi kế
hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, để chuẩn bị tốt cho những kế
hoạch sau”. (Hồ Chí Minh, Sđd, Tập 11, Trang 100).
Xây dựng mơ hình phát triển cơng nghiệp, cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp
hố. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ để phục vụ
nhu cầu tối thiểu của người dân.
• Tư tưởng về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, về xây
dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân, về củng cố và tăng cường sự
đồn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế…
 Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách
thắng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân xóa bỏ được mọi hình thức
áp bức bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp
cách mạng vĩ đại và phẩm chất đạo đức cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí
Minh.

22



KẾT LUẬN CHUNG
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời
đại. Trên cơ sở nắm vững đặc điểm thời đại, Hồ Chí Minh đã hoạt động không
mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đã đặt cách
mạng giải phóng thuộc địa vào phạm trù cách mạng vơ sản, Người cương quyết
bảo vệ và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn và sự tác động
mạnh mẽ của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đói với cách mạng vơ
sản.
Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi là chân lý
sáng ngời, góp phần vào sự phát triển và kiến tạo của nhân loại.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN, TÀI LIỆU PHỤC VỤ
HỌC TẬP
1. Câu hỏi ôn tập
Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát
triển trong các giai đoạn 1890 – 1911?
Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát
triển trong các giai đoạn 1911 – 1920?
Câu 3: Anh ( chị) hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát
triển trong các giai đoạn 1921 – 1930?
Câu 4. Anh (chị) hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát
triển trong các giai đoạn 1890 – 1911, 1911 – 1920, 1921 – 1930, 1941 – 1969?
Câu 5. Anh (chị) hãy phân tích giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam và thế giới?
2. Câu hỏi thảo luận
Anh ( chị) hãy chứng minh chủ nghĩa Mác – Lenin là nguồn gốc quyết
định nhất hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh?.
3. Tài liệu phục vụ học tập
3.1 Tài liệu bắt buộc:
3.1.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23


3.1.2. Hội đồng biên soạn giáo trình trung ương (2013), Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3.1.3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh,
PGS.TS Nguyễn Quốc Bảo – TS Dỗn Thị Chín (2013), Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
3.2. Tài liệu tham khảo:
3.2.1. GS. Song Thành (2009), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý
luận chính trị, Hà Nội.
3.2.2. GS. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3.2.3. Hồ Chí Minh tồn tập, 15 tập, Nxb. Chính trị quốc gia (2009), Hà
Nội.
3.2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia (1991), Hà Nội.
3.2.5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia (1996), Hà Nội.
3.2.6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia (2001), Hà Nội.
3.2.7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2011).
3.2.8. Các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các học
trò xuất sắc của Hồ Chí Minh về tư tưởng và cuộc đời của Người như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng…
3.2.9. Hồi ký, câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

24



Bài soạn được thông qua khoa ngày……..tháng…….năm…….
NGƯỜI SOẠN

XÁC NHẬN CỦA TRƯỞNG KHOA

(Ký và ghi rõ họ tên)

(Ký và ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM HIỆU

(Ký tên và đóng dấu)

25


×