Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN của CỘNG hòa CUBA từ năm 2006 đến năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CỘNG HÒA CUBA
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60.22.03.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGƯT. NGUYỄN CÔNG KHANH

NGHỆ AN - 2017


i
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện luận văn thạc sĩ này, ngoài nỗ lực của bản thân, đề tài “ Sự
phát triển của Cộng hoà Cuba từ năm 2006 đến năm 2016” được hồn thành
nhờ sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của PGS.TS.NGƯT Nguyễn Công Khanh,
khoa Lịch sử Trường Đại học Vinh.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Phòng Đào
tạo Sau đại học, Bộ môn Lịch sử thế giới Trường Đại học Vinh, Viện Nghiên
cứu Bắc Mỹ, Thông tấn xã Việt Nam, Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại
học Vinh, Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Thư
viện Trường Đại học Quốc gia Hà Nội… đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong
quá trình thực hiện đề tài này.


Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới trường Ban giám hiệu trường
THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp, tổ Lịch Sử trường THPT Chuyên Võ Nguyên
Giáp, những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên, tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn tư liệu và khả năng nghiên cứu của bản
thân cho nên luận văn này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết cần được
góp ý, sửa chữa.
Kính mong được sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ và bạn đọc để luận
văn này được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Vinh, tháng 7 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Hồng Vân


ii
MỤC LỤC
105


iii
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT


1
Viết tắt

Nghĩa


ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BCH

Ban Chấp hành

CHXHCN

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CTQG

Chính trị quốc gia

ĐCS

Đảng Cộng sản

ĐHSP

Đại học sư phạm

FDI


Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng thu nhập quốc nội

EU

Liên minh châu Âu

KHXH

Khoa học xã hội

NGO

Tổ chức Phi chính phủ

NXB

Nhà xuất bản

ODA

Viện trợ Phát triển chính thức

TTX VN

Thơng tấn xã Việt Nam


TW

Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XNK

Xuất nhập khẩu

UNDP

Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc

USD

Đồng Đô la Mỹ

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xơ
và Đơng Âu sụp đổ. Các nước XHCN cịn lại lâm vào khủng hoảng và đứng trước
thử thách lớn lao khi hoạt động chống phá của các thế lực thù địch càng tăng và


A.


2
càng thâm độc. Một câu hỏi lớn: “làm thế nào để tồn tại và phát triển?”. Cũng
như Việt Nam, Trung Quốc..., Cuba đã lựa chọn con đường cải cách để giữ vững
và phát triển thành quả của cuộc cách mạng, bảo vệ vững chắc chế độ XHCN. Xu
thế chung là cải cách, nhưng khác với Việt Nam và Trung Quốc, cơng cuộc cải
cách ở Cộng hịa Cuba chịu tác động sâu sắc bởi chính sách bao vây, cấm vận
kinh tế và âm mưu lật đổ của Mỹ. Chính quyền Washington vẫn chưa từ bỏ hoạt
động chống phá La Habana chừng nào CNXH còn hiện diện ở đất nước này. Đặc
biệt, khi tình trạng sức khỏe của lãnh tụ Fidel Castro trở nên kém đi, buộc Raul
Castro phải tạm quyền lãnh đạo đất nước từ ngày 31/7/2006.
Vào ngày 24/2/2008, ở Cuba đã diễn ra sự kiện chuyển giao quyền lực
quan trọng. Sau một năm rưỡi tạm quyền, Raul Castro đã trở thành người đứng
đầu Nhà nước Cộng hòa Cuba. Sau gần 40 năm chèo lái con thuyền cách mạng
Cuba, chính trị gia lão luyện - Fidel Castro đã chuyển giao quyền lãnh đạo lại
cho em trai Raul Castro, người được đánh giá là “nhà cải cách mềm mỏng”.
Vấn đề được người dân Cuba cũng như cả thế giới quan tâm là Cuba hậu Fidel
sẽ ra sao?. Tân Chủ tịch Cuba liệu sẽ có những bước đi mạnh bạo hơn để đưa
quốc đảo Cuba ra khỏi khó khăn về đối nội và đối ngoại, nhất là trong quan hệ
với Mỹ và phương Tây, để tiếp tục đi theo con đường đã chọn hay không?.
Điều mà các thế lực thù địch, nhất là giới lãnh đạo nước Mỹ muốn làm nhất
với Cuba thì họ làm được khơng, Cuba có mất ổn định khơng. Thực tế, Cuba dưới
thời Raul có đứng vững, sự hài hịa đầy tính nhân văn tại Cuba khiến khơng ít
nước phải học tập có cịn khơng?. Điều đó đáng để quan tâm và nghiên cứu. Với
đường lối đúng đắn mà Fidel đã chọn, Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba dưới sự
lãnh đạo của tân Chủ tịch Raul đạt được những thành tựu và còn những thách
thức nào cần giải quyết để đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng?.
1.2. Cuba và Việt Nam có mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, ngày càng

được củng cố và phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, hai bên càng cần tăng
cường trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Trong thời gian đứng đầu đất


3
nước, Raul đã đến Việt Nam. Từ thực tế công cuộc cải cách chính trị, kinh tế xã hội và nhiều lĩnh vực khác bước đầu có kết quả ở Cuba, có thể rút ra một số
kinh nghiệm quý giá cho bản thân học mà còn cho sự nghiệp đổi mới toàn diện ở
Việt Nam hiện nay.
1.3. Ở Việt Nam, cũng như trên thế giới cho đến nay đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về Cuba, tuy nhiên cũng chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu về Cuba giai đoạn 2006 – 2016 một cách có hệ thống. Do vậy, nghiên cứu
về Cuba trong giai đoạn này sẽ góp phần bổ sung cho sự thiếu hụt nói trên.
Về phía bản thân, nghiên cứu này sẽ cung cấp tài liệu phục vụ cho công
tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi tại trường THPT Chuyên Võ Nguyên
Giáp - tỉnh Quảng Bình và những ai quan tâm có thể tham khảo.
Tìm hiểu Cộng hoà Cuba giai đoạn từ 2006 đến 2016 là một vấn đề vừa
có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Do đó, chúng tơi chọn vấn
đề: “Sự phát triển của Cộng hồ Cuba từ năm 2006 đến năm 2016” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về Cộng hoà Cuba từ năm 2006 đến năm 2016 đã trở thành đề
tài thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều học giả trên thế giới và Việt Nam.
Trong khuôn khổ những tài liệu được tiếp cận, trên cơ sở khảo cứu tình hình
nghiên cứu trong và ngồi nước, có thể điểm ra những cơng trình có liên quan
đến đề tài.
Trước hết, đã có một số luận án, luận văn nghiên cứu về các khía cạnh có
liên quan đến luận văn của tác giả.
Các luận án Tiến sĩ “Quá trình hình thành và phát triển phong trào ủng
hộ Việt Nam ở Cuba - giai đoạn 1959 – 1975”.... (Nguyễn Ngọc Mão - Viện Sử
học Việt Nam, 1995) và “Quan hệ Việt Nam - Cuba 1959 - 2005” (Nguyễn

Trinh Nghiệu, Đại học KH XH&NV TP. Hồ Chí Minh) và Luận văn Thạc sĩ
“Quan hệ Việt Nam - Cuba từ 1975 đến 2007” (Nguyễn Văn Ngọ, Đại học


4
Vinh, 2008)… đều có đề cập đến chính sách đối ngoại của Cộng hòa Cuba và
nhất là quan hệ Việt Nam - Cuba đến năm 2007.
Luận văn Thạc sĩ “Cải cách kinh tế - xã hội ở Cộng hoà Cuba từ 1993
đến nay” (Nguyễn Thanh Tuấn, Đại học Vinh, 2008) và Luận văn “Sự phát triển
kinh tế - xã hội Cộng hòa Cuba từ khi Raul Castro lên nắm quyền từ năm 2008
đến nay” (Cao Thị Phương Thảo, ĐHSP Hà Nội, 2014) có đề cập đến các nội
dung liên quan đến kinh tế và xã hội Cuba đến năm 2013.
Tiếp đó là một số bài viết, được đăng tải trên các tạp chí: Châu Mỹ ngày
nay, Nghiên cứu lịch sử, Tư tưởng văn hóa, Xây dựng Đảng,…; các nguồn tài
liệu của Thông tấn xã Việt Nam (TTX VN) như: Tài liệu tham khảo đặc biệt,
Tin thế giới, Tin tham khảo v.v... và một số cơng trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước.
Tác giả Nguyễn Trinh Nghiệu trong bài viết: “Cuba với thời kì đặc biệt
trong hịa bình (1990 - 2005)” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5/2007), đã đề
cao những thành tựu mà nhân dân Cuba đạt được, đưa đất nước dần thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Mao Hướng Lâm - chuyên viên nghiên cứu Mỹ
latinh của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc có bài viết: “Về q trình cải
cách và mở cửa của Cuba” (Tin tham khảo chủ nhật, 12/01/2003 của TTX VN)
đánh giá cao những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba đã đạt
được trong mười năm tiến hành cải cách. Đồng thời, khái quát một số đặc điểm
của quá trình cải cách kinh tế - xã hội ở quốc gia này.
Liên quan đến nội dung đề tài chúng tơi nghiên cứu, có bài viết nhan đề
“Cuộc cách mạng của Raul Castro” đăng trên Tin tham khảo thế giới
(16/12/2007) của TTX VN, đã phân tích một số điểm khác biệt về đường lối,
chính sách kinh tế - xã hội giữa Raul và Fidel, và cho rằng với đường lối mềm

mỏng của Raul, Cuba sẽ có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới.
Hai bài viết nhan đề “Cuba kiên trì cách mạng và những mâu thuẫn hiện
tại” (9/2007) và “Những thách thức đối với công cuộc cải tổ ở Cuba”


5
(26/06/2008) đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt của TTX VN, đã phân tích một
số thách thức hiện nay trong quá trình tiến hành cải cách kinh tế - xã hội ở nước
này như sự tồn tại hai đồng tiền có giá trị khác nhau, lệ thuộc vào bên ngoài, những
biểu hiện tiêu cực trong hoạt động du lịch v.v…
Bài viết của Văn Ngọc Thành, Nguyễn Thanh Tuấn, “Những thành tựu
của cải cách kinh tế - xã hội ở Cộng hịa Cuba từ 1993 đến nay”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 5, 2009, đề cập đến các thành tựu và hạn chế của Cuba từ
trong gần 2 thập niên sau Chiến tranh lạnh, trong đó, các tác giả có nói đến một
số kết quả cải cách bước đầu dưới thời Raul.
Do các bài viết nghiên cứu về Cộng hịa Cuba trong giai đoạn 2006 - 2016
rất ít, nên chúng tôi chủ yếu sử dung nguồn tài liệu từ Thông tấn xã Việt Nam,
các bài viết trên nhiều trang mạng, báo chí ...
Những bài viết, cơng trình nói trên cho thấy Cộng hoà Cuba giai đoạn
2006 - 2016 đã được chú ý nhiều hơn ở nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên chưa
có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu và tồn diện, một số cơng trình chun
sâu lại chủ yếu tập trung vào một mảng, hay một lĩnh vực trong một khoảng thời
gian nào đó. Những cơng trình này chưa làm nổi bật những thành tựu mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân Cuba đạt được, cũng như những khó khăn, thách thức cần
phải giải quyết trong thời kỳ từ 2006 đến 2016. Mặc dù vậy, đề tài của chúng tơi
ít nhiều đã tiếp thu và kế thừa các thành tựu nghiên cứu nói trên. Đây là là cơ sở
quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài này.


6

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ sự phát triển của Cộng hịa Cuba trong 10 năm từ năm 2006 đến
năm 2016.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các nhân tố tác động đến sự phát triển Cộng hoà Cuba từ năm
2006 đến năm 2016.
- Làm rõ sự phát triển của Cộng hoà Cuba từ năm 2006 đến năm 2016
trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và chính sách đối ngoại của
quốc đảo này trong 10 năm kể trên.
- Rút ra nhận xét về thành tựu, hạn chế của Cộng hòa Cuba từ năm 2006
đến năm 2016.
- Giải pháp và xu thế phát triển Cộng hoà Cuba trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Sự phát triển của Cộng hoà Cuba từ năm
2006 đến năm 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu về sự phát triển Cộng hoà Cuba
từ năm 2006 đến năm 2016 trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
và chính sách đối ngoại.
- Về thời gian: Mốc mở đầu là năm 2006 là sau khi Raul Castro trở thành
người đứng đầu Cuba (tối 31/7/2006, Cuba đã công bố quyết định của Chủ tịch
Fidel tạm thời trao quyền điều hành cho phó Chủ tịch Raul Castro). Mốc năm
2016 là đúng 10 năm lãnh đạo đất nước của ông và bắt đầu nhiệm kỳ lãnh
đạo tiếp theo (năm Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba). Ngoài ra, đề tài cũng dề
cập đến thời gian trước năm 2006.


7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu
Luận văn sử dụng các nguồn tư liệu sau:
- Các tài liệu của Chính phủ Cộng hịa Cuba.
- Các sách chuyên khảo - tham khảo của học giả Việt Nam. Các bài viết
đăng trên nhiều tạp chí khoa học như: Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Bắc Mỹ,
Quan hệ quốc tế…
- Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ ở trong nước liên quan đến đề tài.
- Tài liệu từ TTX VN, các tờ báo lớn như Nhân Dân, Quân đội nhân
dân…
- Tài liệu từ một số websites.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra chúng tơi cịn sử dụng một số phương pháp khác: định lượng, thống kê,
so sánh để giải quyết các vấn đề mà luận văn đưa ra.
Tất nhiên, sự phân chia các loại phương pháp như trên chỉ mang tính chất
tương đối bởi khả năng kết hợp và vận dụng do tính chất liên ngành của quan hệ
quốc tế.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học nghiên cứu tương đối có hệ thống về sự
phát triển của Cộng hoà Cuba từ năm 2006 đến năm 2016, luận văn có một số
đóng góp cụ thể như sau:
- Luận văn chỉ ra những nhân tố cho sự phát triển của Cộng hoà Cuba từ
năm 2006 đến năm 2016.
- Luận văn tổng hợp khái quát những thành tựu cơ bản của Cộng hòa
Cuba giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2016.


8
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số đánh giá về Cộng hoà Cuba giai

đoạn từ năm 2006 đến năm 2016 và xu thế phát triển của Cuba sau năm 2016.
- Những tư liệu thu thập được và kết quả nghiên cứu có thế dùng làm tài
liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy bộ môn: Lịch sử thế giới, Quan
hệ quốc tế…
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của Cộng hoà Cuba
từ năm 2006 đến năm 2016
Chương 2. Sự phát triển của Cộng hoà Cuba trên một số lĩnh vực từ năm
2006 đến năm 2016
Chương 3. Một số nhận xét về sự phát triển của Cộng hoà Cuba từ năm
2006 đến năm 2016


9
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CỘNG HOÀ CUBA TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016
1.1. Nhân tố bên ngồi
1.1.1. Tình hình thế giới
- Tình hình chung
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc với sự tan rã của Liên Xô và chế độ
XHCN Đông Âu năm 1991, cùng với nó là sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực,
tình hình thế giới với một loạt thay đổi sâu sắc và to lớn:
Về chính trị, tình hình trên đã tạo ra một khoảng trống quyền lực và sự
thay đổi mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất cịn
lại có sức mạnh tổng hợp mạnh nhất thế giới, song điều đó khơng có nghĩa là
trật tự thế giới là trật tự đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Yếu tố đối đầu về ý thức hệ
trong quan hệ quốc tế cũng phai nhạt dần 1, do đó, tiêu chí tập hợp lực lượng trên

thế giới thay đổi về chất: từ chỗ yếu tố hàng đầu để phân cực hay lơi kéo đồng
minh trong thời Chiến tranh lạnh, thì sau Chiến tranh lạnh, ý thức hệ lui về vị trí
thứ yếu nhường chỗ cho lợi ích quốc gia - nhân tố quyết định để tập hợp bạn
thù.
Bên cạnh đó, sự vươn lên mạnh mẽ của các trung tâm kinh tế như Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ..., sự phát triển mạnh của các tổ chức khu vực như Liên
minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) …, đã và
đang tạo ra những biến chuyển mạnh trong quan hệ quốc tế. Hệ quả là, quan hệ
quốc tế sau Chiến tranh lạnh có nhiều biến động đã chuyển từ đối đầu sang vừa
đấu tranh vừa hợp tác trên cơ sở cùng có lợi ngày càng thiết thực hơn.
1

Tuy cuộc đấu tranh về ý thức hệ khơng hồn tồn bị triệt tiêu mà nó cịn thể hiện trong nền chính trị nội bộ mỗi
nước, song xét trên phạm vi quốc tế, trong quan hệ giữa các nước với nhau, cuộc đấu tranh ý thức hệ khơng cịn
ở vị trí hàng đầu mà diễn ra dưới những hình thức ít bạo lực hơn, dưới chiêu bài đấu tranh đòi nhân quyền, dân
chủ, đa nguyên đa đảng.


10
Từ đây, kinh tế trở thành nhân tố hàng đầu đối với sự hưng vong của mỗi
dân tộc, quốc gia. Nước nào cũng đặt ưu tiên phát triển kinh tế trong chương
trình hành động của mình, kinh tế đã trở thành một yếu tố quan trọng trong lợi
ích quốc gia. Chính vì vị thế mới của yếu tố kinh tế của thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh, khi đặc điểm nổi bật nhất của yếu tố này là cạnh tranh đi đôi với hợp tác
trong thế tuỳ thuộc lẫn nhau, mà tính chất của quan hệ quốc tế đã có sự chuyển
biến sâu sắc. Quan hệ phụ thuộc một chiều giữa nước nhỏ đối với nước lớn cũng
như sự đối đầu giữa hai hệ thống đã nhường chỗ cho quan hệ hai chiều vừa cạnh
tranh vừa hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau và cùng có lợi, bởi bất kỳ quốc gia nào dù
lớn hay nhỏ khi đã tham gia vào nền kinh tế tồn cầu và phân cơng lao động
quốc tế thì đều có lợi thế và vị thế nhất định trong tổng thể chung đó. Đặc điểm

này khơng chỉ đúng với quan hệ kinh tế quốc tế mà nó mở rộng ra cho quan hệ
quốc tế nói chung giữa tất cả các nước trên thế giới bởi kinh tế đã trở thành một
bộ phận của lợi ích quốc gia và quyết định hành xử của mỗi quốc gia.
Cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra như vũ bão, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới và đời sống xã hội. Những thành tựu kỳ diệu
của cuộc cách mạng này đưa đến những biến đổi to lớn trong lực lượng sản xuất
làm xuất hiện lực lượng sản xuất mới. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Trí tuệ con người giữ vai trị trung tâm trong phát triển kinh tế. Đây là
thời kỳ của những thay đổi lớn mà người ta hay nói đến dưới những tên gọi là
“thời kỳ hậu công nghiệp” hoặc “làn sóng văn minh thơng tin ”. Những thay
đổi này đề ra một yêu cầu cấp bách là phải cơ cấu lại nền kinh tế của mỗi nước
cũng như phải cơ cấu lại nền kinh tế quốc tế.
Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, song chiến tranh cục bộ,
xung đột dân tộc, sắc tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang vẫn xảy ra ở nhiều nơi làm
tình hình một số khu vực trở nên căng thẳng. Chiến tranh lạnh kết thúc đã làm
cho các cuộc xung đột khu vực mang tính sắc tộc, tơn giáo và tranh chấp lãnh
thổ vốn trước đây trầm lắng do sự kiềm chế của trật tự hai cực, nay lại bùng nổ


11
và là một trong những nguy cơ chủ yếu đe doạ hồ bình, ổn định khu vực và thế
giới.
Những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều
hình thức mới. Những mâu thuẫn đó là: giữa các nước phát triển với nhau, giữa
các thế lực bá quyền với các nước nhỏ, giữa nước giàu và nước nghèo, mâu
thuẫn giữa các nước TBCN và các nước XHCN...
Bước sang thế kỷ XXI, được hơn 8 tháng, thế giới chứng kiến cuộc tấn
công vào nước Mỹ ngày 11/9/2001 của bọn khủng bố. Sự kiện này cùng với
các vấn đề toàn cầu đang nổi lên như phổ biến các loại vũ khí giết người hàng
loạt, bn ma t, khủng bố, tội phạm có tổ chức, huỷ hoại mơi trường ..., chính

là những nguy cơ mới, những nguy cơ phi truyền thống đang đe doạ thế giới,
kéo theo sự thay đổi hàng loạt các mối quan hệ. Xu thế tồn cầu hóa ngày càng
diễn ra mạnh mẽ, địi hỏi các quốc gia phải xích lại gần nhau hơn để cùng giải
quyết nhiều vấn đề tồn cầu, trong đó có vấn đề chống chủ nghĩa khủng bố.
Quan hệ giữa các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Tây Âu, Trung Quốc… đều
có cải thiện ở nhiều mức độ khác nhau. Thế giới lúc này dựa trên cơ số chung
phải làm sao “duy trì hịa bình”, bảo vệ an ninh quốc gia là điều ưu tiên hàng
đầu. [27, tr. 22-34]
Từ năm 2008, diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế 2008 - 2009
được đánh giá là tồi tệ nhất sau cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933. Bắt nguồn từ
sự nổ tung của bong bóng bất động sản ở Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã
nhanh chóng lây lan ra tồn cầu, dẫn tới sự suy thối kinh tế nghiêm trọng của
nhiều nước. Cuộc khủng hoảng đã cuốn phăng 14. 500 tỷ USD chỉ riêng ở Mỹ
và châu Âu. Hàng nghìn tỷ USD khác đã được chính phủ các nước bỏ ra với hy
vọng phục hồi nền kinh tế.
Vấn đề hạt nhân đã, đang và sẽ là một nhân tố làm “nóng” quan hệ các
quốc gia trên thế giới. Việc tháng 4/2010, Tổng thống Mỹ B.Obama và Tổng
thống Nga D.Metvedev ký Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn cơng chiến lược


12
(START) giai đoạn hai đã thắp lên hy vọng phi hạt nhân hóa tồn cầu. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy vẫn cịn những ảo tưởng coi vũ khí hạt nhân như cơng cụ
trong cuộc đua giành ưu thế, vẫn cịn những mưu toan, những tham vọng lợi
dụng ranh giới nhạy cảm giữa hạt nhân dân sự và quân sự để ngấm ngầm phát
triển vũ khí hạt nhân, đặt thế giới trước sự việc đã rồi. Mỹ khơng cịn khả năng
giải quyết tất cả các vấn đề đang tồn tại trên thế giới.
- Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu. Công cuộc cải cách mở
cửa ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam
Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu do một loạt các

yếu tố bên trong, bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, chủ quan và khách quan, quá
khứ và hiện tại, lịch sử và đương đại, tạo nên một chuỗi những liên hệ phức tạp
và chồng chéo. Cải tổ là tất yếu của lịch sử, thời đại, phù hợp với lôgic phát triển
nội tại của CNXH. Song, ở Liên Xô, cơng cuộc cải tổ đã thất bại hồn tồn, gây
chấn động lương tri nhân loại tiến bộ và để lại nhiều bài học với giá q đắt.
Sở dĩ mơ hình XHCN của Liên Xô sụp đổ chủ yếu là do nguyên nhân bên
trong, trong đó trách nhiệm của các Đảng Cộng sản nắm quyền, họ đã xa rời
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác như vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, phê bình và tự phê bình, xa rời quần chúng, bỏ rơi vai trò lãnh đạo xã hội
v.v...
Khi tiến hành cải tổ, đổi mới, các nước Liên Xô và Đông Âu đều sử dụng
ở mức độ khác nhau cơ chế thị trường hoặc nhân tố thị trường trong mơ hình
XHCN, nhưng rốt cục đều bị thất bại. Họ chưa kết hợp tốt kế hoạch với thị
trường. Họ chỉ sử dụng một cách rất hạn chế cơ chế thị trường trong điều kiện
vẫn giữ khuôn khổ cơ bản của kinh tế kế hoạch, chỉ cải cách nhỏ giọt thể chế
kinh tế truyền thống, khơng thấy được tính khả thi và tầm quan trọng của việc
lấy thị trường làm cơ sở phân phối tài nguyên trong CNXH; hoặc là phủ định thể
chế truyền thống, cho rằng kinh tế thị trường chỉ có thể áp dụng trong điều kiện


13
tư hữu hóa. Do vậy, trước sau, chỉ trong vịng mấy năm từ 1989 đến 1991, chế
độ XHCN liên tiếp bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu.
Từ sau cách mạng thành cơng, nước Cộng hịa Cuba ra đời, để đuy trì ngọn
cờ đỏ ở Tây bán cầu, ngay sát nách tên trùm đế quốc Mỹ, Liên Xô đã ủng hộ
Cuba mạnh mẽ cả về vật chất lẫn tinh thần. Là đồng minh chiến lược của Cuba,
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu là bạn hàng quan trọng, đồng thời là những
nước viện trợ lớn nhất cho Cuba những mặt hàng thiết yếu như lương thực, nhiên
liệu, máy móc… Điều đó khiến Cuba phụ thuộc vào Liên Xơ về nhiều mặt. Do
đó, từ sau năm 1991, khi CNXH khơng cịn ở Liên Xơ và Đơng Âu, tình hình

kinh tế - xã hội và an ninh của Cuba bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đưa quốc đảo
này lâm vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có sau hơn 30 năm phát triển. Thực
trạng đó địi hỏi ban lãnh đạo Cuba phải tự lực cánh sinh, tiến hành cải cách toàn
diện để ra khỏi khủng hoảng và tiếp tực sự nghiệp xây dựng CNXH trên hòn đảo
tự do.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ
của một mơ hình XHCN cứng nhắc, khơng phải là sự sụp đổ của chính bản thân
CNXH. CNXH vẫn tồn tại với tư cách là một thể chế chính trị ở một số nước
XHCN cịn lại. Rút bài học của thất bại nói trên, cơng cuộc cải cách mở cửa đã
thành công ở Trung Quốc và công cuộc đổi mới cũng gặt hái nhiều thành tựu ở
Việt Nam. Chính cơng cuộc cải cách, đổi mới là động lực cho sự phát triển của
CNXH.
Ở Trung Quốc, đất nước này tiến hành cải cách mở cửa, bắt đầu từ Hội
nghị Trung ương 3 khóa XI (tháng 12/1978). Sau gần 40 năm tiến hành cải
cách, mở cửa, Trung Quốc đã thay đổi sâu sắc và to lớn trên mọi lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa…, tạo ra một trong những điều thần kì, vĩ đại nhất
của thế kỷ.
Quá trình cải cách đã làm cho nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh
chóng, tiềm lực kinh tế khơng ngừng được nâng cao và hiện nay đã vượt qua các


14
nước Đức, Nhật Bản... để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc giai đoạn 1978 - 2000 đạt mức
9,8%. Được xem là “công xưởng thế giới”, nhiều ngành công nghiệp của Trung
Quốc như than đá, sợi bông, ngũ cốc, sắt thép, xi măng, điện tử, cơng nghệ
thơng tin, ơ tơ... hiện đang chiếm vị trí hàng đầu thế giới. Cải cách kinh tế góp
phần làm cho lĩnh vực ngoại thương phát triển mạnh mẽ, tăng cường sức cạnh
tranh quốc tế. Trung Quốc là quốc gia đứng đầu các nước đang phát triển về thu
hút vốn đầu tư nước ngồi. Cùng với q trình cải cách kinh tế, các ngành du

lịch, dịch vụ, ngành công nghiệp khơng khói ở Trung Quốc khơng ngừng phát
triển.
Bên cạnh đó, cơng cuộc cải cách mở cửa Trung Quốc vẫn cịn bộc lộ một
số hạn chế. Từ thành tựu và hạn chế trong cải cách, nhất là cải cách kinh tế, các
nhà khoa học Trung Quốc đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu như:
Cải cách thể chế kinh tế cần phải được xác định là nhiệm vụ cấp thiết và quan
trọng nhất trong tồn bộ cơng cuộc cải cách mở cửa của đất nước. Với phương
châm “toàn phương vị”, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa - xã hội, từ giáo dục,
khoa học kỹ thuật đến quan hệ hợp tác, đối ngoại...; Phải triệt để xóa bỏ nền
kinh tế chỉ huy tập trung, lựa chọn thực hiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Với nhận thức mới, kinh tế XHCN là kinh tế hàng hóa có kế hoạch, kinh tế thị
trường không chỉ là đặc trưng của CNTB mà CNXH cũng có kinh tế thị trường;
Quá trình cải cách kinh tế được thực hiện theo phương châm “dị đá qua sơng”,
triển khai tuần tự “dễ trước khó sau”, tiến dần từng bước, ưu tiên cải cách các
lĩnh vực cấp bách trước sau đó tiến hành cải cách toàn diện. Đầu tiên là ưu tiên
cải cách khu vực nơng thơn, từ đó tiến hành mở rộng cải cách ra khu vực thành
thị, thúc đẩy các thành phần kinh tế phi cơng hữu phát triển, sau đó cải tổ sắp
xếp kinh tế công hữu mà trọng tâm là các xí nghiệp Nhà nước; Phải đồng thời
giải quyết tốt các nhiệm vụ cải cách kinh tế gắn liền với phát triển và ổn định
mọi mặt của đất nước. Coi trọng và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa ba yếu tố:


15
cải cách, phát triển và ổn định. Cải cách được xem là nhiệm vụ cấp thiết đầu tiên
để tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, và chỉ có cải cách và phát triển thì
mới bảo đảm đời sống cho nhân dân, tạo tiền đề để đi sâu thực hiện các nhiệm
vụ về văn hóa - xã hội, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị. Sự ổn định
này là điều kiện quan trọng để tiếp tục tăng cường cơng cuộc cải cách nói chung
trong đó có cải cách kinh tế; Phải kết hợp chặt chẽ giữa cải cách kinh tế khu vực
nông thôn và khu vực thành thị, cải cách trong nước với mở cửa đối ngoại. [10]

Ở Việt Nam, từ năm 1986, đã thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước. So với cơng cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung
sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét
đặc thù riêng. Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số
vấn đề sau đây: Chuyển từ mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung chỉ có hai
thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mơ hình mới - kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà
nước, có vốn đầu tư nước ngồi), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo;
Từ mơ hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang mơ
hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương
đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương
thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của
đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã
hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp
phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế,
phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc
đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam càng tích lũy thêm
nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học như: Trong


16
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đổi mới tồn diện, đồng
bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới; Phát huy cao độ
nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại trong điều kiện mới; Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hồn
thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân [44]
Cơng cuộc cải cách tồn diện của Cuba diễn ra trong bối cảnh tương đồng
với công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam: đều phải
đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, phải đối mặt với hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch và đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cuba tiến hành cải cách kinh tế - xã hội trong bối cảnh CNXH trên thế giới đã
cho những bài học thành công và thất bại một cách sâu sắc. Chắc chắn rằng, bài
học từ sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và những bài học thành công
(và cả tồn tại) của đổi mới ở Việt Nam và cải cách ở Trung Quốc, cả về lí luận
và thực tiễn là rất bổ ích đối với tiến trình cải cách của Cuba. Những bài học đó
đã và đang được các nhà lãnh đạo Cuba từ Fidel đến Raul nghiên cứu, tiếp thu,
áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình nhằm đưa cơng cuộc đổi mới
tiếp tục tiến lên phía trước.
1.1.2. Tình hình khu vực Cairibe
Các sự kiện địa chính trị đã giúp thúc đẩy khu vực Mỹ Latinh sang phía tả
trong vài thập kỷ qua. Trong số nhiều chính phủ thiên tả có Archentina, Bolivia,
Ecuado, Peru …, đặc biệt là Venezuela và Bolivia.
Hugo Chavez đã thành công trong việc sử dụng tâm lý ngả sang phía tả
trong nỗ lực phổ biến cuộc cách mạng của ông và đẩy khu vực này ra khỏi ảnh
hưởng của Mỹ. Một chiến thuật mà ông Chavez đã sử dụng để làm suy yếu ảnh


17
hưởng của Washington tại khu vực này là nhấn mạnh vào vị trí của Cuba tại tất
cả các nhóm đa phương trong khu vực. Điều này, cộng với nguồn dầu mỏ đã
được tinh lọc rẻ tiền mà Venezuela cung cấp, đã giúp kéo nền kinh tế Cuba ra
khỏi tình trạng khủng hoảng mà nước này phải đối phó sau khi Liên Xô sụp đổ.
Mặc dù trong một chừng mực nào đó Venezuela đã thay thế Liên Xơ, trở thành

nước tài trợ về tài chính cho Cuba, song quốc đảo này cũng đã tiến hành các
biện pháp đa dạng hóa nền kinh tế nhằm ngăn chặn khả năng sụp đổ. Nền kinh
tế của Cuba trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh dựa chủ yếu vào các hợp đồng bán
đường sang Liên Xô. Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) dự đốn nền kinh
tế Cuba tăng trưởng khoảng 8% năm 2005 (mặc dù Chính phủ Cuba tuyên bố
con số 11,8%). Mặc dù phần lớn mức tăng trưởng này đạt được là nhờ
Venezuela cung cấp dầu mỏ đã tinh lọc cho Cuba để đổi lấy nguồn bác sỹ và
giáo sư của La Habana, song Cuba đã phát triển ngành du lịch, chế tạo và cơng
nghiệp xây dựng. Người ta dự đốn Washington khơng thiếu gì kẻ thù trong
tương lai. Chừng nào mà Iran, Trung Quốc, Venezuela và Nga vẫn còn là những
đối thủ của Mỹ, Cuba cịn có thể nhận được sự ủng hộ của thế giới.
Tại Bolivia, cuộc bầu cử tổng thống Bolivia năm 2005 được tổ chức ngày
18/12/2005 đưa đến thắng lợi của ứng cử viên chính là Juan Evo Morales Ayma
thuộc đảng Phong trào hướng tới CNXH (MAS) với 53,740% số phiếu, một đại
đa số ít thấy trong những cuộc bầu cử tại Bolivia. Ông tuyên thệ nhậm chức
ngày 22/1/2006 với nhiệm kỳ 5 năm. Lễ nhậm chức của ông có sự hiện diện của
các đại diện các phong trào cánh tả trên khắp Mỹ Latinh. Ngày 1/5/2006,
Morales thông báo kế hoạch của mình nhằm tái quốc hữu hóa các mỏ
hydrocarbon của Bolivia. Tuy nói rằng ý tưởng quốc hữu hóa sẽ khơng phải là
một hành động chiếm đoạt, Morales đã gửi quân đội Bolivia đồng thời tới chiếm
56 cơ sở sản xuất khí gas. Quân đội cũng được gửi tới 2 nhà máy lọc dầu thuộc
sở hữu của Petrobras tại Bolivia, chiếm tới hơn 90% năng lực lọc dầu Bolivia.
Tất cả các cơng ty năng lượng nước ngồi ký kết các hợp đồng mới trao cho


18
Bolivia quyền sở hữu tới 82% nguồn thu. Brazil từng là khách hàng
hydorcarbon lớn nhất của Bolivia, nước này nhập khẩu hai phần ba lượng khí
gas Bolivia qua các đường ống do Công ty bán tư nhân Petrobras (PBR) điều
hành. Vị thế của Bolivia càng trở nên quan trọng khi biết rằng trữ lượng

hydrocarbon hiện được đánh giá cao hơn rất nhiều so với thời điểm trước khi
diễn ra cuộc tư nhân hóa cũng như sự hỗ trợ nước này có được từ Hugo Chávez
ở Venezuela.
Thực hiện lời hứa khi tranh cử, Morales đã thành lập một hội đồng ngày
6/8/2006 để soạn thảo một hiến pháp mới với mục tiêu trao nhiều quyền lực hơn
cho cộng đồng bản xứ đa số (vì bản thân ơng cũng là người bản xứ). Các vấn đề
lập tức nảy sinh khi, vì khơng thể có được hai phần ba số phiếu cần thiết để dàn
xếp những tranh cãi trong việc soạn thảo Hiến pháp, đảng của Morales đã đơn
phương thông báo rằng chỉ cần đa số (50%+1) là đủ cho việc đảm bảo soạn thảo
Hiến pháp. Chủ trương này gặp phải nhiều cuộc phản kháng bạo lực diễn ra trên
một số cùng của đất nước tháng 12/2016 [103].
Tiếp đó, sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Cuba cũng là một
nhân tố tác động đến tình hình Cuba từ năm 2006.
Ngay sau khi cách mạng thành cơng và nước Cộng hịa Cuba ra đời
(1/1/1959), đế quốc Mỹ ln tìm phương kế để chống lại quốc đảo tự do này: từ
bao vây cấm vận về kinh tế, cơ lập về chính trị, kể cả đe dọa quân sự, nhiều lần
âm mưu ám sát lãnh tụ Fidel; dung dưỡng các nhóm đi dân Cuba phản động lưu
vong và gia tăng những liên lạc và truyền thơng; kích động di dân bất hợp pháp,
ni dưỡng những kể chống đối bên trong.
Từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2006, dưới các thời Tổng thống
G.Bush, B.Clinton, G.W Bush vẫn xác định mục tiêu như thời kỳ trước: lật đổ
chế độ cộng sản ở Cuba hạ bệ Chủ tịch Fidel, lập lên chính quyền thân Mỹ mới
ở Cuba. Trong suốt 15 năm này, cả ba đời tổng thống Mỹ đều dùng “diễn biến
hịa bình” để lật đổ chế độ cộng sản ở Cuba. Tuy nhiên, lực lượng ủng hộ Cuba


19
ngày càng gia tăng. Chẳng hạn, năm 1998, Giáo hoàng Jean Paul II trong dịp
thăm Cuba đã đề nghị “thế giới mở cửa cho Cuba và Cuba mở cửa cho thế
giới”. Kết quả là có một số giao lưu thể thao, nghệ thuật giữa hai nước. Lần đầu

tiên, người Mỹ gốc Cuba có thể trở về thăm quê hương và gia đình.
Ngày 4/1/1999, Nhà Trắng tuyên bố nới lỏng những hạn chế trong chính
sách cấm vận của họ đối với Cuba bằng việc cho phép lượng người và lượng
tiền từ Mỹ vào Cuba được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, chính quyền B.Clinton sẽ
khơng ưu tiên xem xét lại chính sách cơ bản của họ áp đặt đối với quốc gia này.
Vẫn với chiến lược quyết tâm lật đổ chế độ XHCN ở Cuba, chính quyền
Bush lại leo thang trong việc tiến hành các hành động thù địch với Cuba bằng
việc thông qua bản kiến nghị dài 500 trang của Uỷ ban vì một nước Cuba tự do
(thành lập tháng 10/2003 do Ngoại trưởng Colin Powell đứng đầu). Bản kiến
nghị này vạch ra những biện pháp cụ thể, khắc nghiệt mới nhằm bao vây, bóp
chết nhanh nền kinh tế của Cuba vốn chịu “trừng phạt” trong nhiều năm vì
“mối hận thù” của Mỹ đối với Cuba. Một trong những biện pháp trừng phạt mới
của Mỹ là giảm lượng kiều hối của khoảng một triệu kiều dân Cuba đang sinh
sống tại Mỹ gửi về nước giúp đỡ thân nhân 2. Bất chấp đề nghị của 40 nghị sĩ
Quốc hội và cựu Tổng thống J.Cater đòi bãi bỏ lệnh cấm vận chống Cuba, Tổng
thống W.G.Bush khẳng định dứt khoát chủ trương tiếp tục siết chặt, phong toả
nhằm bóp nghẹt, làm thay đổi chế độ cộng sản ở Cuba. Tổng thống Mỹ
G.W.Bush tiếp tục đưa ra luật “Điều chỉnh Cuba” ngày 6/5/2004 nhằm tiếp tục
chính sách bao vây kinh tế, cấm vận chống Cuba.
Như vậy, chính quyền G.W. Bush thực hiện đường lối ngoại giao chống
Cuba cực đoan hơn. Tuy nhiên, dù với những chính sách, biện pháp nào, thì nhìn
chung chính sách của Mỹ với Cuba đều là để đạt được đích tiêu diệt CNXH ở
2

Nếu trước đây, một người Mỹ gốc Cuba được gửi về cho thân nhân của mình mỗi quý là 300 USD thì nay chỉ
được gửi tối đa là 225 USD. Đồng thời các cuộc về nước viếng thăm cũng bị hạn chế từ 1 năm 1 lần xuống 3
năm 1 lần và chỉ được thăm những người ruột thịt như ông bà, cha mẹ, anh em ruột… và trong khoảng thời gian
ở thăm Cuba mỗi người mỗi ngày chỉ được phép chi tiêu 50 USD thay vì 164 USD trước đây.



20
Cuba, biến quốc đảo này thành sân sau, thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Hơn 4
thập kỷ dưới chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ, Cuba thiệt hại ước tính
khoảng 90 tỉ USD và nhiều thiệt hại khác khơng tính được bằng tiền. Chính sách
của Mỹ đối với Cuba đã gặp phải làn sóng phản đối kịch liệt của nhân dân tiến
bộ, các lực lượng dân chủ và hịa bình trên thế giới.
Từ giữa năm 2006, chính quyền Tổng thống W.G.Bush thông qua kế
hoạch chi 80 triệu USD trong 2 năm nhằm tài trợ các hoạt động của các nhóm
phản động, tăng cường các biện pháp bao vây, cấm vận chống Cuba trong đó có
việc ngăn cấm người Cuba sinh sống tại Mỹ được về thăm người thân hay
chuyển tiền về quê hương. Mỹ ngày càng tăng cường áp đặt lệnh trừng phạt
nặng nề hơn đối với Cuba. Thậm chí cịn áp dụng trừng phạt kinh tế đối với
các nước đầu tư vào Cuba, lên danh sách đen các cán bộ cần loại bỏ một khi
chiếm lại được Cuba làm thuộc địa.
Quan hệ giữa Cuba và Mỹ bắt đầu được cải thiện kể từ khi Barack Obama
lên nắm chính quyền đầu năm 2009 và hai nước mới đồng ý nối lại đàm phán về
vấn đề nhập cư, cũng như thư tín. Ngày 17/12/2014, Chủ tịch R.Castro và Tổng
thống B.Obama chính thức tun bố xúc tiến bình thường hóa quan hệ ngoại
giao song phương, nhất trí tiến hành trao đổi tù nhân, và thúc đẩy đàm phán
chính thức về bình thường hóa quan hệ sau nhiều vịng đàm phán kín được tiến
hành từ giữa năm 2013 [30].
Ơng Obama tun bố: “Chúng tôi sẽ chấm dứt cách tiếp cận đã lỗi thời
làm hỏng những lợi ích của chúng tơi nhiều năm qua, thay vào đó sẽ bắt đầu
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước”. Tuyên bố đầy bất ngờ kể trên đã mở
ra một bước ngoặt đáng kể sau hơn 5 thập kỷ thù địch là di sản từ thời Chiến
tranh lạnh và vẫn tiếp tục đóng băng sau khi bức tường Berlin sụp đổ và Liên
bang Xô viết tan rã. Điều này tác động ngay đến các đồng minh Mỹ như EU,
Nhật Bản. Một trang mới trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa 2 nước láng
giềng Mỹ và Cuba vừa được mở ra sau thông báo của Tổng thống Mỹ B.Obama



21
tại Vườn Hồng Nhà Trắng hôm 1/7/2015 về kế hoạch mở lại đại sứ quán tại thủ
đô 2 nước và khởi đầu một chương mới: quan hệ gắn kết thay cho hơn nửa thế
kỷ đối đầu.
Thông báo của Tổng thống Obama đánh dấu một bước đột phá ngoại giao
mới, là tiến bộ rõ nét nhất trong các nỗ lực cho đến nay của lãnh đạo 2 nước Mỹ
và Cuba nhằm tái lập quan hệ nhiều mặt giữa 2 bên kể từ khi tiến trình được
lãnh đạo 2 nước thơng báo vào tháng 12/2014. Đó cũng là kết quả thiết thực
nhất của những tháng âm thầm đàm phán bí mật giữa 2 bên nhằm tìm kiếm một
sự đồng cảm, nhất trí chung. Đây là một minh chứng tốt đẹp cho mối quan hệ
giữa hai nước vì đã hơn 50 năm nay hai bên khơng có quan hệ ngoại giao hay du
lịch[30].
Tổng thống Mỹ B.Obama đã có chuyến thăm lịch sử kéo dài 3 ngày đến
Cuba vào hôm 20/3/2015, trở thành vị Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm quốc
đảo này kể từ năm 1959 đến nay, nhằm chấm dứt nhiều thập kỷ mối quan hệ
đóng băng giữa hai nước. [8]
1.2. Nhân tố bên trong
1.2.1. Về đất nước Cuba: địa lí, con người, lịch sử
- Địa lý: Cuba là một quần đảo nằm tại Biển Caribe bao gồm hịn đảo
chính là Cuba và bốn nhóm đảo lớn (Colorados, Camagüey, Jardines de la Reina
và Canarreos) bao quanh. Hịn đảo chính Cuba chiếm hầu hết diện tích đất nước
(105.006 km²) và là hịn đảo lớn thứ 17 trên thế giới theo diện tích. Với tổng
diện tích đất liền 110.860 km², hịn đảo xứng đáng với lời ca ngợi của
C.Columbus gần 600 năm trước:“Đây là dải đất đẹp nhất trần gian mà các
người trông thấy” [31, tr.11].
Hịn đảo chính gồm chủ yếu các đồng bằng phẳng tới hơi dốc. Ở cực phía
đơng nam Sierra Maestra, một rặng núi dốc đứng với điểm cao nhất là Pico Real
del Turquino 2.005 m. Khí hậu địa phương là nhiệt đới, dù được điều tiết ơn hịa
bởi gió mậu dịch. Nói chung, ở Cuba có hai mùa: mùa khơ (từ tháng 11 tới tháng



×