Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Chữa viêm gan nhờ Đông y pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.16 KB, 6 trang )

Chữa viêm gan nhờ Đông y

Ở Việt Nam, viêm gan cấp, bán cấp chủ yếu là do virus, tuy có sự khác
nhau về tác nhân gây bệnh, dịch tễ học, bệnh học và tiến triển, nhưng trên lâm
sàng thường có các triệu chứng và hội chứng tương đối giống nhau.

Về tác nhân gây bệnh có thể do các loại virut A, B, C, D và F gây nên. Các
bệnh viêm gan này đều được gọi chung là viêm gan virut.

Về đường lây viêm gan virut A, F lây chủ yếu theo đường tiêu hóa; virut B,
C, D lây chủ yếu theo đường máu, do tiêm chích, đôi khi còn có thể lây theo
đường nước bọt hay đường sinh dục hoặc lây truyền từ mẹ sang con qua rau thai.
Tuy có sự khác nhau về đường lây và phương thức lây truyền, nhưng tất cả các
bệnh viêm gan virut đều có đặc điểm chung là một bệnh truyền nhiễm, tức là có
khả năng lây từ người bệnh sang người lành hoặc từ một người lan sang cả một
cộng đồng người.

Về triệu chứng lâm sàng tuy có sự khác nhau do các tác nhân khác nhau
gây nên, nhưng nhìn chung bệnh viêm gan virut điển hình đều có 4 giai đoạn:

Thời kỳ nung bệnh: Bệnh nhân không hề cảm thấy có triệu chứng gì khác
thường.

Thời kỳ khởi phát (tiền vàng da) kéo dài từ 4 - 10 ngày, có các dấu hiệu
chính như sốt nhẹ, mệt mỏi nhiều mặc dù không sốt cao, có dấu hiệu giả cúm và
dấu hiệu rối loạn tiêu hóa. Lúc này xét nghiệm sẽ thấy men gan tăng cao hoặc rất
cao, thường gấp trên 10 lần lúc bình thường, có khi tới trên 100 lần.

Thời kỳ toàn phát (vàng da) triệu chứng vàng da rõ ràng nhất, da vàng, mắt
vàng, nước tiểu vàng sẫm, có thể kèm sốt cao hoặc sốt vừa. Ngoài ra bệnh nhân
cảm thấy mệt mỏi tăng hơn trước, rối loạn tiêu hóa, chán ăn đặc biệt sợ mỡ. Xét


nghiệm trong giai đoạn này không phải để chẩn đoán mà chủ yếu để tiên lượng
bệnh, do đó cần thăm dò 4 hội chứng của gan: Hội chứng hủy hoại tế bào gan, hội
chứng ứ mật, hội chứng viêm và hội chứng suy tế bào gan.

Thời kỳ lui bệnh được biểu hiện bằng đi tiểu nhiều, tới 2 - 3 lít mỗi ngày,
nước tiểu màu nhạt dần và vàng da cũng đỡ dần, bệnh nhân ăn uống ngon miệng,
xét nghiệm sinh hóa cho thấy chức năng gan phục hồi dần. Tuy nhiên, ở một số
người, vẫn mệt mỏi kéo dài, ăn uống khó tiêu, cảm giác ấm ách vùng thượng vị
hoặc đau tức, nằng nặng vùng hạ sườn phải.


Cây mã đề

Đối với viêm gan B, xuất hiện kháng thể HBs Ag. Nếu xét nghiệm thấy
HBs Ag kéo dài quá 4 tháng, phải nghĩ đến viêm gan mạn tính sau viêm gan virut
B.

Về ăn uống, trong thời kỳ bị bệnh không nên ăn mỡ, ăn nhiều đường, ăn
nhiều hoa quả tươi. Sau bị bệnh, ăn trở lại bình thường dần dần, nhưng rượu bia
thì phải kiêng tuyệt đối ít nhất 6 tháng sau khi khỏi bệnh.
Về điều trị, cho đến nay Tây y vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu viêm gan
virut. Song cả Tây y và Đông y đều cho rằng, nghỉ ngơi là rất cần thiết đối với
bệnh viêm gan virut: Cần nằm nghỉ tuyệt đối trong thời gian vàng da và nghỉ
dưỡng sức ít nhất 15 ngày sau khi hết vàng da, sau đó lao động vừa sức tăng dần
để trở lại lao động bình thường.

Đối với bệnh viêm gan virut nói riêng, viêm gan vàng da nói chung, Đông y
có nhiều bài thuốc chữa rất có hiệu quả. Đây không phải là những bài thuốc đặc trị
theo từng loại bệnh mà chính là tăng cường chức năng gan, lập lại cân bằng, giúp
chức năng gan trở lại trạng thái bình thường.


Đông y không phân thành bệnh viêm gan mà gọi chung là hoàng đản
(chứng vàng da). Theo y văn, hoàng đản nguyên nhân chủ yếu do thấp nhiệt uất
kết trong tỳ vị, ảnh hưởng đến can, sinh ra mắt vàng, mặt vàng rồi đến toàn thân
đều vàng, nước tiểu vàng sẫm. Nếu độc khí của thấp nhiệt lưu lại không tiêu được
sẽ làm cho càng ngày càng ăn kém, gan càng ngày càng to. Về phân loại, Đông y
phân ra hai chứng hoàng đản: Dương hoàng và âm hoàng.

Dương hoàng: biểu hiện mặt, mắt vàng tươi sáng như màu quả quýt, da
vàng nhuận, bệnh nhân cảm giác lợm giọng, nôn ọe, vùng thượng vị đau tức, nước
tiểu đỏ và sẻn, có sốt, thân thể mệt mỏi, tinh thần uể oải, ăn kém, rêu lưỡi vàng
nhờn, hoặc trắng mỏng, chất lưỡi đỏ.
Phép chữa là thanh nhiệt, lợi thấp.
Bài thuốc: Nhân trần 30g, vọng cách 20g, chi tử 10g, vỏ đại (sao vàng) 10g,
ý dĩ 30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g, nghệ vàng 20g, mã đề
12g, mạch nha 16g, cam thảo nam 8g. Tất cả cho vào ấm đất với 500ml nước, sắc
còn 150ml, chắt ra, cho nước sắc tiếp, lấy thêm 100ml, trộn chung cả hai lần, chia
đều uống trong ngày, uống trước các bữa ăn. Uống liền 7 - 10 ngày.

Âm hoàng: Có triệu chứng mặt, mắt và da vàng hãm tối, bụng đầy, rối loạn
tiêu hóa, vùng thượng vị, trung vị, hạ vị đều đau tức, không sốt, thân thể mệt mỏi,
rêu lưỡi trắng mỏng, hoặc hơi vàng trơn, chất lưỡi nhợt nhạt.

Phép chữa là ôn hóa hàn thấp.
Bài thuốc: Nhân trần 30g, vọng cách 20g, gừng khô 8g, quế thông 4g, ý dĩ
30g, thần khúc 10g, actisô 20g, cuống rơm nếp 10g (sao), nghệ vàng 20g, củ sả 8g,
mạch nha 16g, cam thảo nam 8g (sao). Sắc uống như bài trên.

Về phòng bệnh, hiện nay đã có vaccin của một số viêm gan virut nên tốt
nhất là tiêm phòng. Phòng bệnh không đặc hiệu cần vệ sinh sạch sẽ, tạo thành thói

quen rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và hết sức thận trọng khi truyền máu,
truyền dịch, châm cứu, tiêm chích hoặc làm các thủ thuật khác như nhổ răng, phẫu
thuật
Đề phòng từ viêm gan cấp chuyển sang mãn tính bằng cách nghỉ ngơi, phù
hợp khi bị bệnh, uống các bài thuốc Đông y nêu trên, lao động vừa sức, ăn uống
hợp lý và đặc biệt phải kiêng rượu, bia ít nhất là nửa năm sau khi bệnh đã khỏi.

×