Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.5 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN LUẬT ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
(PHẦN 2 Câu 6 – 10)
1. Phân tích những nguyên tắc cơ bản của Luật điều ước quốc tế (có liên hệ với Việt Nam).
2. Phân tích những đặc điểm nhận diện Điều ước quốc tế (có so sánh với tuyên bố đơn phương
và liên hệ với Việt Nam).
3. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế (có liên hệ với Việt Nam).
4. Phân tích các hình thức tun bố chấp nhận sự ràng buộc của một điều ước theo Công ước
Viên 1969 và có so sánh với pháp luật Việt Nam.
5. Trình bày và phân tích nội hàm tuyên bố đơn phương, tuyên bố bảo lưu và hệ quả pháp lý của
các tuyên bố này theo Cơng ước Viên 1969 (có liên hệ với Việt Nam).
6. Trình bày về Hiệu lực của Điều ước quốc tế; Phân tích mối quan hệ điều ước quốc tế và quốc
gia thứ ba (không phải thành viên của điều ước); Phân tích các trường hợp điều ước quốc tế bị vơ
hiệu.
7. Trình bày và phân tích nội dung chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế; rút khỏi điều ước quốc tế;
từ bỏ chấp nhận sự ràng buộc của điều ước (có liên hệ với pháp luật Việt Nam).
8. Phân tích và so sánh các khái niệm “Thực thi và áp dụng điều ước quốc tế” (có liên hệ với
khái niệm thi hành và áp dụng pháp luật quốc gia/liên hệ với Việt Nam).
9. Phân tích, so sánh giữa các chế định áp dụng tạm thời điều ước quốc tế; tạm đình chỉ thi hành;
đình chỉ thi hành điều ước quốc tế theo Công ước Viên 1969 (có liên hệ với Việt Nam).
10. Trình bày, phân tích thực thi, áp dụng điều ước quốc tế kế tiếp nhau có cùng một đối tượng
điều chỉnh theo Cơng ước Viên 1969 (so sánh, đối chiếu với quy định của pháp luật và thực tiễn
của Việt Nam)
___________________________________________________________________________
TOPIC 6: Trình bày về Hiệu lực của Điều ước quốc tế; Phân tích mối quan hệ điều ước
quốc tế và quốc gia thứ ba (khơng phải thành viên của điều ước); Phân tích các trường hợp
điều ước quốc tế bị vô hiệu.
- Liên hệ VN có điều nào trong luật đưqt liên quan đến vấn đề này k
I. Phân tích hiệu lực của ĐƯQT
Sau khi quốc gia đã ký kết điều ước quốc tế thông qua các bước ký kết điều ước quốc tế (bao
gồm cả bảo lưu), vấn đề tiếp theo cần xem xét đến là hiệu lực của điều ước quốc tế. Hiệu lực của
điều ước quốc tế thể hiện ở ba khía cạnh: thời gian, khơng gian và đối tượng chịu ràng buộc.




Trước khi đi vào các quy định của Công ước Viên về ba khía cạnh đó, hai vấn đề liên quan khác
cần được nhắc đến là nguyên tắc pacta sunt servanda và nghĩa vụ trước khi điều ước có hiệu lực.
Vấn đề thứ nhất mang tính chất nền tảng, vấn đề thứ hai mang tính chất sơ bộ. Do đó, hai vấn đề
này cần phải xem xét trước khi đi vào các quy định thực chất về hiệu lực của điều ước quốc tế.
1. Nguyên tắc pacta sunt servanda
- Nguyên tắc pacta sunt servanda là một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, có các
biến thể được ghi nhận ở hàng loạt các điều ước quốc tế, ví dụ như Điều 2(2) Hiến chương Liên
hợp quốc quy định nghĩa vụ thiện chí thực thi các nghĩa vụ theo Hiến chương và Điều 26 Công
ước Viên năm 1969 quy định nghĩa vụ thiện chí thực thi các điều ước có hiệu lực với các quốc
gia.
- Một trong hai nội dung chính của nguyên tắc này là các điều ước quốc tế có hiệu lực ràng buộc.
Các điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với các bên ký kết thì đều ràng buộc (binding) đối với
các bên đó, bất kể chính điều ước quốc tế có ghi nhận trong điều khoản về nguyên tắc pacta sunt
servanda hay khơng. Một điều ước quốc tế đang có hiệu lực thì sẽ tạo ra ràng buộc pháp lý đối
với quốc gia thành viên. Nội dung này có tính chất đương nhiên, và không thể phủ nhận, và cũng
không cần thiết chứng minh thêm. Ở đây, nguyên tắc pacta sunt servanda có hai điều kiện để có
thể áp dụng: văn kiện liên quan phải là điều ước quốc tế và đã bắt đầu có hiệu lực đối với quốc
gia thành viên.
- Nguyên tắc này được giải thích cụ thể tại Nghị quyết 2625 nổi tiếng của Đại hội đồng Liên hợp
quốc. Theo Nghị quyết, nội dung chính của nguyên tắc này là các quốc gia có nghĩa vụ pháp lý
phải thiện chí thực thi các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, bất kể các nghĩa vụ đó
được ghi nhận trong nguồn nào. Các nghĩa vụ có thể được ghi nhận trong một điều ước quốc
tế, trong tập quán quốc tế, trong các nguyên tắc pháp luật chung hay các nguồn khác của luật
quốc tế. Lưu ý rằng một quốc gia khơng có nghĩa vụ thực thi tất cả các nghĩa vụ của luật pháp
quốc tế mà chỉ thực thi các nghĩa vụ của mình (its obligations). Nói một cách chặt chẽ hơn là
chỉ tận tâm thực hiện các nghĩa vụ ràng buộc hay có hiệu lực đối với quốc gia đấy. Tuỳ từng
quốc gia mà mỗi nước có các nghĩa vụ thực hiện khác nhau, ví dụ quốc gia nào ký kết càng nhiều
điều ước quốc tế thì càng có nhiều nghĩa vụ phải thực thi.

- Nguyên tắc pacta sunt servanda thể hiện ra rõ ràng cơ chế thực thi các nghĩa vụ của luật quốc
tế, đồng thời cũng là cơ chế vận hành của toàn bộ hệ thống pháp luật quốc tế. Các quy định của
luật quốc tế chủ yếu được thực thi thông qua việc tự nguyện tuân thủ, tự cưỡng chế theo sự
thiện chí của các quốc gia. Sự thiện chí này khơng có nghĩa là tự do muốn thực thi hay không,
mà là một nghĩa vụ buộc phải thiện chí. Trong luật quốc tế, khơng có cơ quan hành pháp và tư
pháp nào có thẩm quyền bắt buộc với các quốc gia, do đó, các quốc gia phải tự mình thực thi các
nghĩa vụ của mình. Có thể thấy cơ chế dựa vào tự tn thủ có tính chất cưỡng chế yếu, nhưng
trên thực tế, hầu hết các quốc gia đều thực thi nghiêm túc và đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Vi
phạm chỉ là ngoại lệ và hiếm gặp.
2. Nghĩa vụ trước khi điều ước có hiệu lực
- Về nguyên tắc, trước khi điều ước quốc tế có hiệu lực, các quốc gia ký kết khơng có bất kỳ
nghĩa vụ nào phải thực thi điều ước quốc tế đó. Tuy nhiên, Điều 18 CƯV quy định một nghĩa vụ
chung trong giai đoạn các quốc gia chờ điều ước quốc tế có hiệu lực. Nghĩa vụ này yêu cầu các


quốc gia khơng có các hành vi dẫn đến tình trạng mất mục đích và đối tượng của điều ước
quốc tế, trong hai trường hợp sau: (1) Quốc gia đó đã ký hay đã trao đổi văn kiện cấu thành điều
ước quốc tế nhưng cần phải chờ phê chuẩn, cho đến khi quốc gia đó thể hiện rõ ý định khơng
làm thành viên của điều ước; (2) Quốc gia đó đã thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc nhưng đang
chờ điều ước quốc tế có hiệu lực, trừ khi điều ước đó bị trì hỗn có hiệu lực một cách vơ lý.
- Nghĩa vụ này mang tính chất bị động, theo nghĩa, nó khơng u cầu các quốc gia phải có hành
vi nào đó. Nghĩa vụ ở Điều 18 yêu cầu các quốc gia phải “hạn chế” (refrain) có hành vi trái với
mục đích và đối tượng của điều ước. Điều 18 này được Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC) dự thảo
dựa trên pháp quyết của Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (PCIJ) năm 1926 trong Vụ liên
quan đến một số lợi ích của Đức tại vùng Thượng Silesia Ba Lan.
3. Hiệu lực theo phương diện thời gian
3.1. Thời điểm bắt đầu có hiệu lực
- Điều 24 của Công ước Viên quy định thời điểm và cách thức mà một điều ước quốc tế bắt đầu
có hiệu lực. Khoản 1 Điều 24 quy định nguyên tắc rằng điều ước có hiệu lực theo cách thức và
vào ngày mà điều ước đó quy định hoặc theo thỏa thuận của các quốc gia tham gia đàm phán.

Đối với các quốc gia thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc sau ngày điều ước có hiệu lực, thì điều
ước sẽ có hiệu lực với các quốc gia đó vào chính ngày đưa ra sự đồng ý, trừ khi điều ước có
quy định khác. Thơng thường các điều ước quốc tế đều có quy định rõ ràng về vấn đề này, cụ thể
về cách thức và ngày có hiệu lực đối với các quốc gia ký kết và đối với các quốc gia gia nhập sau
đó. Ví dụ như Khoản 1 Điều 84 Công ước Viên quy định Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ
30 sau ngày văn kiện phê chuẩn hay gia nhập Công ước được nộp lưu chiểu.
- Trong trường hợp, điều ước quốc tế không có quy định và giữa các quốc gia cũng khơng có
thỏa thuận, khoản 2 Điều 24 quy định điều ước sẽ có hiệu lực ngay khi tất cả các quốc gia tham
gia đàm phán thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc. Nghĩa là, điều ước sẽ có hiệu lực vào ngày
quốc gia tham gia đàm phán cuối cùng thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc (Quốc gia tham gia
đàm phán là quốc gia tham gia vào quá trình soạn thảo và thông qua văn bản điều ước quốc tế).
- Theo khoản 3, Điều 24 CƯV khi một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước vào
một thời điểm mà điều ước đã có hiệu lực từ trước, thì điều ước này, trừ khi có quy định khác, sẽ
có hiệu lực đối với quốc gia này từ thời điểm đó.
- Theo khoản 4, Điều 24 CƯV những quy định của một điều ước điều chỉnh việc xác thực văn
bản, biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, những thể thức hoặc thời điểm bắt đầu
có hiệu lực, những bảo lưu, những chức năng của cơ quan lưu chiểu cũng như tất cả những vấn
đề khác mà nhất thiết phải được đặt ra trước khi điều ước có hiệu lực, sẽ đều được thi hành ngay
từ thời điểm thông qua văn bản của điều ước đó.
3.2. Thời điểm điều ước hết hiệu lực
Ngày mà một điều ước quốc tế sẽ hết hiệu lực sẽ theo quy định của điều ước quốc tế đó, theo
thỏa thuận giữa các quốc gia, hoặc khi điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực. Trong thực tiễn, có
khơng ít các điều ước quốc tế chỉ xác định thời điểm bắt đầu có hiệu lực mà khơng quy định thời
điểm kết thúc hiệu lực. Những điều ước này thường được gọi là điều ước vô thời hạn. Ví dụ,
Hiến chương Liên hợp quốc, Cơng ước Luật biển năm 1982...
3.3. Hiệu lực hồi tố của điều ước


Tương tự như pháp luật quốc gia, Công ước Viên khơng cho phép điều ước quốc tế có hiệu lực
hồi tố trở lại trước khi điều ước có hiệu lực. Điều 28 CƯV quy định rằng điều ước chỉ có hiệu

lực hồi tố đối với các hành vi hay sự kiện đã diễn ra hoặc các tình huống đã khơng cịn tồn tại
trước ngày điều ước có hiệu lực khi điều ước có quy định như thế hoặc có thỏa thuận như thế.
Nếu một hành vi bắt đầu trước thời điểm điều ước có hiệu lực và tiếp tục diễn ra sau thời điểm
đó, bộ phận hành vi diễn ra sau đó vẫn chịu sự điều chỉnh của điều ước. Nếu các quốc gia có thỏa
thuận hoặc điều ước quốc tế có quy định, thì một điều ước có thể có hiệu lực hồi tố. Ví dụ như
năm 1997, Việt Nam và Mỹ đạt được thỏa thuận trả nợ, theo đó, phía Việt Nam đồng ý chi trả
140 triệu USD cho các khoản nợ mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã vay từ Mỹ trong giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ.
4. Hiệu lực theo phương diện không gian
- Điều 29 CƯV quy định ngắn gọn một nguyên tắc rằng một điều ước có hiệu lực ràng buộc quốc
gia thành viên trên tồn bộ lãnh thổ của quốc gia đó. Lãnh thổ được đề cập trong Điều 29 là
lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia. Lãnh thổ này bao gồm toàn bộ lãnh thổ đất liền và các đảo,
nội thủy và lãnh hải, và vùng trời quốc gia phía trên các bộ phận đó. Điều 29 cũng đặt ra một
ngoại lệ cho nguyên tắc trên: “trừ khi có ý định khác được thể hiện trong điều ước hoặc được
xác định theo một cách khác”.
+ Việc một điều ước không áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia thành viên khơng phải là
hiếm. Ví dụ như Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung
Quốc năm 2009 chủ yếu chỉ áp dụng cho khu vực “vùng nước biên giới”, và “cư dân biên giới”.
+ Một số điều ước quốc tế có hiệu lực về khơng gian mở rộng ra cả bên ngồi lãnh thổ của quốc
gia thành viên. Ví dụ như Cơng ước Luật Biển năm 1982 áp dụng cho cả nội thủy và lãnh hải
thuộc lãnh thổ quốc gia, và cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vùng đáy biển quốc tế và
biển cả.
5. Hiệu lực theo đối tượng chịu ràng buộc (ĐƯQT đối với quốc gia thứ 3)
- Về ngun tắc, điều ước quốc tế khơng có hiệu lực ràng buộc đối với các quốc gia không là
thành viên của điều ước đó. Nguyên tắc trên xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa
các quốc gia. Điều 34 CƯV ghi nhận lại nguyên tắc này: “Một điều ước quốc tế không tạo ra
nghĩa vụ hay quyền cho Quốc gia thứ ba mà khơng có sự đồng ý của Quốc gia đó.” Điểm h,
Khoản 1, Điều 2 CƯV quy định thuật ngữ “quốc gia thứ ba” dùng để chỉ một quốc gia không
phải là một bên của điều ước. Điều này đồng nghĩa, một điều ước sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ
trong phạm vi và giới hạn mà quốc gia thứ ba đã đồng ý rõ ràng hoặc ngụ ý đồng ý. Trong

trường hợp này, quốc gia thứ ba không trở thành thành viên của điều ước mà chỉ chịu ràng buộc
một phần bởi điều ước đó.
+ Hình thức thể hiện sự đồng ý của quốc gia thứ ba có sự khác nhau cơ bản giữa điều
ước trao quyền và điều ước áp đặt nghĩa vụ.
● Điều ước trao quyền: Điều 36 CƯV quy định rằng sự đồng ý được xem là mặc
định chừng nào khơng có bằng chứng cho thấy quốc gia thứ ba khơng đồng ý
hoặc điều ước đó có quy định khác. Quy định như thế cho thấy đây không phải
là một nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc phải thực hiện, bản chất của một quyền
cho phép quốc gia thứ ba quyết định sử dụng hoặc khơng được sử dụng nó.


Khoản 2 Điều 36 quy định khi quốc gia thứ ba thực thi quyền được trao thì đồng
thời phải tuân thủ các điều kiện (nếu có) đi kèm theo quy định của điều ước liên
quan.
● Điều ước áp đặt nghĩa vụ: Điều 35 yêu cầu sự đồng ý của quốc gia thứ ba phải
rõ ràng (expressly) và bằng văn bản (in writing). Sự đồng ý không thể được
suy luận mặc nhiên. Điều này cũng hợp lý bởi lẽ bất kỳ một nghĩa vụ nào đều dẫn
đến hành động thực thi chủ quyền của quốc gia bị giới hạn. Tòa PCIJ đã nhấn
mạnh rằng: “Bất kỳ hạn chế nào đối với sự độc lập của một quốc gia không thể
dựa trên suy luận.”
● Ngoại lệ Điều 35: Quy tắc chung về nghĩa vụ quy định tại Điều 35 của VCLT
không áp dụng trong một số trường hợp nhất định. Điều 75 của hiến chương Liên
hợp quốc quy định rằng nghĩa vụ đối với quốc gia thứ ba phát sinh từ một điều
khoản trong hiệp ước chỉ khi có sự đồng ý của quốc gia đó sẽ khơng áp dụng cho
trường hợp quốc gia xâm lược. Một ngoại lệ quan trọng khác đối với quy tắc nêu
tại Điều 35, mà Quốc gia thứ ba phải chấp nhận bằng văn bản nghĩa vụ mà hiệp
ước tìm cách áp đặt đối với mình được nêu trong Điều 2 khoản 6 của Hiến
chương Liên hợp quốc quy định rằng Tổ chức phải đảm bảo rằng các quốc gia
không phải là thành viên của Liên hợp quốc hành động phù hợp với các nguyên
tắc của Hiến chương Liên hợp quốc trong chừng mực có thể cần thiết cho việc

duy trì hịa bình và an ninh quốc tế.
- Điều ước tạo ra các hoàn cảnh khách quan. Đây là những điều ước mà quốc gia thứ ba phải
tơn trọng và tính đến trong quan hệ của họ với những quốc gia liên quan, như điều ước liên quan
đến giao thông tên các sông quốc tế (sông Ranh, sông Đanuyp...) kênh đào quốc tế (kênh đào
Panama, kênh đào Suez) và eo biển quốc tế (eo biển Gibranta, eo biển Thổ Nhĩ Kỳ), điều ước về
phân định biên giới.
- Điều ước có hiệu lực với bên thứ ba khi Điều ước có điều khoản tối huệ quốc
- Điều ước được quốc gia thứ ba viện dẫn áp dụng với tính chất của tập quán quốc tế.
6. Quy chế khách quan (objective regime)
- Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật điều ước quốc tế là điều ước quốc tế chỉ có hiệu
lực pháp lý ràng buộc với các quốc gia thành viên, và không tạo ra quyền hay nghĩa vụ cho quốc
gia không là thành viên. Xuất phát của nguyên tắc này là từ Luật La Mã: pacta tertiis nec nocent
nec prosunt - thỏa thuận không áp đặt nghĩa vụ hay trao quyền cho bên thứ ba. Nguyên tắc này
quy định tại Điều 34 của Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 như đã phân tích
trên.
- Ủy ban Luật pháp Quốc tế và vấn đề quy chế khách quan
+ Theo các quy định nêu trên của CƯV, ngoại lệ duy nhất cho nguyên tắc trên là sự đồng ý của
quốc gia thứ ba. Không có sự đồng ý đó, quốc gia thứ ba khơng có quyền và cũng khơng có
nghĩa vụ tn thủ các quy định của điều ước quốc tế. Tuy vậy, trong quá trình dự thảo các Điều
khoản về luật điều ước quốc tế, Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC) của Liên hợp quốc tế đã từng
xem xét đến một ngoại lệ khác: Quy chế khách quan (objective regime). Theo ILC, “quy chế
khách quan” được hiểu là “các điều ước quốc tế tạo ra […] các nghĩa vụ và quyền có giá trị


erga omnes”. “Erga omnes” theo nghĩa đen là “đối với tất cả”. Nghĩa vụ erga omnes là nghĩa vụ
đối với tất cả các quốc gia. Năm 1964, Báo cáo viên đặc biệt của ILC về luật điều ước quốc tế
Humphrey Waldock đệ trình dự thảo các điều khoản về luật điều ước quốc tế lên ILC, Điều 63
trong đấy quy định như sau: “Điều ước quốc tế xác lập một quy chế khách quan khi lời văn và
hoàn cảnh ký kết cho thấy ý định của các bên là tạo ra các nghĩa vụ và quyền chung vì lợi ích
chung liên quan đến một khu vực, một Quốc gia, một lãnh thổ, địa phương, dịng sơng hay tuyến

đường thủy cụ thể, hoặc liên quan đến một khu vực biển, đáy biển hay không phân cụ thể”. Theo
dự thảo của Waldock, hiệu lực “khách quan” của loại điều ước quốc tế này là: “Một Quốc gia
không là thành viên của điều ước quốc tế, cũng không phản đối hoặc công khai bác bỏ một quy
chế như thế trong một khoảng thời gian sau khi điều ước quốc tế được nộp lưu chiểu cho Tổng
thư ký Liên hợp quốc thì sẽ được xem là ngầm chấp nhận quy chế đó.”
+ Theo ơng, quy chế khách quan được hình thành dựa trên sự im lặng (silence) hay không
phản đối (non-protest, non-opposition) của các quốc gia không là thành viên của điều ước quốc
tế. Tuy nhiên, do lý thuyết về quy chế khách quan cịn đang tranh cãi và nhiều khả năng khơng
có sự chấp nhận rộng rãi một quy định về điều ước quốc tế trực tiếp tạo ra quy chế khách quan,
ILC quyết định không đề cập đến vấn đề này trong dự thảo. Hơn nữa, ILC cho rằng các quy
định về điều ước quốc tế tạo ra quyền cho quốc gia thứ ba và điều ước quốc tế chuyển hóa thành
tập quán quốc tế đã đủ để thúc đẩy “việc hình thành các quyền và nghĩa vụ điều ước có giá trị
erga omnes”. ILC tiếp tục giữ nguyên quan điểm này cho đến dự thảo cuối cùng năm tính đến
năm 1966.
* Quy chế khách quan trong VCLT
Các cơ chế khách quan được tạo ra bởi các hiệp ước, rất hạn chế theo hiệp ước Vienna về Luật
Điều ước. Điều 36 đề cập đến các tình huống, như trong trường hợp, các chế độ của Eo biển Thổ
Nhĩ Kỳ hoặc của Kênh Kiel là ví dụ về một loại hiệp ước chung quy định việc thiết lập quyền sử
dụng lãnh thổ trên đất liền hoặc trên biển của các quốc gia thứ ba và có thể được cho là tạo ra các
hiệu lực pháp lý tự động liên quan đến các quốc gia thứ ba (có hiệu lực mà khơng có bất kỳ thỏa
thuận rõ ràng nào). Các chế định này hầu hết nhằm mục đích xác lập các quyền và đi kèm với
việc các quốc gia thứ ba thực hiện các nghĩa vụ nhất định như một điều kiện để thực hiện các
quyền này.
II. Liên hệ Luật ĐƯQT Việt Nam
- Điều 52 quy định “Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký
kết nước ngoài”.
- Điều 55 quy định về Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc
tế
1. Việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện tồn bộ hoặc một phần điều

ước quốc tế được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên
Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
2. Thẩm quyền quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế được quy định như sau:


a) Quốc hội quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc
tế mà Quốc hội phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định tạm đình chỉ thực hiện điều
ước quốc tế do Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định ký và Quốc hội phê chuẩn, sau đó báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất;
b) Chủ tịch nước quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế mà Chủ tịch nước phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập;
c) Chính phủ quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc
tế mà Chính phủ quyết định phê duyệt, gia nhập hoặc ký nhưng không phải phê chuẩn, phê
duyệt.
3. Văn bản quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế
bao gồm các nội dung sau đây:
a) Tên của điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện; thời
gian, địa điểm ký và thời hạn có hiệu lực;
b) Trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và cơ quan, tổ chức có liên quan.
4. Hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực
hiện điều ước quốc tế được thực hiện tương tự hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định sửa đổi, bổ
sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 54 của Luật này.
- Điều 56. Thông báo liên quan đến hiệu lực của điều ước quốc tế
Bộ Ngoại giao thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan các nội dung sau đây:
1. Thơng báo về ngày có hiệu lực của điều ước quốc tế trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận
được thông tin về việc điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
2. Thơng báo về ngày có hiệu lực của tuyên bố bảo lưu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài, rút bảo lưu hoặc rút phản đối
bảo lưu đối với điều ước quốc tế nhiều bên trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo của cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên;
3. Thông báo về ngày chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế, về việc sửa đổi, bổ sung, gia
hạn điều ước quốc tế, việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày việc chấm dứt áp dụng tạm thời, sửa đổi, bổ sung, gia
hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế có hiệu lực.
- Khoản 1, Điều 60 quy định “Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải được đăng tải trên Cơng báo nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cổng thông tin điện tử của cơ quan đề xuất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa bên Việt
Nam và bên ký kết nước ngồi hoặc có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
III. Các trường hợp điều ước quốc tế bị vô hiệu
A. Khái niệm chung
- Vô hiệu điều ước quốc tế là việc một quốc gia viện dẫn một căn cứ hợp pháp để làm cho sự
đồng ý chịu ràng buộc của quốc gia viện dẫn khơng có hiệu lực pháp lý. Đối với điều ước
song phương, nếu một bên vô hiệu sự đồng ý chịu ràng buộc thì điều ước khơng cịn tồn tại. Đối
với điều ước quốc tế đa phương, một bên viện dẫn vô hiệu thì khơng nhất định khiến cho điều


ước đó bị vơ hiệu trong quan hệ với các quốc gia thành viên khác. Vô hiệu sẽ làm điều ước
quốc tế khơng có hiệu lực ngay từ đầu (ab initio), do đó, khác với huỷ bỏ điều ước quốc tế.
- Vơ hiệu điều ước chỉ có thể được viện dẫn dựa trên 08 căn cứ trong Công ước Viên (từ Điều 46
- 53). Điều 42(1) quy định: “Giá trị pháp lý của một điều ước quốc tế hay sự đồng ý của một
Quốc gia chịu ràng buộc bởi một điều ước chỉ có thể được loại bỏ thơng qua việc áp dụng Cơng
ước này.”
=> Điều này có nghĩa nếu khơng dựa vào một trong 08 căn cứ này thì một quốc gia không thể vô
hiệu được điều ước quốc tế.
- Khi có căn cứ để vơ hiệu điều ước, bất kỳ quốc gia nào cũng có thể viện dẫn quy định của Công
ước để vô hiệu điều ước, trừ những quốc gia rơi vào trường hợp quy định tại Điều 45. Điều 45
quy định một quốc gia sẽ mất quyền viện dẫn vô hiệu điều ước (và cả hủy bỏ, đình chỉ thi hành)

nếu (a) quốc gia đó vẫn cơng nhận điều ước vẫn có hiệu lực và giá trị pháp lý, hoặc (b) thơng qua
hành vi của mình ngầm đồng ý điều ước vẫn có hiệu lực và giá trị pháp lý. Quy định này xuất
phát từ nguyên tắc rằng một bên không thể được hưởng lợi từ sự thiếu nhất quán của mình
(allegans contraria non audiendus est). Quy định này chỉ áp dụng cho các căn cứ từ Điều 46 đến
50, không áp dụng vô hiệu do cưỡng ép người đại diện, cưỡng ép quốc gia, và xung đột với jus
cogens. Hai trường hợp liên quan đến cưỡng ép không được áp dụng quy định này để bảo đảm
quốc gia bị cưỡng ép ln có quyền vơ hiệu điều ước. Trường hợp xung đột jus cogens bị loại trừ
là điều hiển nhiên.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯQT BỊ VÔ HIỆU
1. Vi phạm quy định quan trọng của pháp luật quốc gia về thẩm quyền ký kết
- Điều 46 quy định rằng: “Một quốc gia không thể viện dẫn rằng sự đồng ý của nước này chịu
ràng buộc đối với một điều ước đã được đưa ra vi phạm một quy định nội luật liên quan đến
thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế để vô hiệu sự đồng ý đó, trừ khi vi phạm đó là rõ ràng và
liên quan đến một quy định nội luật có tầm quan trọng đặc biệt.”
=> Cách viết và sử dụng cấu trúc “không thể viện dẫn… trừ khi…” cho thấy: Về nguyên tắc, các
quốc gia không thể viện dẫn việc vi phạm quy định nội luật để vô hiệu điều ước quốc tế .
Điều này phù hợp với quy định về nguyên tắc pacta sunt servanda ở Điều 26, và đặc biệt là, quy
định về quan hệ giữa nội luật và việc tuân thủ điều ước ở Điều 27. Điều 27 quy định: “Một bên
không thể viện dẫn quy định của nội luật để biện minh cho việc không thực thi điều ước. Quy
định này không ảnh hưởng đến Điều 46.” Có thể thấy Điều 46 nên được hiểu là một ngoại lệ của
Điều 27.
- Điều 46 cho phép vô hiệu điều ước quốc tế nếu thỏa mãn hai điều kiện: (1) vi phạm đó phải rõ
ràng, và (2) quy định nội luật bị vi phạm phải có tầm quan trọng đặc biệt. Khoản 2 Điều 46 giải
thích thêm rằng: Một vi phạm được xem là rõ ràng nếu nó khách quan rõ ràng với bất kỳ Bên ký
kết nào phù hợp với thực tiễn thông thường và trên tinh thần thiện chí. Nói một cách đơn giản, vi
phạm là rõ ràng khi tất cả các quốc gia đều cho rằng đấy là vi phạm rõ ràng nếu mình rơi vào
tình huống tương tự. Điều kiện này có yêu cầu rất cao.


+ Điều kiện thứ hai về quy định mang tầm quan trọng đặc biệt (a rule of its internal law of

fundamental importance) khơng được giải thích thêm ở Điều 46. Điều kiện này khơng có trong
dự thảo mà ILC trình ra trước Hội nghị Viên (1968 - 1969), mà được Hội nghị đưa thêm vào theo
đề xuất của Peru và Cộng hịa Xơ-viết Ukraine. Kết hợp với điều kiện “vi phạm rõ ràng”, điều
kiện này nhằm nhấn mạnh rằng luật pháp quốc gia có ảnh hưởng rất hạn chế đến luật quốc
tế. Điều kiện này nhấn mạnh thêm một lần nữa quan điểm của ILC rằng: vi phạm quy định nội
luật không thể là căn cứ để vô hiệu điều ước quốc tế, kể cả khi đó là quy định hiến định.
2. Vi phạm giới hạn thẩm quyền của người đại diện (hạn chế đặc biệt quyền bày tỏ sự đồng
ý của một quốc gia)
- Điều 47 quy định rằng nếu các quốc gia có giới hạn thẩm quyền của người đại diện quốc gia,
“việc người đại diện không tuân thủ giới hạn đó khơng thể được viện dẫn để vơ hiệu sự đồng ý
chịu ràng buộc do người đó thể hiện trừ khi giới hạn đó đã được thơng báo các Quốc gia đàm
phán khác trước khi người này thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc.” Giống như Điều 46, cấu trúc
“không thể viện dẫn… trừ khi…” cho thấy về nguyên tắc, căn cứ này không thể được viện dẫn.
- Như quy định ở Điều 7 về thẩm quyền của người đại diện quốc gia, chỉ có ba người có thẩm
quyền mặc nhiên để ký kết điều ước quốc tế. Tất cả những người đại diện khác chỉ có thể thể
hiện sự đồng ý chịu ràng buộc khi có ủy nhiệm thư cho phép. Trong nhiều trường hợp, ủy nhiệm
thư chỉ cho phép người đại diện được đàm phán, thông qua và xác thực văn bản điều ước; thể
hiện sự đồng ý chịu ràng buộc thông thường bằng phê chuẩn, phê duyệt, chấp nhận sẽ thông qua
các thủ tục nội bộ khác sau đó. Điều 47 nhằm xử lý trường hợp, ủy nhiệm thư không cho phép
thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc, nhưng người đại diện vẫn tiến hành bước này.
- Điều 47 chỉ cho phép viện dẫn hạn chế việc vi phạm giới hạn thẩm quyền của người đại diện
nếu các bên đàm phán khác đã được thông báo, đã được biết trước về giới hạn này. Như vậy,
nếu các bên đàm phán khác không biết rằng người đại diện một bên trong đó khơng có thẩm
quyền thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc thì điều ước quốc tế khơng thể bị vơ hiệu dựa vào căn
cứ này. Thực tế, rất hiếm trường hợp một quốc gia tìm cách vơ hiệu hành vi ký kết điều ước quốc
tế của người đại diện của mình; và cũng hiếm không kém việc người đại diện quốc gia vượt quá
phạm vi được ủy quyền trong ủy nhiệm thư. Hơn nữa, không mấy trường hợp các quốc gia đàm
phán không kiểm tra ủy nhiệm thư của nhau trước khi ký kết điều ước quốc tế.
3. Nhầm lẫn (Sai lầm)
Điều 48(1) quy định rằng:

- “Một quốc gia có thể viện dẫn sự nhầm lẫn trong một điều ước để vô hiệu sự đồng ý chịu ràng
buộc đối với điều ước đó nếu sự nhầm lẫn này liên quan đến một thực tế hay một tình huống mà
quốc gia đó cho rằng đã tồn tại tại thời điểm ký kết điều ước và là cơ sở quan trọng mà quốc gia
này dựa vào để đồng ý chịu ràng buộc.” Cấu trúc Điều 48 khác với Điều 46 và 47, mang tính
chất khẳng định hơn “có thể viện dẫn… nếu…”.
● Điều khoản này sẽ không được áp dụng nếu quốc gia đề cập đã góp phần vào sai lầm đó
bằng thái độ xử sự của mình khi những hồn cảnh đặc biệt đó đã ở mức độ làm cho quốc
gia đó phải lưu ý về khả năng xảy ra sai lầm.


- Khác với thực tế nhầm lẫn để vô hiệu hợp đồng trong nội luật, việc ký kết điều ước quốc tế rất
khó để nhầm lẫn, bởi vì tính chất quan trọng của nó mà các quốc gia rất cẩn trọng trong việc đàm
phán, soạn thảo văn bản điều ước. Một điều ước thông thường trải qua rất nhiều thủ tục rà soát,
tái rà soát của rất nhiều cơ quan nội bộ của một quốc gia để đảm bảo không có sai sót hay nhầm
lẫn. Thơng thường, các nhầm lẫn phát sinh liên quan đến thông tin địa lý và chủ yếu là các
bản đồ đính kèm hay đi theo các điều ước quốc tế.
- Điều 48 quy định 04 điều kiện để có thể viện dẫn căn cứ nhầm lẫn:
(1) thực tế hay tình huống bị nhầm lẫn đã tồn tại tại thời điểm ký kết điều ước,
(2) thực tế hay tình huống đó là cơ sở quan trọng để quốc gia đồng ý chịu ràng buộc,
(3) quốc gia đó khơng có hành vi dẫn đến sự nhầm lẫn, hoặc đã phải biết về khả năng có nhầm
lẫn (khoản 3, Điều 48), và
(4) sự nhầm lẫn không đơn thuần là sai sót câu chữ (khoản 4, Điều 48). Sai sót này sẽ được điều
chỉnh theo Điều 79.
- Một sai lầm chỉ liên quan đến soạn thảo văn bản của một điều ước sẽ không ảnh hưởng đến giá
trị hiệu lực của nó; trong trường hợp sẽ áp dụng Điều 79.
- Ví dụ:
+ Tóm tắt case: phán quyết năm 1962 của Tòa ICJ trong Vụ Đền Preah Vihear. Trong vụ việc
này, hai nước tranh chấp chủ quyền đối với Đền Preah Vihear. Hiệp ước giữa Pháp và Thái Lan
năm 1904 quy định đường biên giới ở khu vực liên quan sẽ theo đường dịng chảy (watershed),
sau đó một loạt bản đồ đã được vẽ năm 1907 theo câu chữ của Hiệp ước. Một trong các lập luận

của Thái Lan là có nhầm lẫn trong bản đồ thể hiện Campuchia có chủ quyền đối với Đền Preah
Vihear. Theo Thái Lan, đường biên giới vẽ trên bản đồ đó đã khơng thể hiện chính xác đường
dịng chảy (watershed line) trong khu vực xung quanh, và nếu vẽ đúng thì Đền Preah Vihear phải
nằm trên lãnh thổ của Thái Lan. Thái Lan không biết về sự nhầm lẫn đó. Do đó, bản đồ này
khơng có giá trị chứng minh chủ quyền của Campuchia.
+ Phán quyết của Tịa: “Có một quy định pháp lý đã được xác lập từ lâu rằng việc viện dẫn căn
cứ nhầm lẫn không thể được xem là một yếu tố để loại trừ sự đồng ý nếu bên viện dẫn đã góp
phần bằng chính hành vi của mình vào sự nhầm lẫn đó, hoặc đánh nhẽ đã có thể tránh sự nhầm
lẫn, hoặc nếu hoàn cảnh chứng minh rằng bên đó đáng nhẽ đã phải biết về khả năng bị nhầm
lẫn.”
Tòa cho rằng Thái Lan đã phải biết và đã tự góp phần vào sự nhầm lẫn này. Bản đồ thể hiện
rõ ràng một cách nổi bật rằng Đền Preah Vihear nằm bên lãnh thổ Thái Lan, mà không một ai
bên phía Thái Lan nhận thấy có nhầm lẫn gì, bao gồm cả người có thẩm quyền về phân định biên
giới ở khu vực đó! Và chính Thái Lan cũng lập luận rằng tính chất địa hình ở khu vực Đền rất dễ
để biết rằng bản đồ bị vẽ sai, vậy mà khơng một ai bên phía Thái Lan trong một thời gian dài
nhận thấy có sự nhầm lẫn. Do đó, viện dẫn nhầm lẫn khơng thể vơ hiệu bản đồ này được.
4. Lừa dối (Man trá)
- Điều 49 quy định: “Nếu một Quốc gia bị dụ dỗ ký kết một điều ước do hành vi lừa dối của một
Quốc gia tham gia đàm phán khác, Quốc gia đó có thể viện dẫn căn cứ lừa dối để vơ hiệu sự
đồng ý chịu ràng buộc đối với điều ước đó.”


- Hành vi lừa dối bao gồm tất cả các tuyên bố sai (false statements), thể hiện sai
(misrepresentation) hoặc các hành vi giả dối khác (other deceitful proceedings).
5. Tham nhũng bởi người đại diện quốc gia (Việc mua chuộc, nhận hối lộ đại diện của quốc
gia)
- Điều 50 quy định: “Nếu một Quốc gia thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc đối với một điều ước
là do có sự tham nhũng của người đại diện của Quốc gia này trực tiếp hoặc gián tiếp từ một Quốc
gia tham gia đàm phán khác, Quốc gia này có thể viện dẫn căn cứ tham nhũng đề vô hiệu sự
đồng ý chịu ràng buộc đối với điều ước đó.”

- Theo ILC, thực tế cho thấy khả năng người đại diện tham nhũng cao hơn so với khả năng bị đe
dọa để ký kết điều ước quốc tế. Theo ILC, để được xem là tham nhũng, các hành vi phải dẫn
đến có ảnh hưởng thực chất vào quyết định của người đại diện khi ký kết điều ước quốc tế
trên danh nghĩa quốc gia của mình. Các hành vi mang tính chất xã giao, hữu nghị hay ưu đãi
nhỏ mà một quốc gia thể hiện đối với người đại diện quốc gia khác không được xem là tham
nhũng. Trong Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng năm 2003 có quy định buộc các
quốc gia phải hình sự hóa tội hối lộ cơng chức nước ngồi và cơng chức của các tổ chức quốc tế
công (Điều 16).
6. Cưỡng ép người đại diện quốc gia
- Điều 51 quy định sự đồng ý chịu ràng buộc của một quốc gia sẽ khơng có bất kỳ giá trị pháp lý
nào nếu sự đồng ý đó là do người đại diện bị cưỡng ép bằng các hành vi hoặc đe dọa trực tiếp
chống lại người đó. Thực tế trước năm 1945, cho thấy nhiều điều ước được ký do đe dọa người
đàm phán.
- Cách diễn đạt ở Điều 51 “khơng có bất kỳ giá trị pháp lý nào” thể hiện rõ rằng hành vi cưỡng
ép có tính chất rất nghiêm trọng và Điều 51 nhằm vơ hiệu một cách tuyệt đối các điều ước quốc
tế như thế. Đây là điểm khác biệt với các Điều 48, 49, và 50 nêu trên. Nếu có nhầm lẫn, lừa dối
hay tham nhũng, quốc gia có quyền lựa chọn viện dẫn hay không viện dẫn để vô hiệu điều ước.
Trong khi đó, Điều 51 trực tiếp vơ hiệu điều ước ký kết do người đại diện bị cưỡng ép. Đương
nhiên, chính quốc gia có người đại diện bị cưỡng ép mới là người quyết định làm sáng tỏ hay
không việc bị cưỡng ép.
7. Cưỡng ép quốc gia bằng việc sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực
- Tương tự như Điều 51, Điều 52 quy định nếu sự đồng ý chịu rằng buộc là kết quả của việc một
quốc gia bị cưỡng ép bằng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực thì “sẽ khơng có bất kỳ giá trị pháp
lý nào.”
- Đối tượng bị cưỡng ép ở Điều 51 là người đại diện; còn ở Điều 52 là quốc gia . Trước khi
Hội quốc liên ra đời, việc một điều ước được ký kết do bị cưỡng ép bằng vũ lực hay đe dọa sử
dụng vũ lực vẫn có hiệu lực. Như vậy, ví dụ như điều ước bất bình đẳng mà Nhà Nguyễn ký với
Pháp vào thế kỷ XIX vẫn có hiệu lực. Cũng lưu ý rằng luật pháp quốc tế hiện nay có nguồn gốc
từ phương Tây và cho đến tận bây giờ vẫn chịu ảnh hưởng chủ yếu của quan điểm phương Tây.
Do đó, khơng khó hiểu khi ILC cho rằng các điều ước ký kết do cưỡng ép vẫn có hiệu lực.

Nhưng từ sau đó, đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, quan điểm truyền thống này đã bị
thay thế. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã nghiêm cấm hành vi sử dụng vũ lực hay đe
dọa sử dụng vũ lực.


8. Xung đột với một quy phạm mệnh lệnh bắt buộc của luật quốc tế chung
- Điều 53 quy định một điều ước sẽ vô hiệu khi tại thời điểm ký kết, điều ước đó xung đột với
một vi phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (jus cogens). Quy phạm jus cogens được định nghĩa là:
“một quy phạm được toàn thể cộng đồng quốc tế chấp nhận và công nhận như một quy phạm mà
khơng có bất kỳ loại trừ nào được phép tồn tại và chỉ có thể được sửa đổi bằng một quy phạm
sau này của luật pháp quốc tế chung có cùng tính chất.”
- Thuật ngữ jus cogens được hiểu nghĩa đen là luật ưu thế (compelling law). Do quy phạm jus
cogens có hiệu lực pháp lý cao nhất, hơn hẳn mọi quy phạm pháp lý quốc tế khác, do đó, khơng
cho phép bất kỳ điều ước quốc tế nào được phép có quy định trái ngược. Một điểm lưu ý là Điều
53 quy định trường hợp điều ước được ký kết xung đột với một quy phạm jus cogens đã tồn tại
tại thời điểm ký kết; Điều 61 quy định trường hợp điều ước bị hủy bỏ khi xung đột với một quy
phạm jus cogens hình thành sau thời điểm có hiệu lực của điều ước.
* SO SÁNH vô hiệu điều ước và hủy bỏ thi hành điều ước.
- Thứ nhất, về bản chất pháp lý. Điều ước bị vô hiệu được xem như chưa từng tồn tại. Điều ước
bị hủy bỏ vẫn được xem là tồn tại trong giai đoạn từ khi có hiệu lực đến khi bị hủy bỏ.
- Thứ hai, khác nhau về căn cứ pháp lý. Công ước Viên cho phép một quốc gia có thể hủy bỏ,
đình chỉ thi hành điều ước theo chính quy định của điều ước đó hoặc theo quy định của Công
ước. Vô hiệu điều ước quốc tế chỉ có thể theo quy định của Cơng ước Viên.
- Thứ ba, khác nhau về hệ quả pháp lý. Vô hiệu điều ước làm cho các bên có quyền yêu cầu tái
lập lại nguyên trạng trước khi có điều ước, trong khi đó, hủy bỏ điều ước khơng ảnh hưởng đến
những quyền, nghĩa vụ, tình trạng pháp lý đã thực hiện điều ước trước khi bị hủy bỏ
● Hệ quả pháp lý
Cơng ước Viên năm 1969 có hai quy định về hệ quả của điều ước quốc tế bị vô hiệu. Điều 69
quy định chung, Điều 71 quy định trường hợp vô hiệu do xung đột với quy phạm jus cogens.
Điều 69(1) quy định nguyên tắc rằng điều ước quốc tế bị vơ hiệu thì các quy định của điều ước

đó sẽ khơng có hiệu lực pháp lý. Khơng có hiệu lực pháp lý tính từ ngày điều ước được ký kết,
chứ không phải từ ngày bị vô hiệu, bởi vì, khác với hủy bỏ điều ước, vơ hiệu điều ước có nghĩa
là khơng có giá trị pháp lý ngay từ đầu (ab initio).[21] Nói một cách đơn giản, điều ước bị vô
hiệu về bản chất, ngay từ đầu đã không phải là điều ước quốc tế đối với quốc gia viện dẫn vô
hiệu, và ngay từ đầu đã không thể phát sinh bất kỳ hiệu lực pháp lý đối với quốc gia đó.
Theo khoản 2(60), đối với những hành vi đã được thực hiện trước khi bị vô hiệu, (a) mỗi bên có
thể được yêu cầu các bên khác trong khả năng của mình tái lập lại nguyên trạng như trước khi có
hành vi. Tuy nhiên, (b) các hành vi được thực hiện một cách thiện chí sẽ khơng được xem là bất
hợp pháp chỉ vì điều ước bị vô hiệu. Hai quy định ở khoản 2 nêu trên sẽ khơng áp dụng đối với
bên đã có hành vi lừa dối, tham nhũng hay cưỡng theo theo Điều 49, 50, 51 và 52.[22] Các quốc
gia có hành vi như thế là bên sai phạm một cách khơng có thiện chí, do đó, bên sai phạm khơng
thể hưởng lợi từ hành vi sai phạm của chính mình. Cũng lưu ý rằng các quy định ở Điều 60
không ảnh hưởng đến vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế nếu phát sinh cho quốc gia sai phạm.
[23]


Khoản 4, Điều 60 quy định trường hợp điều ước đa phương chỉ bị một bên vô hiệu. Trong trường
hợp đó, các quy định trên chỉ áp dụng trong quan hệ giữa quốc gia viện dẫn vô hiệu và các quốc
gia khác. Điều ước đa phương vẫn tồn tại và có hiệu lực với các bên cịn lại. Bởi vì, bản chất của
vô hiệu điều ước quốc tế chỉ là vô hiệu sự đồng ý chịu ràng buộc của một quốc gia đối với điều
ước đó.
Điều 71(1) quy định, nếu điều ước vô hiệu do xung đột với quy phạm jus cogens thì các bên phải
loại bỏ tốt nhất có thể các hệ quả phát sinh từ bất kỳ hành vi nào được thực hiện dựa trên các quy
định xung đột với quy phạm jus cogens, và bản đảm quan hệ điều ước giữa các bên phù hợp với
quy phạm này. Điều 71(2) quy định trường hợp hủy bỏ điều ước do xung đột với jus cogens theo
Điều 64 (sẽ nhắc đến trong bài sau về Hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước quốc tế).
TOPIC 7: Trình bày và phân tích nội dung chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế; rút khỏi
điều ước quốc tế; từ bỏ chấp nhận sự ràng buộc của điều ước (có liên hệ với pháp luật Việt
Nam).
Trong Công ước Viên, các thuật ngữ sau đây được sử dụng tương đương nhau do cùng làm phát

sinh hệ quả pháp lý giống nhau – điều ước quốc tế khơng cịn hiệu lực ràng buộc -: hủy bỏ, chấm
dứt hiệu lực (termination), bãi ước (denunciation), rút khỏi điều ước (withdrawal).
Công ước Viên 1969
-

Việc chấm dứt, từ bỏ hoặc rút khỏi một điều ước của một bên sẽ khơng thể có cơ sở nếu
khơng phải là kết quả của việc áp dụng các quy định của điều ước đó hoặc của Cơng ước
này (Điều 42)

-

Hồn tồn khơng làm tổn hại đến nhiệm vụ phải thi hành mọi nghĩa vụ nêu trong điều
ước được luật quốc tế quy định (khơng phụ thuộc vào điều ước đó) (điều 43)

Trong vụ việc Nicaragua v. United States, tòa ICJ đã tuyên bố rằng “Thực tế là […] các nguyên
tắc […] đã được hệ thống hóa hoặc thể hiện trong các cơng ước đa phương khơng có nghĩa là
chúng ngừng tồn tại và áp dụng như các nguyên tắc của luật tục, ngay cả đối với các quốc gia là
thành viên của các cơng ước đó. Các ngun tắc […] tiếp tục có giá trị ràng buộc như một phần
của luật tục quốc tế, bất chấp sự vận hành của các quy định của luật thông thường mà chúng đã
được đưa vào. ”
-

Một quốc gia sẽ mất quyền nêu lên lý do làm vơ hiệu, chấm dứt, rút khỏi hoặc tạm đình
chỉ việc thi hành một điều ước nếu sau khi biết rõ các sự kiện, quốc gia đó vẫn: a) Chấp
thuận một cách rõ ràng rằng điều ước, tùy từng trường hợp, là có giá trị, cịn hiệu lực
hoặc tiếp tục việc thi hành điều ước đó; hoặc b) Biểu hiện thái độ, tùy từng trường hợp,
đã chấp thuận là điều ước vẫn có giá trị, tiếp tục có hiệu lực hoặc tiếp tục được thi hành.
(điều 45)



Căn cứ để chấm dứt, từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước
Theo thỏa thuận của các quốc gia:
-

Được ghi nhận trong các quy định của hiệp ước hoặc do sự thỏa thuận của tất cả các bên
đạt được sau đó (Điều 54 và 57)

-

Trường hợp điều ước quốc tế không có quy định, và cũng khơng có sự chấp nhận của tất
cả các bên thì sự thỏa thuận của các quốc gia có thể xác lập một cách ngầm định, gián
tiếp. Việc hủy bỏ, bãi ước hay rút khỏi điều ước chỉ có thể nếu (a) có bằng chứng cho
thấy các bên đã ngầm thừa nhận khả năng hủy bỏ, hoặc (b) bản chất của điều ước ngầm
cho phép hủy bỏ, rút khỏi điều ước. Về thủ tục, quốc gia muốn hủy bỏ điều ước phải
thông báo trước 12 tháng. (Điều 56)

-

Trường hợp một điều ước bị hủy bỏ, đình chỉ thi hành do các quốc gia thành viên ký kết
một điều ước mới điều chỉnh cùng một vấn đề. Sự thỏa thuận về hủy bỏ, đình chỉ được
thể hiện ngầm định, gián tiếp qua việc ký kết điều ước mới hoặc có sự thể hiện rõ bằng
cách khác rằng đó là ý định của các bên. (Điều 59)

Theo quy định của Công ước Viên:
-

Vi phạm nghiêm trọng của 1 bên (Điều 60)

+ Đối với điều ước song phương, theo Điều 60(1), một bên có quyền viện dẫn vi phạm
nghiêm trọng điều ước của bên còn lại làm căn cứ để hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước.

Quốc gia bị vi phạm có quyền lựa chọn hoặc hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành điều ước;
trường hợp đình chỉ thi hành, có thể tồn bộ điều ước hoặc một phần điều ước.
+ Đối với điều ước đa phương, nếu muốn hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước, Điều 60(2)(a)
quy định cần phải có ‘thỏa thuận đồng thuận’ của tất cả các bên cịn lại. Hủy bỏ, đình chỉ
thi hành điều ước có thể hoặc chỉ giới hạn trong quan hệ với riêng quốc gia vi phạm
(quốc gia vi phạm khơng cịn là thành viên của điều ước; điều ước tiếp tục tồn tại trong
quan hệ với các quốc gia còn lại) hoặc trong quan hệ với tất cả các bên (hủy bỏ hồn tồn
điều ước)
Nếu khơng thể đạt được thỏa thuận đồng thuận, một bên còn lại chỉ có thể đình chỉ thi hành
điều ước trong quan hệ giữa bên đó với bên vi phạm. Tuy nhiên quyền đình chỉ thi hành này
chỉ có thể được viện dẫn nếu bên đó thuộc là bên bị đặc biệt ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm
(Điều 60(2)(b)). Nếu không là một bên đặc biệt bị ảnh hưởng, Điều 60(2)(c) cho phép quyền
đình chỉ thi hành có thể được viện dẫn nếu điều ước bị vi phạm là một điều ước “về bản chất,
một bên vi phạm nghiêm trọng điều khoản của điều ước đó thì sẽ làm thay đổi lớn vị thế của
mỗi thành viên trong việc tiếp tục thực thi nghĩa vụ của họ theo điều ước.” Đây là trường hợp


các điều ước liên quan đến giải trừ quân bị. Đối với các điều ước này, vi phạm nghiêm trọng
của một bên sẽ đặt tất cả các bên khác vào vị thế không thể tiếp tục thực thi điều ước đó.
+ Khoản 3 Điều 60 định nghĩa về vi phạm nghiêm trọng. Vi phạm nghiêm trọng là (a) việc
không thực thi điều ước quốc tế trái với quy định của Cơng ước này, hoặc (b) vi phạm
một quy định có tầm quan trọng trong việc đạt được mục đích và đối tượng của điều ước
quốc tế.
+ Quyền hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước song phương và đa phương nêu trên không
phương hại đến các quy định của điều ước được áp dụng trong trường hợp vi phạm và
không được áp dụng đối với trường hợp liên quan đến các quy định về bảo vệ con người
trong các điều ước nhân đạo. Ngoại lệ để bảo đảm mục đích nhân đạo như trong các
Công ước Geneva về bảo vệ dân thường, tù binh chiến tranh và thương bệnh binh trong
xung đột vũ trang. (Khoản 4,5)
Vụ liên quan đến Dự án Gavcikovo – Nagymaros giữa Hungary và Slovakia. Do Hiệp định được

ký kết trước khi Cơng ước Viên 1969 có hiệu lực, Tòa xác định luật áp dụng sẽ là các quy định
tập quán quốc tế như được phản ánh ở Điều 60, 61 và 62 của Công ước Viên 1969. Hungary cho
rằng việc Tiệp Khắc đơn phương xây dựng dự án Variant C để vận hành riêng hệ thống đập là vi
phạm nghiêm trọng Hiệp định Budapest. Slovakia bác bỏ và cho rằng dự án Variant C thực chất
là giải pháp khả thi nhất để thực thi Hiệp định Budapest trong bối cảnh Hungary đình chỉ thực
hiện phần việc của mình. Tịa bác bỏ lập luận của Hungary ở hai điểm: (1) Hungary hủy bỏ Hiệp
định trước khi Variant C được vận hành để điều chỉnh dịng chảy sơng Danube (việc xây dựng
Variant C không vi phạm Hiệp định); (2) Hungary khơng cịn quyền để hủy bỏ do chính Hungary
vi phạm trước Hiệp định do đã đình chỉ, từ bỏ thực hiện phần việc của mình trước đó.
-

Khơng có khả năng tiếp tục thi hành điều (Điều 61)

+ Điều 61(1) quy định một bên có quyền việc dẫn căn cứ khơng cịn khả năng thực thi để
hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước. Phải thỏa mãn 2 điều kiện: (a) tình trạng khơng cịn khả
năng thực thi là hệ quả của việc biến mất, phá hủy lâu dài một đối tượng không thể thiếu cho
việc thực thi điều ước(phải là một đối tượng hữu hình, ví dụ một hịn đảo bị chìm, một con
sơng bị khơ cạn, vỡ đập nước, nhà máy thủy điện,... Điều ước về hợp tác phát triển kinh tế
một hòn đảo hay xây dựng một nhà máy điện trên một con sông sẽ không thể thực thi được
nếu hịn đảo đó bị nhấn chìm do động đất, con sơng đó bị khơ cạn do biến đổi khí hậu.) và (b)
tình trạng này khơng phải gây ra bởi vi phạm của bên muốn hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều
ước đó (1 bên khơng thể hưởng lợi từ vi phạm của chính mình).
Ø Hungary cho rằng khơng cịn khả năng thực thi Hiệp định Budapest do Hiệp định này đã
mất đi “đối tượng không thể thiếu đề thực thi điều ước” là mục đích của Hiệp định khi ký
kết: Xây dựng, vận hành một dự án đầu tư chung vì mục đích kinh tế đồng thời bảo vệ
môi trường. Những kiến thức mới về môi trường cho thấy việc tiếp tục thực hiện dự án sẽ


gây ra tổn hại môi trường không thể khắc phục được. Hungary cho rằng “đối tượng”
trong Điều 61 bao gồm không chỉ đối tượng vật chất mà cả đối tượng vơ hình. Slovakia

cho rằng Điều 61 chỉ áp dụng cho đối tượng hữu hình. Tịa khơng có ý kiến rõ ràng liệu
“đối tượng” trong Điều 60 có bao quát cả các đối tượng vơ hình hay khơng.
-

Thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Điều 62) - rebus sic stantibus

+ Điều kiện để viện dẫn sự thay đổi cơ bản của hồn cảnh nhằm hủy bỏ, đình chỉ thi hành
điều ước:
o Có sự thay đổi giữa hồn cảnh lúc ký kết và hồn cảnh sau đó;
o Sự thay đổi đó phải mang tính cơ bản
o Sự thay đổi đó khơng được các bên biết trước
o Hoàn cảnh bị thay đổi là căn cứ quan trọng để các bên chấp nhận chịu ràng buộc
đối với điều ước;
o Sự thay đổi đó làm biến đổi đáng kể phạm vi nghĩa vụ sẽ được thực thi theo điều
ước.
Hungary đã viện dẫn 05 căn cứ để biện minh cho việc hủy bỏ Hiệp định Budapest: tình trạng cấp
thiết, khơng cịn khả năng thực thi, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh, vi phạm nghiêm trọng từ
phía Tiệp Khắc, và các phát triển mới trong luật mơi trường quốc tế.
Hungary cho rằng hồn cảnh ký kết Hiệp định Budapest năm 1977 rất khác so với bấy giờ. Năm
1977, Hiệp định được ký kết trên tinh thần “đoàn kết xã hội chủ nghĩa” giữa hai nước cộng sản,
tinh thần này khơng cịn tồn tại và khơng phù hợp với kinh tế thị trường sau khi hai nước tiến
hành cải cách, việc xây dựng riêng Variant C của Tiệp Khắc làm cho hệ thống đập được dự trù
khơng cịn thống nhất và tồn vẹn như dự kiến, Hiệp định này khơng cịn thỏa mãn điều kiện bảo
vệ môi trường theo các quy định mới của luật môi trường quốc tế. Slovakia cho rằng ít nhất, điều
kiện ở Điều 62(1)(b) yêu cầu sự thay đổi đó phải làm thay đổi bản chất của nghĩa vụ theo điều
ước. Tòa khơng chấp nhận lập luận của Hungary bởi vì khơng trực tiếp liên quan đến Hiệp định,
khơng thể nói là không dự kiến trước, không làm thay đổi cơ bản phạm vi nghĩa vụ các bên. Hơn
nữa, Hiệp định lại có sẵn các quy định để các bên có thể điều chỉnh theo tình hình thực tế.
+ Điều 62(2) quy định trường hợp ngoại lệ không áp dụng rebus sic stantibus: (a) điều ước
xác định biên giới, bao gồm cả điều ước hoạch định biên giới và chuyển nhượng lãnh thổ,

hoặc (b) sự thay đổi là hệ quả của việc vi phạm điều ước.
-

Sự xuất hiện của quy phạm jus cogens mới (Điều 64)


Quy phạm jus cogens là quy phạm có hiệu lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ thống luật pháp
quốc tế. Nếu một điều ước được ký kết xung đột với một quy phạm jus cogens thì sẽ bị vô hiệu
(Điều 53). Nếu điều ước đã tồn tại và sau đó một quy phạm jus cogens có nội dung trái ngược
với điều ước mới xuất hiện, thì điều ước đó sẽ bị hủy bỏ (Điều 64).
=> Luật điều ước quốc tế đặt ra điều kiện rất cao để có thể hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước.
Tinh thần chung là duy trì ổn định hệ thống điều ước quốc tế, tránh tối đa trường hợp điều ước
bị hủy bỏ hay đình chỉ thi hành.
Những điều đó khơng phải là cơ sở để…
- Giảm số lượng các bên tham gia điều ước đa phương xuống dưới số lượng cần thiết để nó
có hiệu lực (Điều 55)
-

Chấm dứt quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự (Điều 63)

Thủ tục (Điều 65 - 68)
- Có nhiệm vụ thơng báo trước cho các bên bằng văn bản và phải ghi rõ các biện pháp dự
định thực hiện đối với điều ước và lý do áp dụng các biện pháp đó. (Điều 65, 67)
- Giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc phản đối thơng báo chấm dứt hoặc đình chỉ
hoạt động của điều ước có thể thơng qua tư pháp, trọng tài và hòa giải. (điều 66)
Hậu quả (Điều 70 - 72)
-

Giải phóng các bên khỏi bất kỳ nghĩa vụ phải tiếp tục thi hành điều ước


- Không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền, nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý của các bên được
tạo ra thông qua việc thi hành điều ước trước khi chấm dứt hoặc đình chỉ hoạt động của điều
ước.
-

Hậu quả đặc biệt trong trường hợp liên quan đến quy phạm jus cogens (Điều 71).

+ Miễn trừ cho các bên nghĩa vụ phải tiếp tục thi hành điều ước;
+ Không xâm phạm đến bất kỳ quyền, nghĩa vụ hoặc tình huống pháp lý nào của các bên
được tạo do việc thi hành điều ước trước khi điều ước chấm dứt; tuy nhiên những quyền,
nghĩa vụ và tình huống pháp lý này chỉ có thể duy trì trong những chừng mực mà bản thân
của việc duy trì đó khơng xung đột với quy phạm mới bắt buộc của pháp luật quốc tế chung.
So sánh với Luật ĐƯQT 2016


· Từ bỏ hoặc rút khỏi điều ước quốc tế là hành vi pháp lý do Quốc hội, Chủ tịch nước hoặc
Chính phủ thực hiện để từ bỏ việc chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối với nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Khoản 18 điều 2)
· Điều 55 quy định về Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế:
- Thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam
và bên ký kết nước ngoài.
-

Thẩm quyền:

+ Quốc hội quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế mà Quốc hội phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định tạm đình chỉ thực hiện điều
ước quốc tế do Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định ký và Quốc hội phê chuẩn, sau đó báo cáo

Quốc hội tại kỳ họp gần nhất;
+ Chủ tịch nước quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều
ước quốc tế mà Chủ tịch nước phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập;
+ Chính phủ quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế mà Chính phủ quyết định phê duyệt, gia nhập hoặc ký nhưng không phải phê chuẩn,
phê duyệt.
·

Thủ tục đối ngoại (điều 68)

- Bộ Ngoại giao phối hợp với cơ quan đề xuất thông báo cho bên ký kết nước ngoài về việc
chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế song phương
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ký thông báo về việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm
đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế đa phương gửi cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế đa
phương.
So sánh với Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005
·

Quy định cụ thể về các trường hợp rút khỏi điều ước quốc tế (Điều 85)

a) Theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo thỏa thuận của toàn bộ thành viên điều ước
quốc tế đó;
b) Có điều ước quốc tế được ký kết sau quy định về cùng một nội dung với điều ước quốc tế đó;


c) Do hậu quả của việc vi phạm điều ước quốc tế đó;
d) Do đối tượng điều chỉnh của điều ước quốc tế đó khơng cịn tồn tại hoặc bị hủy bỏ;
đ) Do sự thay đổi cơ bản hoàn cảnh khi ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế làm ảnh hưởng
đến việc thực hiện điều ước quốc tế đó;
e) Do cắt quan hệ ngoại giao hoặc quan hệ lãnh sự;

g) Do xung đột với một quy phạm bắt buộc mới được hình thành của pháp luật quốc tế.
TOPIC 8 : Phân tích và so sánh các khái niệm “Thực thi và áp dụng điều ước quốc tế” (có
liên hệ với khái niệm thi hành và áp dụng pháp luật quốc gia/liên hệ với Việt Nam).
I.
II.

Thực thi điều ước quốc tế

TOPIC 9 : Phân tích, so sánh giữa các chế định áp dụng tạm thời điều ước quốc tế; tạm
đình chỉ thi hành; đình chỉ thi hành điều ước quốc tế theo Cơng ước Viên 1969 (có liên hệ
với Việt Nam).
9.1. Công ước viên
Điều 25. Việc thi hành tạm thời
1. Một điều ước hoặc một phần của một điều ước sẽ được tạm thời thi hành trước ngày có hiệu
lực:
a) Nếu điều ước có quy định như thế; hoặc
b) Nếu những quốc gia tham gia đàm phán đã có thỏa thuận như thế bằng một cách khác.
2. Việc tạm thời thi hành một điều ước hoặc một phần của một điều ước đối với một quốc gia sẽ
chấm dứt nếu quốc gia này thông báo cho các quốc gia khác cùng tạm thời thi hành điều ước ý
định của mình khơng muốn trở thành một bên của điều ước đó, trừ khi có quy định khác hoặc
các quốc gia tham gia đàm phán đã thỏa thuận một cách khác.
Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng tạm thời sẽ được quy định trong chính hiệp ước, hoặc trong một
thỏa thuận riêng được ký kết giữa các Quốc gia liên quan khi đàm phán và thông qua văn bản.
Việc áp dụng tạm thời cũng có thể xảy ra giữa các Quốc gia nhất định và ngay cả khi hiệp ước đã
có hiệu lực giữa các Quốc gia khác.
Một Quốc gia chấp nhận áp dụng tạm thời cuối cùng có thể quyết định không trở thành một bên
của hiệp ước. Điều khoản này cung cấp sự bảo vệ đặc biệt cho Quốc gia mà cơ quan lập pháp
trong nước không phê chuẩn hiệp ước đang được áp dụng tạm thời. QG phải thông báo với các
QG khác về ý định không trở thành một bên của hiệp ước.
Đình chỉ thi hành theo quy định của công ước viên

a) Do vi phạm nghiêm trọng của 1 bên (điều 60)


Đối với điều ước song phương, theo Điều 60(1), một bên có quyền viện dẫn vi phạm nghiêm
trọng điều ước của bên còn lại làm căn cứ để hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước. Quốc gia bị vi
phạm có quyền lựa chọn hoặc hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành điều ước; trường hợp đình chỉ thi
hành, có thể toàn bộ điều ước hoặc một phần điều ước.
Đối với điều ước đa phương, nếu muốn hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều ước, Điều 60(2)(a) quy
định cần phải có ‘thỏa thuận đồng thuận’ (unanimous agreement) của tất cả các bên cịn lại. Hủy
bỏ, đình chỉ thi hành điều ước có thể hoặc chỉ giới hạn trong quan hệ với riêng quốc gia vi phạm
(quốc gia vi phạm không còn là thành viên của điều ước; điều ước tiếp tục tồn tại trong quan hệ
với các quốc gia còn lại) hoặc trong quan hệ với tất cả các bên (hủy bỏ hồn tồn điều ước quốc
tế). Nói cách khác, các quốc gia cịn lại có quyền quyết định hủy bỏ, đình chỉ hồn tồn điều ước
hoặc chỉ riêng với quốc gia vi phạm.
Nếu không thể đạt được thỏa thuận đồng thuận, một bên cịn lại chỉ có thể đình chỉ thi hành điều
ước trong quan hệ giữa bên đó với bên vi phạm. Từng quốc gia riêng lẻ không có quyền hủy bỏ
điều ước đa phương do một bên vi phạm, bởi lợi ích của các quốc gia khác cần phải tính đến.[5]
Nhưng, quyền đình chỉ thi hành này chỉ có thể được viện dẫn nếu bên đó thuộc là bên bị đặc biệt
ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm (Điều 60(2)(b)). Nếu không là một bên đặc biệt bị ảnh hưởng,
Điều 60(2)(c) cho phép quyền đình chỉ thi hành có thể được viện dẫn nếu điều ước bị vi phạm là
một điều ước “về bản chất, một bên vi phạm nghiêm trọng điều khoản của điều ước đó thì sẽ làm
thay đổi lớn (radical changes) vị thế của mỗi thành viên trong việc tiếp tục thực thi nghĩa vụ của
họ theo điều ước.” Đây là trường hợp các điều ước liên quan đến giải trừ quân bị.[6] Đối với các
điều ước này, vi phạm nghiêm trọng của một bên sẽ đặt tất cả các bên khác vào vị thế khơng thể
tiếp tục thực thi điều ước đó. Giả sử, Mỹ hay Nga vi phạm thỏa thuận hạn chế đầu đạn hạt nhân
thì việc bên cịn lại tiếp tục thực thi thỏa thuận đó sẽ đặt bên đó vào nguy cơ an ninh nghiêm
trọng và lâu dài.
Vi phạm nghiêm trọng (a material breach) là (a) việc không thực thi điều ước quốc tế trái với quy
định của Công ước này, hoặc (b) vi phạm một quy định có tầm quan trọng trong việc đạt được
mục đích và đối tượng của điều ước quốc tế. Ví dụ một vi phạm quy định mang tính chất phụ trợ

như ngăn cản thanh sát viên quốc tế thực thi quyền hạn theo Công ước chống Vũ khí hóa học là
một vi phạm nghiêm trọng do cơ chế thanh sát là biện pháp trọng tâm để giám sát thực thi Công
nước này.
Quyền này không được áp dụng đối với trường hợp liên quan đến các quy định về bảo vệ con
người trong các điều ước nhân đạo.[9] Ngoại lệ này là cần thiết để bảo đảm mục đích nhân đạo
như trong các Cơng ước Geneva về bảo vệ dân thường, tù binh chiến tranh và thương bệnh binh
trong xung đột vũ trang. Nếu cho phép hủy bỏ, đình chỉ thi hành các điều ước này khi một bên vi
phạm sẽ dẫn đến thiệt hại lớn hơn về nhân mạng. Điều 60 cũng không ảnh hưởng đến các quy
định khác của luật quốc tế áp dụng cho trường hợp vi phạm điều ước, như các quy định về trách
nhiệm quốc gia.
b) Do k còn khả năng thực thi (supervening impossibility of performance) (điều 61)
Có hai điều kiện cần phải thỏa mãn:
(a) tình trạng khơng cịn khả năng thực thi là hệ quả của việc biến mất, phá hủy lâu dài một đối
tượng không thể thiếu cho việc thực thi điều ước, và


(b) tình trạng này khơng phải gây ra bởi vi phạm của bên muốn hủy bỏ, đình chỉ thi hành điều
ước đó.
Ví dụ: Đối tượng khơng thể thiếu cho việc thực thi điều ước phải là một đối tượng hữu hình, ví
dụ một hịn đảo bị chìm, một con sơng bị khô cạn, vỡ đập nước, nhà máy thủy điện,… chẳng
hạn.[11] Điều ước về hợp tác phát triển kinh tế một hòn đảo hay xây dựng một nhà máy điện trên
một con song sẽ không thể thực thi được nếu hịn đảo đó bị nhấn chìm do động đất, con sơng đó
bị khơ cạn do biến đổi khí hậu.
Điều kiện thứ hai là cụ thể hóa của nguyên tắc một bên khơng thể hưởng lợi từ vi phạm
của chính mình.
Trong một số trường hợp, tình trạng khơng cịn khả năng thực thi điều ước có thể trùng hợp với
sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo Điều 62 bên dưới. Bởi vì, việc mất đi đối tượng cần thiết
để thực thi điều ước cũng là một dạng thay đổi cơ bản của hồn cảnh.
c) do có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (rebus sic stantibus) (điều 63)
Cần thỏa mãn tất cả 05 điều kiện sau:


Có sự thay đổi (change) giữa hoàn cảnh lúc ký kết và hoàn cảnh sau đó;

Sự thay đổi đó phải mang tính cơ bản (fundamental);

Sự thay đổi đó khơng được các bên biết trước (not foreseen);

Hồn cảnh bị thay đổi là căn cứ quan trọng (essential basis) để các bên chấp nhận chịu
ràng buộc đối với điều ước; và

Sự thay đổi đó làm biến đổi đáng kể (radically transform) phạm vi nghĩa vụ sẽ được thực
thi theo điều ước.
Việc sử dụng cấu trúc câu “không thể viện dẫn … trừ khi… “ cho thấy, về nguyên tắc, không thể
viện dẫn Điều 62 trừ trường hợp ngoại lệ. tránh tối đa trường hợp điều ước bị hủy bỏ hay đình
chỉ thi hành.
Điều 62(2) quy định trường hợp ngoại lệ không áp dụng rebus sic stantibus:
(a) điều ước xác định biên giới, bao gồm cả điều ước hoạch định biên giới và chuyển nhượng
lãnh thổ,hoặc
(b) sự thay đổi là hệ quả của việc vi phạm điều ước. Điểm (b) phù hợp với nguyên tắc một bên
không thể hưởng lợi từ hành vi vi phạm của mình.
d) do xung đột với quy phạm jus cogens mới xuất hiện
Quy phạm jus cogens là quy phạm có hiệu lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ thống luật pháp
quốc tế. Nếu một điều ước được ký kết xung đột với một quy phạm jus cogens thì sẽ bị vô hiệu
(Điều 53). Nếu điều ước đã tồn tại và sau đó một quy phạm jus cogens có nội dung trái ngược
với điều ước mới xuất hiện, thì điều ước đó sẽ bị hủy bỏ (Điều 64). Có thể thấy Điều 53 điều
chỉnh trường hợp quy phạm jus cogens đã tồn tại tại thời điểm ký kết điều ước, còn Điều 64 điều
chỉnh trường hợp quy phạm jus cogens xuất hiện sau. Điều 53 quy định để một quy phạm jus
cogens hình thành cần được sự chấp nhận của tồn thể cộng đồng quốc tế khơng cho phép loại
trừ.
Ví dụ: Vụ Dự án đập Gavcikovo – Nagymaros (Hungary v Slovakia)

Hungary viễn đẫn những điều khoản sau


- điều 60: Tiệp Khắc đơn phương xây dựng dự án Variant C để vận hành riêng hệ thống đập là vi
phạm nghiêm trọng Hiệp định Budapest. Tòa bác bỏ lập luận của Hungary ở hai điểm: (1)
Hungray hủy bỏ Hiệp định trước khi Variant C được vận hành để điều chỉnh dịng chảy sơng
Danube (việc xây dựng Variant C khơng vi phạm Hiệp định); (2) Hungary khơng cịn quyền để
hủy bỏ do chính Hungary vi phạm trước Hiệp định do đã đình chỉ, từ bỏ thực hiện phần việc của
mình trước đó.[22] Điểm thứ hai là khơng có trong quy định của Điều 60 Cơng ước Viên, do đó,
cần được xem là một điều kiện theo tập quán quốc tế được xác định theo án lệ quốc tế phù hợp
với nguyên tắc một bên không thể hưởng lợi từ vi phạm của mình
- điều 61: Hungary cho rằng khơng còn khả năng thực thi Hiệp định Budapest do Hiệp định này
đã mất đi “đối tượng không thể thiếu đề thực thi điều ước”. Đối tượng này chính là mục đích của
Hiệp định khi ký kết: Xây dựng, vận hành một dự án đầu tư chung vì mục đích kinh tế đồng thời
bảo vệ môi trường. Những kiến thức mới về môi trường cho thấy việc tiếp tục thực hiện dự án sẽ
gây ra tổn hại môi trường không thể khắc phục được. Hungary cho rằng “đối tượng” trong Điều
61 bao gồm không chỉ đối tượng vật chất (physical objects) mà cả đối tượng vơ hình, ví dụ như
“một tình trạng pháp lý là căn cứ để xác lập các quyền và nghĩa vụ”. Slovakia cho rằng Điều 61
chỉ áp dụng cho đối tượng hữu hình. Tịa cho rằng theo Điều 60(2), Hungary khơng cịn quyền
đển viện dẫn Điều 60 vì nước này đã vi phạm trước Hiệp định do đình chỉ, từ bỏ thực thi phần
việc của mình.
- điều 62: Hungary cho rằng hoàn cảnh lú ký kết Hiệp định Budapest năm 1977 rất khác so với
bấy giờ. 1977, tinh thần “đoàn kết xã hội chủ nghĩa” (socialist integration) giữa hai nước cộng
sản, tinh thần này khơng cịn tồn tại và không phù hợp với kinh tế thị trường sau khi hai nước
tiến hành cải cách, việc xây dựng riêng Variant C của Tiệp Khắc làm cho hệ thống đập được dự
trù khơng cịn thống nhất và tồn vẹn như dự kiến, Hiệp định này khơng cịn thỏa mản điều kiện
bao vệ môi trường theo các quy định mới của luật mơi trường quốc tế. Slovakia cho rằng ít nhất,
điều kiện ở Điều 62(1)(b) yêu cầu sự thay đổi đó phải làm thay đổi bản chất của nghĩa vụ theo
điều ước. Tịa khơng chấp nhận lập luận của Hungary bởi vì khơng trực tiếp liên quan đến Hiệp
định, khơng thể nói là khơng dự kiến trước, khơng làm thay đổi cơ bản phạm vi nghĩa vụ các

bên.[27] Hơn nữa, Hiệp định lại có sẵn các quy định để các bên có thể điều chỉnh theo tình hình
thực tế.
9.2. VN
Điều 53. Áp dụng tạm thời điều ước quốc tế
1. Điều ước quốc tế hoặc một phần của điều ước quốc tế có thể được áp dụng tạm thời trong
thời gian hồn thành thủ tục để điều ước quốc tế có hiệu lực theo quy định của điều ước quốc tế
đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
2. Việc áp dụng tạm thời điều ước quốc tế chấm dứt nếu bên Việt Nam thông báo cho bên ký kết
nước ngoài hoặc bên ký kết nước ngồi thơng báo cho bên Việt Nam về việc chấm dứt áp dụng
tạm thời điều ước quốc tế đó, trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác hoặc bên Việt
Nam và bên ký kết nước ngoài có thỏa thuận khác.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ký điều ước quốc tế có quyền quyết định áp dụng
tạm thời và chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế đó.


4. Hồ sơ trình về việc chấm dứt áp dụng tạm thời điều ước quốc tế tương tự hồ sơ quy định tại
Điều 16 và Điều 17 của Luật này.
Điều 55. Chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế
1. Việc chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều
ước quốc tế được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa
bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
2. Thẩm quyền quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế được quy định như sau:
a) Quốc hội quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc
tế mà Quốc hội phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định tạm đình chỉ thực hiện điều
ước quốc tế do Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định ký và Quốc hội phê chuẩn, sau đó báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất;
b) Chủ tịch nước quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước
quốc tế mà Chủ tịch nước phê chuẩn hoặc quyết định gia nhập;

c) Chính phủ quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc
tế mà Chính phủ quyết định phê duyệt, gia nhập hoặc ký nhưng không phải phê chuẩn, phê
duyệt.
3. Văn bản quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế
bao gồm các nội dung sau đây:
a) Tên của điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện; thời
gian, địa điểm ký và thời hạn có hiệu lực;
b) Trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và cơ quan, tổ chức có liên quan.
4. Hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực
hiện điều ước quốc tế được thực hiện tương tự hồ sơ trình, trình tự, thủ tục quyết định sửa đổi,
bổ sung, gia hạn điều ước quốc tế quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 54 của Luật này.
TOPIC 10: Trình bày, phân tích thực thi, áp dụng điều ước quốc tế kế tiếp nhau có cùng
một đối tượng điều chỉnh theo Công ước Viên 1969 (so sánh, đối chiếu với quy định của
pháp luật và thực tiễn của Việt Nam).
phút 40, phút 58
- CƯV điều 30,59
- Thực tiễn VN dựa trên yếu tố nào: VD về thực tiễn VN, EVFTA
I. Intro
Không hiếm các trường hợp các quốc gia ký kết nhiều điều ước quốc tế có phạm vi và đối tượng
điều chỉnh giống nhau. Mà tất cả các điều ước quốc tế đó đều đang có hiệu lực. Hiện tượng này
dẫn đến cùng một vấn đề lại được điều chỉnh bởi nhiều điều ước quốc tế cùng một lúc. Theo
nguyên tắc pacta sunt servanda, quốc gia có nghĩa vụ phải thực thi thiện chí tất cả các điều ước
quốc tế đó. Trong trường hợp các điều ước mang tính chất bổ sung cho nhau, khơng trái nhau, thì
việc áp dụng đồng thời các điều ước không gây ra bất kỳ vấn đề gì. Đây là trường hợp thơng


thường trên thực tế, vì trước khi ký kết một điều ước quốc tế mới, các quốc gia sẽ rà sốt, kiểm
tra tính tương thích giữa điều ước định ký kết và các điều ước đang có hiệu lực. Nếu xung đột thì
sẽ hủy bỏ điều ước cũ, điều chỉnh điều ước mới hoặc có quy định trong điều ước mới để giải
quyết trường hợp xung đột có thể xảy ra.

Ngược lại, trong trường hợp, các quốc gia không rà sốt hoặc rà sốt rồi nhưng khơng lường
trước khả năng xung đột. Khi xung đột phát sinh, các quốc gia sẽ đối mặt với một tình huống
khơng dễ chịu gì: khi thực thi đồng thời các điều ước là không thể, việc lựa chọn một trong các
điều ước để thực hiện sẽ dẫn đến vi phạm các điều ước khác.
II. Phân tích các điều luật liên quan trong CƯV
1. Điều 30 của Công ước Viên
- Điều này quy định về “Áp dụng các điều ước nối tiếp nhau liên quan đến cùng một vấn đề”
(Application of successive treaties relating to the same subject-matter).
- Vậy “cùng một vấn đề” (the same subject-matter) là gì?
+ Điều 30 và thuyết minh của ILC khi dự thảo nên điều này không đưa ra bất kỳ tiêu chí cụ thể
nào. Hiểu theo một cách chặt chẽ thì cùng một vấn đề có thể được xác định theo ngành luật, ví
dụ nhân quyền, thương mại, mơi trường, luật biển,… Tuy nhiên, cách hiểu thế là không thực sự
hợp lý vì rõ ràng có những vấn đề được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật trên thực tế.
+ Một nhóm nghiên cứu do ILC thành lập đề xuất rằng tiêu chí để xác định “cùng một vấn đề”
nên tập trung vào câu hỏi liệu việc thực thi một nghĩa vụ của một điều ước này có ảnh hưởng
đến việc thực thi nghĩa vụ của một điều ước khác hay khơng. “Ảnh hưởng” có thể theo hai
hướng: dẫn đến không thể thực thi một trong các điều ước hoặc phá hủy mục đích và đối tượng
của một điều ước.
- Khoản 1 Điều 30 xác lập một nguyên tắc rằng các quy định được ghi nhận ở Điều 30 sẽ áp
dụng vào trường hợp điều ước quốc tế cùng điều chỉnh một vấn đề, trừ trường hợp được trù định
ở Điều 103 Hiến chương Liên hợp quốc. Điều 103 quy định Hiến chương có vị trí đặc biệt
“cao” hơn, “ưu tiên” hơn hẳn so với tất cả các điều ước quốc tế khác:
“Trong trường hợp có sự xung đột giữa nghĩa vụ của các thành viên Liên hợp quốc theo Hiến
chương này và nghĩa vụ theo bất cứ một thỏa thuận quốc tế nào khác thì nghĩa vụ theo Hiến
chương này sẽ được ưu tiên hơn.”
=> Như vậy, trong quan hệ điều ước giữa 193 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, trong
mọi trường hợp xung đột giữa Hiến chương và các điều ước quốc tế khác, các quốc gia sẽ phải
thực thi Hiến chương. Việc không thực thi nghĩa vụ trong các điều ước khác không được xem là
vi phạm, và không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý cho quốc gia liên quan.
- Theo Khoản 2 Điều 30: Khi một điều ước quy định rõ rằng nó phụ thuộc vào một điều ước

trước đó; hoặc nó khơng mâu thuẫn với điều ước trước đó hoặc sẽ có sau đó thì những quy định
của các điều ước này sẽ đều có giá trị.
Ví dụ điển hình là Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS.
Việt Nam đã tham gia một số điều ước quốc tế khác mang tính thực thi UNCLOS trong đó có
Hiệp định thực thi các quy định của UNCLOS về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa.
Điều ước này là một điều ước phụ thuộc vào UNCLOS, có nêu rõ trong Điều 4 của nó rằng:


Khơng có nội dung nào trong Hiệp định này làm phương hại đến quyền, quyền tài phán và nghĩa
vụ của các Quốc gia theo UNCLOS. Thỏa thuận này sẽ được giải thích và áp dụng trong bối
cảnh và theo cách nhất qn với UNCLOS.
Ngồi ra theo chính Khoản 3 Điều 331 của UNCLOS có quy định rằng các quốc gia thành viên
có thể ký các điều ước liên quan với điều kiện là các điều ước này không chứa quy định không
phù hợp với việc thực hiện nội dung và mục đích của Cơng ước, khơng phù hợp các ngun tắc
cơ bản đã được nêu, làm ảnh hưởng tới các quyền hay nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
khác. Mục đích của điều khoản là để duy trì tính toàn vẹn của chế độ được tạo ra bởi và theo
UNCLOS. Nó cấm trước các quốc gia tham gia một điều ước khác không phù hợp với UNCLOS.
- Khoản 3 Điều 30 Công ước Viên ghi nhận một quy định có nguồn gốc từ pháp luật quốc gia nguyên tắc “lex posterior derogate legi priori”: luật ra đời sau được ưu tiên so với luật ra đời
trước. Khi các quốc gia là thành viên của một điều ước quốc tế ra đời trước đồng thời cũng là
thành viên của một điều ước ra đời sau đó, mà điều ước ra đời trước khơng bị hủy bỏ hay đình
chỉ thi hành, thì điều ước ra đời trước đó chỉ có thể áp dụng trong chừng mực phù hợp với
điều ước ra đời sau. Ví dụ như Canada và Đan Mạch là thành viên của cả Công ước Geneva về
Thềm lục địa năm 1958 và Công ước Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), cả hai Cơng ước này đều
đang có hiệu lực, nhưng Công ước Geneva chỉ được áp dụng trong quan hệ hai nước nếu các quy
định trong đó khơng trái với UNCLOS. Việc xác định một điều ước là trước hay sau dựa vào
ngày nó được thơng qua. Ngun tắc đó được thể hiện ở khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng
một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn
bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”
- Khoản 4 Điều 30 quy định một trường hợp đặc biệt khi một quốc gia đồng thời là thành viên

của hai điều ước, nhưng một quốc gia khác chỉ là thành viên của một trong hai điều ước. Khi đó,
đối với quốc gia đồng thời là thành viên của hai điều ước, điều ước nào mà cả hai nước cùng là
thành viên sẽ được áp dụng, bất kể điều ước đó ra đời trước hay sau. Ví dụ như Canada và
Mỹ đều là thành viên của Công ước Geneva về Thềm lục địa năm 1958. Canada là thành viên
của UNCLOS, nhưng Mỹ thì khơng. Như vậy, trừ khi có quy định tập quán khác, trong quan hệ
giữa Canada và Mỹ, Canada phải áp dụng Công ước Geneva năm 1958.
- Khoản 5 Điều 30 ghi nhận rằng các quy định xác định ưu tiên ở khoản 4 không ảnh hưởng đến
vấn đề trách nhiệm pháp lý. Nếu việc áp dụng một điều ước dẫn đến vi phạm quyền của một
quốc gia khác, thì quốc gia bị vi phạm có quyền yêu cầu quốc gia vi phạm chịu trách nhiệm pháp
lý quốc tế.
2. Điều 59 Công ước Viên
Điều này quy định về Chấm dứt hoặc tạm đình chỉ việc thi hành một điều ước do hậu quả
của việc ký kết một điều ước sau
- Từ Khoản 1 điều này có thể hiểu một điều ước sẽ bị chấm dứt khi tất cả các bên tham gia đều
ký kết một điều ước khác, tuy nhiên yếu tố “cùng một vấn đề” xuất phát từ điều ước khác đó,
hoặc bằng cách nào đó thể hiện rõ ràng ý định của các bên vấn đề thực chất phải được điều ước
sau này điều chỉnh, hoặc những quy định của điều ước sau mâu thuẫn với các quy định của điều


×